Những hạn chế của pháp luật về hợp đồng kinh doanh bảo hiểm trong luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam và một số kiến nghị hoàn thiện

Nhóm các giải pháp ở cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và người mua bảo hiểm Trên cơ sở quy định tại khoản 2 Điều 125 của Luật Kinh doanh bảo hiểm thì “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định về cấp giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép đặt văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam, quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”. Chính vì vậy, trên thực tế thì việc xử lý vi phạm pháp luật bảo hiểm về nội dung trên chưa thật sự tạo được tính khả thi cao, nếu việc vi phạm của doanh nghiệp bảo hiểm thuộc nội dung kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khi mà cơ chế thực hiện về hoạt động kiểm tra, giám sát này chưa được quy định cụ thể và rõ ràng bởi Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành luật này.Vì lẽ đó, nên quy định chặt chẽ về cơ chế hoạt động, nội dung kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm, thì khi đó, vấn đề xử lý vi phạm vấn đề trên sẽ được đảm bảo hơn. Về phía các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải có những quy định mang tính răn đe cao đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, cả ở nội dung xử phạt vi phạm hành chính đến truy cứu trách nhiệm hình sự, với các tội phạm trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.4 Bởi trên thực tế, việc đình chỉnh hợp đồng bảo hiểm một cách tùy tiện của doanh nghiệp bảo hiểm có thể sẽ là một trong những nguyên nhân dẫn đến trục lợi phí bảo hiểm từ phía doanh nghiệp bảo hiểm đối với bên mua bảo hiểm. Tức là tăng mức xử phạt vi phạm đối với doanh nghiệp bảo hiểm là điều cần thiết trong giai đoạn phát triển đa dạng các loại hình kinh doanh bảo hiểm ở nước ta hiện nay. Về trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm cần phải trang bị cho mình kiến thức pháp luật nhất định về bảo hiểm, đảm bảo yếu tố thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm và thực hiện quyền pháp lý của mình khi cần thiết để vừa tham gia bảo hiểm để phát huy được ý nghĩa từ hoạt động này, vừa đảm bảo quyền lợi cho mình khi có sự kiện pháp lý phát sinh làm thay đổi quyền hoặc nghĩa vụ pháp lý của mình liên quan đến pháp luật về bảo hiểm nói chung, hợp đồng bảo hiểm nói riêng.

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 24/01/2022 | Lượt xem: 131 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những hạn chế của pháp luật về hợp đồng kinh doanh bảo hiểm trong luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam và một số kiến nghị hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 127 NHỮNG HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG KINH DOANH BẢO HIỂM TRONG LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN Nguyễn Minh Nhật và Lâm Hồng Loan Chị* Bộ môn Luật Kinh tế, Trường Đại học Tây Đô (Email: ngminhat@gmail.com) Ngày nhận: 15/12/2019 Ngày phản biện: 04/01/2020 Ngày duyệt đăng: 16/4/2020 TÓM TẮT Ở Việt Nam trong những năm qua, trước sự phát triển ngày càng đa dạng về chủ thể kinh doanh cũng như sự đa dạng về nội dung bảo hiểm thì việc phát sinh tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm có xu hướng tăng với tính chất ngày càng phức tạp. Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 (sửa đổi bổ sung năm 2010, 2019) ra đời nhằm điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này, đồng thời góp phần hạn chế những tranh chấp có thể xảy ra liên quan đến hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì Luật kinh doanh bảo hiểm hiện hành còn một số hạn chế cần phải sửa đổi bổ sung trong thời gian sắp tới. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm phân tích một số hạn chế cơ bản cũng như đề xuất những biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế đó. Từ khóa: Luật kinh doanh bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm, tranh chấp bảo hiểm Trích dẫn: Nguyễn Minh Nhật và Lâm Hồng Loan Chị, 2020. Những hạn chế của pháp luật về hợp đồng kinh doanh bảo hiểm trong luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam và một số kiến nghị hoàn thiện. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô. 08: 127-135. *Ths. Lâm Hồng Loan Chị – Giảng viên Bộ môn Luật Kinh tế, Trường Đại học Tây Đô Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 128 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VÀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM Pháp luật về hợp đồng của Việt Nam được quy định ở nhiều văn bản luật khác nhau như trong Bộ Luật dân sự 2015 (Bộ Luật dân sự), Luật Thương mại 2005 sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Luật Quản lý ngoại thương 2017, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010, 2019 (Luật Kinh doanh bảo hiểm) Trong đó, những quy định về hợp đồng trong Bộ Luật dân sự được xem là những quy định chung, mang tính nền tảng cho hợp đồng, dùng để điều chỉnh các vấn đề pháp lý cơ bản về quan hệ dân sự được xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận, tự nguyện và tự chịu trách nhiệm của các bên và quan hệ dân sự được biểu hiện trong đó bao gồm dưới dạng hợp đồng. Do đó, theo Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015 khái niệm “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Vì những lẽ trên, những quy định về hợp đồng trong Bộ Luật dân sự được áp dụng chung cho tất cả các loại hợp đồng và luật khác trong từng lĩnh vực đặc thù nếu có quy định thì vẫn được áp dụng, nếu không trái với quy định về hợp đồng của Bộ luật này. Chính vì vậy, việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực cụ thể sẽ có luật chuyên ngành, như hợp đồng bảo hiểm trong Luật Kinh doanh bảo hiểm, hợp đồng kinh doanh bất động sản trong Luật Kinh doanh bất động sản, hợp đồng mua bán hàng hóa trong Luật Thương mại Đây được xem là các quy định về giao kết hợp đồng chuyên ngành và các quy định này sẽ được ưu tiên áp dụng khi phát sinh các tranh chấp liên quan đến hợp đồng cụ thể đó. Trong thời kinh tế thị trường hiện nay, việc khắc phục, bù đắp những thiệt hại xảy ra do rủi ro thì việc ký kết hợp đồng bảo hiểm ngày càng trở nên cần thiết và phổ biến. Việc điều chỉnh hoạt động này được quy định trong Luật Kinh doanh bảo hiểm và là văn bản pháp luật chủ yếu trong việc điều chỉnh và ký kết hợp đồng bảo hiểm. Theo đó, Điều 385 Bộ Luật dân sự quy định: "Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự" và theo khoản 1 Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm: "Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm". Hợp đồng bảo hiểm được chia làm ba loại: Hợp đồng bảo hiểm con người; hợp đồng bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự1. Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tuy được xem là khá tiến bộ và phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn một số những hạn chế nhất định và có thể được xem là nguyên nhân 1 Khoản 2 Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 sửa đổi bổ sung 2010, 2019 Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 129 chính dẫn đến việc tranh chấp hợp đồng bảo hiểm đa dạng và phức tạp hiện nay. 2. HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM 2.1. Sự chưa thống nhất từ chính luật chuyên ngành về chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm Xét từ khía cạnh dân sự, hợp đồng bảo hiểm có thể coi là một loại tài sản có giá trị (một loại giấy tờ có giá) nên có thể tiến hành chuyển nhượng như một loại tài sản. Tuy nhiên, đây là một loại tài sản có tính chất phức tạp, việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm sẽ kéo theo các hệ quả pháp lý phức tạp về phương thức bảo hiểm, người thụ hưởng... Điều 262 Luật Kinh doanh bảo hiểm còn quy định chung chung và đơn giản về chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm mà chưa quy định về điều kiện chuyển nhượng, thủ tục chuyển nhượng, quyền hạn và trách nhiệm của các bên trong quan hệ cũng như hậu quả pháp lý sau khi tiến hành chuyển nhượng. Hơn thế, hợp đồng bảo hiểm con người, hợp đồng bảo hiểm tài sản, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự có nội dung và 2 Điều 26 Luật Kinh doanh bảo hiểm "Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm: 1. Bên mua bảo hiểm có thể chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. 2.Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc chuyển nhượng và doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản chấp thuận việc chuyển nhượng đó, trừ trường hợp việc chuyển nhượng được thực hiện theo tập quán quốc tế." tính chất hoàn toàn khác nhau, việc chỉ có một quy định chung về tất cả các loại bảo hiểm nêu trên là điều không hợp lý. Một số thuật ngữ trong Luật Kinh doanh bảo hiểm chưa được giải thích rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau gây không ít khó khăn trong việc áp dụng và trong giải quyết tranh chấp. Như đã biết, theo khoản 2 Điều 20 của Luật Kinh doanh bảo hiểm: “khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm”. Vậy thì, việc quyền tính lại phí bảo hiểm lúc này là quyền đơn phương của doanh nghiệp bảo hiểm hay quyền thỏa thuận của bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm. Bởi theo quy định tại khoản 11 Điều 3 của Luật Kinh doanh bảo hiểm: “phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm theo thời hạn và phương thức do các bên thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm” nhưng cũng tại Điều 3, cụ thể là khoản 24 của luật này, thì việc “tính toán bảo hiểm”, trong đó bao gồm tính phí bảo hiểm là hoạt động “để bảo đảm an toàn tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm” và cũng là quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 17 của Luật Kinh doanh bảo hiểm. Vì vậy, xét dưới góc độ của quyền lợi của bên mua bảo hiểm khi rơi vào trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm tính lại phí bảo hiểm là chưa đảm bảo yếu tố thỏa thuận. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 130 Ở các Điều 34, 35, 39 Luật Kinh doanh bảo hiểm có cụm từ "giá trị hoàn lại" và ở Điều 34, 39, 42 Luật Kinh doanh bảo hiểm có cụm từ “chi phí hợp lý” nhưng không có bất kỳ sự giải thích định nghĩa nào về hai cụm từ trên nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Ví dụ, theo quy định tại Khoản 3 Điều 39 Luật Kinh doanh bảo hiểm: “Trong những trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều này, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm hoặc toàn bộ số phí bảo hiểm đã đóng sau khi đã trừ các chi phí hợp lý có liên quan; nếu bên mua bảo hiểm chết thì số tiền trả lại được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế”. Việc xác định chi phí nào là chi phí hợp lý ở đây sẽ quyết định số tiền trả lại của doanh nghiệp bảo hiểm, chi phí hợp lý lại do doanh nghiệp bảo hiểm xác định, việc không có quy định và tiêu chí xác định cụ thể sẽ tạo ra rủi ro lớn cho bên mua bảo hiểm, trong những trường hợp như vậy người thiệt thòi là bên mua bảo hiểm. Với những doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau thì có cách tính cũng khác nhau và thậm chí có thể là sự khác biệt trong từng hợp đồng bảo hiểm cụ thể và khi có tranh chấp xảy ra thì sẽ phụ thuộc vào hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan thực thi pháp luật bởi không có quy phạm pháp luật quy định. Là một trong những điểm bất cập của Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành về quyền của bên mua bảo hiểm. Hay ở điểm d Điều 31 Luật Kinh doanh bảo hiểm thì, bên mua bảo hiểm có thể mua bảo hiểm cho "người khác, nếu bên mua có quyền lợi có thể được bảo hiểm". Vấn đề ở chỗ, nếu bên mua cho rằng quyền lợi này của mình được bảo đảm nếu mua bảo hiểm cho người khác nhưng doanh nghiệp bảo hiểm thì không thấy mối liên hệ về quyền lợi của người mua bảo hiểm và người được bảo hiểm và do đó dẫn đến thiệt hại cho cả người mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm. Hoặc, doanh nghiệp bảo hiểm hoàn toàn không thấy mối liên hệ nào về quyền lợi của người mua bảo hiểm và người được bảo hiểm nhưng vẫn cho ký hợp đồng bảo hiểm vì lợi nhuận. Như vậy, quy định này ẩn chứa nhiều rủi ro dẫn đến vi phạm pháp luật và tranh chấp trong hợp đồng bảo hiểm. Trong giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm hiện nay, vấn đề nổi cộm nhất là vấn đề xác định lỗi và mức độ lỗi đối với hành vi vi phạm hợp đồng để từ đó có cách giải quyết thỏa đáng quyền lợi cho các bên tranh chấp. Trong khi đó, vấn đề này trong nội dung luật hiện nay còn thiếu nên gây nhiều khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp loại này. Có thể nói, yếu tố lỗi trong các quy định của pháp luật hợp đồng bảo hiểm là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến tính hiệu lực của hợp đồng, đặc biệt là lợi ích trực tiếp của các bên trong quan hệ bảo hiểm. Tuy nhiên, đây là vấn đề khá phức tạp, khó xác định chính xác. Hậu quả pháp lý của yếu tố lỗi được xác định đem đến cho các bên những quyền lợi rất khác nhau. Vì vậy, việc xác định đúng loại lỗi, mức độ lỗi có ý nghĩa quan trọng trong giải quyết quyền lợi các bên có tranh chấp. Chính vì vấn đề trên chưa được làm rõ nên các tranh chấp xoay quanh yếu tố Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 131 này, một số chủ thể đã lợi dụng dẫn đến những tranh chấp hợp đồng bảo hiểm. Như chúng ta đều biết, “nghĩa vụ sinh ra là để được thực hiện và thông thường nghĩa vụ được thực hiện đầy đủ một cách tự nguyện. Tuy nhiên, vì nhiều lý do mà nghĩa vụ đôi khi không được thực hiện đúng và người có quyền cần có các biện pháp bảo đảm” 3. Chính vì vậy, việc xác định lỗi và mức độ lỗi trong hành vi vi phạm hợp đồng nói chung, hợp đồng bảo hiểm nói riêng, là một vấn đề pháp lý quan trọng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của quan hệ pháp lý. 2.2. Nhóm các nguyên nhân về đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm và nhận thức của người mua bảo hiểm Một số những doanh nghiệp bảo hiểm, đại lý bảo hiểm khi tư vấn bán bảo hiểm cho người mua đã vì lợi nhuận mà không tư vấn một cách đầy đủ nhất các điều khoản trong hợp đồng, về quyền lợi và nghĩa vụ của người mua bảo hiểm, cũng như việc che giấu không tư vấn cho người mua biết họ có thể gặp một số khó khăn về tài chính khi tham gia hợp đồng bảo hiểm. Do vậy, người mua khi tham gia hợp đồng bảo hiểm một thời gian rồi mới phát hiện ra là mình không có khả năng để có thể theo hết hạn của hợp đồng, khi đó người mua hủy hợp đồng và hậu quả là họ sẽ mất toàn bộ số phí đã đóng hay chỉ được nhận lại một 3Đỗ Văn Đại, 2017. Luật Nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam (Bản án và Bình luận Bản án) – Tập 1, Nxb.Hồng Đức, Tp.Hồ Chí Minh, tr.9 phần phí. Tuy rằng điều này là không vi phạm pháp luật nhưng không thể không nhắc đến lỗi của bên bán bảo hiểm khi cố tình không tư vấn đầy đủ cho người mua bảo hiểm. Và, ngược lại để có thể cạnh tranh và giữ chân khách hàng nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đã mạo hiểm cho người mua nợ phí. Điều này chỉ có thể là nguy cơ làm cho tranh chấp hợp đồng bảo hiểm có thể diễn ra nhiều hơn nếu số phí nợ ngày càng nhiều và người mua thì mất khả năng thanh toán. Thêm vào đó người mua bảo hiểm cũng có thể vì mục đích trục lợi mà khai báo thông tin gian dối khi tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm, tạo sự kiện bảo hiểm không có thật nhằm nhận tiền bảo hiểm. Đồng thời, sự thiếu hiểu biết của người mua bảo hiểm cũng đã tạo điều kiện cho bên bán bảo hiểm lợi dụng nên sau khi ký hợp đồng người mua mới biết mình đã bị lừa gạt và tranh chấp xảy ra. 3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM Với những hạn chế còn mắc phải thì pháp luật về hợp đồng kinh doanh bảo hiểm cần phải được sửa chữa, bổ sung trong thời gian sắp tới để có thể hoàn thiện dần và giảm thiểu một cách thấp nhất những tranh chấp trong hợp đồng kinh doanh bảo hiểm, đảm bảo một bầu không khí lành mạnh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, một loại hình kinh doanh hứa hẹn sẽ còn phát triển mạnh trong tương lai. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 132 3.1. Tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải thích từ ngữ Trong Luật Kinh doanh bảo hiểm có những cụm từ được sử dụng nhưng không được giải thích rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu và cách giải quyết khác nhau làm phát sinh tranh chấp. Cần sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật để có thể hiểu rõ được các cụm từ như "giá trị hoàn lại" ở Điều 34, Điều 35; "chi phí hợp lý" ở Điều 24, Điều 34, Điều 39, Điều 42; "có quyền lợi có thể được bảo hiểm" Khoản 2 Điều 31; Cần quy định rõ trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm tính lại phí bảo hiểm theo khoản 2 Điều 20 của Luật Kinh doanh bảo hiểm là phải dựa trên sự thỏa thuận của hai bên đúng với bản chất của quy định về Phí bảo hiểm tại khoản 11 Điều 3 luật này. Tránh được tình trạng doanh nghiệp bảo hiểm lạm quyền, khi dựa vào quy định tại điểm c Điều 17 và khoản 2 Điều 20 Luật Kinh doanh bảo hiểm để đơn phương đình chỉ hợp đồng bảo hiểm, đưa bên mua rơi vào các hậu quả bất lợi khi hợp đồng bảo hiểm bị đình chỉ. Chẳng hạn như vấn đề đòi lại khoản phí đã đóng, nếu hợp đồng bảo hiểm bị đình chỉ trong trường hợp trên, mà thời gian đóng bảo hiểm là trên hai năm, thì không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 35, mà lại không có thỏa thuận giữa hai bên về việc hoàn trả phí bảo hiểm khi bị đình chỉ, thì phải chăng, bên mua bảo hiểm đã mất đi quyền yêu cầu hoàn trả phí bảo hiểm đã đóng. Ở Điều 29 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định thời gian trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường "Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường theo thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm; trong trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ về yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường". Vấn đề đặt ra là sau 15 ngày doanh nghiệp bảo hiểm chậm trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường thì sao? Ở đây Luật Kinh doanh bảo hiểm không có quy định cụ thể chế tài cho trường hợp chậm trễ này. Nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra người được bảo hiểm bị chậm trả tiền bảo hiểm dẫn đến thiệt hại trong việc khắc phục hậu quả, và hậu quả này ai sẽ phải chịu. Do vậy, ở đây sẽ hợp lý hơn nếu Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định chế tài cụ thể cho việc quá thời hạn trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường, điều đó sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người mua bảo hiểm đồng thời hạn chế được tranh chấp phát sinh cho hợp đồng bảo hiểm. Cần xác định lỗi cố ý, lỗi vô ý, lỗi liên quan đến cung cấp thông tin, lỗi liên quan đến sự kiện bảo hiểm, mối quan hệ giữa việc cung cấp thông tin và sự kiện bảo hiểm Điều này là vô cùng cần thiết nhằm hạn chế tranh chấp phát sinh trong hợp đồng bảo hiểm. Và ta có thể quy định cụ thể các trường hợp nào được xem là lỗi cố ý, các trường hợp nào được xem là lỗi vô ý, hoặc không có lỗikhi đó ta có thể áp dụng thống nhất tránh sự lợi dụng của các bên. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 133 3.2. Nhóm các giải pháp ở cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và người mua bảo hiểm Trên cơ sở quy định tại khoản 2 Điều 125 của Luật Kinh doanh bảo hiểm thì “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định về cấp giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép đặt văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam, quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”. Chính vì vậy, trên thực tế thì việc xử lý vi phạm pháp luật bảo hiểm về nội dung trên chưa thật sự tạo được tính khả thi cao, nếu việc vi phạm của doanh nghiệp bảo hiểm thuộc nội dung kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khi mà cơ chế thực hiện về hoạt động kiểm tra, giám sát này chưa được quy định cụ thể và rõ ràng bởi Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành luật này.Vì lẽ đó, nên quy định chặt chẽ về cơ chế hoạt động, nội dung kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm, thì khi đó, vấn đề xử lý vi phạm vấn đề trên sẽ được đảm bảo hơn. Về phía các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải có những quy định mang tính răn đe cao đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, cả ở nội dung xử phạt vi phạm hành chính đến truy cứu trách nhiệm hình sự, với các tội phạm trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.4 Bởi trên thực tế, việc đình chỉnh hợp đồng bảo hiểm một cách tùy tiện của doanh nghiệp bảo hiểm có thể sẽ là một trong những nguyên nhân dẫn đến trục lợi phí bảo hiểm từ phía doanh nghiệp bảo hiểm đối với bên mua bảo hiểm. Tức là tăng mức xử phạt vi phạm đối với doanh nghiệp bảo hiểm là điều cần thiết trong giai đoạn phát triển đa dạng các loại hình kinh doanh bảo hiểm ở nước ta hiện nay. Về trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm cần phải trang bị cho mình kiến thức pháp luật nhất định về bảo hiểm, đảm bảo yếu tố thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm và thực hiện quyền pháp lý của mình khi cần thiết để vừa tham gia bảo hiểm để phát huy được ý nghĩa từ hoạt động này, vừa đảm bảo quyền lợi cho mình khi có sự kiện pháp lý phát sinh làm thay đổi quyền hoặc nghĩa vụ pháp lý của mình liên quan đến pháp luật về bảo hiểm nói chung, hợp đồng bảo hiểm nói riêng. Tóm lại, để có thể đảm bảo một thị trường bảo hiểm lành mạnh và an toàn, hạn chế đến mức thấp nhất những tranh chấp ngoài ý muốn có thể phát sinh thì điều đó cần có sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước thông qua hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh chuyên ngành không ngừng được hoàn 4 Nguyễn Thái Công, Một số vấn đề về trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm và tội gian lận kinh doanh bảo hiểm, Bộ Tư pháp, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien- cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2467 [truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2020] Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 134 thiện. Bên cạnh đó, doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức, cá nhân mua bảo hiểm cũng cần phải nắm rõ những quy định của pháp luật về lĩnh vực đầu tư tài chính đặc thù này. Có như vậy thị trường kinh doanh bảo hiểm Việt Nam mới thực sự tạo được tính hiệu quả và phát triển bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quốc Hội, 2015. Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13. Truy cập ngày 10/02/2019. Địa chỉ truy cập: timkiem.aspx?type=0&s=0&SearchIn=T itle,Title1&Keyword=B%E1%BB%99% 20lu%E1%BA%ADt%20d%C3%A2n% 20s%E1%BB%B1%202015. 2. Quốc Hội, 2000. Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10. Truy cập ngày 10/02/2019. Địa chỉ truy cập: toanvan.aspx?ItemID=5748&Keyword= Lu%E1%BA%ADt%20Kinh%20doanh %20b%E1%BA%A3o%20hi%E1%BB %83m%202000. 3. Quốc Hội, 2010. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh Bảo hiểm 2000. Truy cập ngày: 10/02/2019. Địa chỉ truy cập: toanvan.aspx?ItemID=26357&Keyword =Lu%E1%BA%ADt%20Kinh%20doan h%20b%E1%BA%A3o%20hi%E1%BB %83m%202010. 4. Quốc Hội, 2019. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh Bảo hiểm 2000. Truy cập ngày: 20/8/2019. Địa chỉ truy cập: https://bientap.vbpl.vn//FileData/Tw/List s/vbpq/Attachments/136041/VanBanGo c_42.signed.pdf. 7. Đỗ Văn Đại, 2017. Luật Nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam (Bản án và Bình luận Bản án) – Tập 1, Nxb.Hồng Đức, Tp.Hồ Chí Minh, tr.9 8. Đỗ Văn Đại, 2017. Luật Nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam (Bản án và Bình luận Bản án) – Tập 2, Nxb.Hồng Đức, Tp.Hồ Chí Minh, tr.9 9. Nguyễn Thái Công, Một số vấn đề về trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm và tội gian lận kinh doanh bảo hiểm, Bộ Tư pháp, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghie n-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2467, truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2020. 10. Tòa án nhân dân tối cao, Công bố án lệ, https://anle.toaan.gov.vn/webcenter/port al/anle/anle, truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2019 11. Nguyễn Thái Công, Một số vấn đề về trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm và tội gian lận kinh doanh bảo hiểm, Bộ Tư pháp, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghie n-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2467, truy cập ngày 28 tháng 02 năm 2020. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 135 ANALYSIS OF LIMITATIONS OF INSURANCE BUSINESS CONTRACTS IN THE VIETNAMESE INSURANCE BUSINESS LAW AND SOME SUGGESTIONS Nguyen Minh Nhat and Lam Hong Loan Chi Department of Economics Law, Tay Do University (Email: ngminhat@gmail.com) ABSTRACT In recent years, there are diverse business entities and types of insurances in Vietnam. The number of insurance contract disputes has increased and become more complex. The Insurance Business Law issued in 2000 (modified in 2010 and 2019)) aimed at regulating the problem arising in this field and contributing to reducing the disputes on insurance contracts. The achieved results have been obtained. However, the current Insurance Business Law still has some limitations that need to be amended in the near future. The objective of this study was to analyze some remaining limitations and to suggest some improvement solutions. Keywords: Insurance Business Law, contracts, disputes

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhung_han_che_cua_phap_luat_ve_hop_dong_kinh_doanh_bao_hiem.pdf
Tài liệu liên quan