Thứ hai, pháp luật quy định quyền
hưởng dụng được xác lập theo di chúc. Quy
định này là cơ sở pháp lý để chủ sở hữu tài
sản lựa chọn cách định đoạt tài sản của mình
sau khi chết cho người hưởng dụng được chỉ
định trong di chúc chiếm hữu, sử dụng và
thu được hoa lợi, lợi tức từ tài sản là đối
tượng hưởng dụng. Theo quy định của pháp
luật, người lập di chúc có quyền lựa chọn
người có khả năng duy trì, sử dụng tài sản
do mình để lại là bất kỳ ai hoặc là cá nhân
thuộc diện thừa kế theo pháp luật hoặc là
người không thuộc diện thừa kế theo pháp
luật hoặc chỉ định cho pháp nhân được
hưởng dụng tài sản. Việc lựa chọn người
hưởng dụng tài sản do người để lại tài sản
quyết định. Do vậy, trong số những người
thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người
để lại tài sản là đối tượng hưởng dụng, người
lập di chúc chỉ định người này mà không chỉ
định người kia là dựa vào khả năng của
người có thể thực hiện được quyền hưởng
dụng theo ý chí chủ quan của người lập di
chúc. Người lập di chúc để lại tài sản cho
người hưởng dụng là bất kỳ ai hoặc là người
thuộc diện thừa kế theo luật hoặc là người
không thuộc diện thừa kế theo luật mà là một
cá nhân khác hoặc pháp nhân.
Thứ ba, quyền hưởng dụng được thực
hiện nhằm giúp đỡ những chủ thể có nhu cầu
sử dụng tài sản của người để lại tài sản một
cách kịp thời mà không phải mất nhiều công
sức, tài sản để tạo lập các tài sản để đáp ứng
nhu cầu sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ
của mình.
Thứ tư, trong cộng đồng dân cư, trong
hộ gia đình có thể áp dụng quyền hưởng
dụng một mảnh đất, ngôi nhà, vườn cây, ao
cá và những vật phẩm tiêu dùng khác giao
được giao cho một người quản lý, sử dụng
để khai thác những hoa lợi, lợi tức và người
này được hưởng một phần trong số các hoa
lợi thu được, phần hoa lợi còn lại để phục vụ
cho việc duy trì nhà thờ của một họ, một tộc
và người hưởng dụng này thực hiện các hành
vi như một chủ sở hữu tài sản. Tài sản là đối
tượng của quyền hưởng dụng được quản lý,
duy trì, phát triển do người có quyền hưởng
dụng thực hiện
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 240 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những khía cạnh pháp lý của quyền hưởng dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 6(406) - T3/202042 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
1. Quyền hưởng dụng là một vật quyền
Quyền hưởng dụng được quy định từ
Điều 257 đến Điều 266 tại Mục 2 Chương
XIV về quyền khác đối với tài sản trong Bộ
luật Dân sự (BLDS) năm 2015. Điều 257
BLDS năm 2015 quy định: “Quyền hưởng
dụng là quyền của chủ thể được khai thác
công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức đối với
tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác
trong một thời hạn nhất định”. Quyền hưởng
dụng được xác lập từ một trong ba căn cứ
theo quy đinh tại Điều 58: “Quyền hưởng
dụng được xác lập theo quy định của luật,
theo thỏa thuận hoặc theo di chúc”.
Các quy định tại Điều 257 và Điều 258
BLDS năm 2015 không những tạo ra khả
năng thực hiện các quyền dân sự của chủ sở
hữu, mà còn là điều kiện cho các chủ thể
không phải là chủ sở hữu khai thác tài sản.
Quy định về quyền hưởng dụng là quy định
đáp ứng được kịp thời nhu cầu của chủ thể
và là một biện pháp tiết kiệm trong việc khai
thác tài sản, mà không phải khi nào cũng
phải thông qua các hợp đồng thuê, mượn;
giảm được rất nhiều những chi phí về tài sản
và thời gian. Chủ thể có quyền hưởng dụng
khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi
tức trên tài sản tương tự như chủ sở hữu,
trong một thời hạn nhất định.
nhỮng khÍa cẠnh pháp lÝ của QuYền hƯỞng dụng
PGS.TS. Phùng Trung Tập*
* Giảng viên Cao cấp Trường Đại học Luật Hà Nội
Thông tin bài viết:
Từ khoá: Quyền hưởng dụng, vật quyền,
di chúc, quan điểm lập pháp.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 21/12/2019
Biên tập : 08/01/2020
Duyệt bài : 12/01/2020
Article Infomation:
Keywords: Usufruct rights; jus in rem
(real right); wills; legislative views.
Article History:
Received : 21 Dec. 2019
Edited : 08 Jan. 2020
Approved : 12 Jan. 2020
Tóm tắt:
Bài viết phân tích, đánh giá những quy định về căn cứ xác lập
quyền hưởng dụng và việc áp dụng những quy định này vào đời
sống thực tế nhằm đáp ứng nhu cầu của các chủ thể trong sản
xuất, kinh doanh, làm dịch vụ có liên quan đến quyền hưởng
dụng tài sản của người khác.
Abstract:
This article provides analysis and assessesment of legal
regulations on the ground of establishing the usufruct rights and
their application to real life to meet the needs of the entities in
production, doing business and providing services related to the
right to use the properties of others.
43Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Quy định về căn cứ xác lập quyền
hưởng dụng theo di chúc là một cải cách căn
bản trong việc khai thác tài sản của người đã
chết bằng việc hưởng dụng, mà không phải
là người được chuyển giao tài sản và quyền
sở hữu tài sản theo thừa kế. Quy định về căn
cứ xác lập quyền hưởng dụng theo di chúc
đã tạo ra khả năng duy trì khối di sản của
người chết để lại và bảo đảm quyền của
những người thừa kế theo pháp luật, khi
người hưởng dụng đầu tiên qua đời hoặc hết
thời hạn hưởng dụng tối đa theo luật định là
30 năm. Chủ thể hưởng dụng có thể là cá
nhân, có thể là pháp nhân. Theo quy định tại
khoản 2 Điều 260 BLDS năm 2015, thì
người hưởng dụng có quyền cho thuê quyền
hưởng dụng. Quy định này nhằm khai thác
triệt để tài sản là đối tượng hưởng dụng,
tránh lãng phí trong trường hợp người hưởng
dụng không có nhu cầu hoặc không khai thác
hết giá trị kinh tế của tài sản hưởng dụng.
Quy định này phù hợp với nền kinh tế thị
trường, đặc biệt đối với việc khai thác những
tư liệu sản xuất, kinh doanh mà tài sản là sản
nghiệp như các nhà máy, hệ thống dây
chuyền trong sản xuất hàng hóa và các tư
liệu sản xuất khác. Quyền hưởng dụng tài
sản được quy định trong BLDS năm 2015 là
một bước cải cách trong tư duy lập pháp tại
Việt Nam về lĩnh vực dân sự. Quyền hưởng
dụng được hiểu là vật quyền, cho nên quyền
này có thể là đối tượng của giao dịch dân sự,
người hưởng dụng được quyền thu lợi từ
việc hưởng dụng đó. Hưởng dụng là quyền
của người không phải là chủ sở hữu của tài
sản, nhưng có quyền hưởng dụng các lợi ích
do tài sản mang lại trên căn cứ hợp đồng
hoặc do pháp luật quy định. Trước đây, trong
Bộ An Nam giản yếu năm 1883, đã phỏng
theo Luật của Cộng Hoà Pháp cùng thời kỳ
đó, tại Điều 384 quy định: Người cha được
quyền hưởng dụng pháp định đối với tài sản
riêng của con cho đến khi người con 18 tuổi
(Người mẹ chỉ được hưởng dụng tài sản của
con sau khi người cha chết với điều kiện
người mẹ không kết hôn với người khác -
không tái giá). Khi người con đến 18 tuổi,
người cha được hưởng dụng phải ghi chép
về các khoản hoa lợi phát sinh từ tài sản của
người con. Nếu chi phí nuôi dưỡng người
con này vẫn còn thừa, thì người cha có nghĩa
vụ trả lại cho người con khoản dư thừa này.
Nhưng trong Bộ Dân luật Trung Kỳ (1936)
và Dân luật Bắc Kỳ (1931) đều không có
quy định về hưởng dụng tài sản của con chưa
đến 18 tuổi. Bởi vì, theo quy định của pháp
luật dân sự Trung Kỳ và Bắc Kỳ thì các con
còn ở chung với cha, mẹ không có quyền có
tài sản riêng, trừ trường hợp các con đã
trưởng thành và đã thoát quyền khỏi người
cha, người mẹ theo phương thức: “Kiến giả
nhất phận”.
Quyền hưởng dụng còn được quy định
trong trường hợp người chồng chết trước
người vợ. Theo quy định trong Dân luật Bắc
Kỳ và Dân luật Trung Kỳ thì sau khi người
chồng chết, người vợ goá có các quyền:
Hưởng toàn quyền sở hữu tài sản của người
chồng nếu bên nhà chồng không còn bất kỳ
người thừa kế nào và quyền hưởng dụng hoa
lợi do toàn bộ di sản của người chồng để lại
sau khi chết. Người vợ có quyền hưởng dụng
tất cả tài sản của người chồng để lại, chỉ trừ
hương hoả.
Quyền hưởng dụng là quyền của người
không phải là chủ sở hữu tài sản nhưng có
quyền thu lợi dựa trên cơ sở thoả thuận hoặc
pháp luật quy định. Theo quy định tại Điều
577 Trung Kỳ hộ luật, thì quyền hưởng dụng
thu lợi có thể không có điều kiện, có kỳ hạn,
có thể có điều kiện. Điều 578 Trung Kỳ hộ
luật quy định: Quyền hưởng dụng được xác
Số 6(406) - T3/202044 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
lập có thể có kỳ hạn, có thể không có kỳ hạn
hoặc có điều kiện, nhưng tối đa đến hết cuộc
đời người hưởng dụng. Riêng đối với quyền
hưởng dụng được lập ra có kỳ hạn hay cho
một pháp nhân hưởng dụng, thì thời hạn tối
đa không quá 30 năm. Người hưởng dụng
theo quy định tại Điều 587 Trung Kỳ hộ luật
còn có quyền cho thuê, cho mượn tài sản mà
mình có quyền hưởng dụng. Ngược lại,
người hưởng dụng không có quyền yêu cầu
chủ sở hữu của tài sản mà mình hưởng dụng
phải hoàn trả một khoản tiền với lý do người
hưởng dụng đã chi phí làm tăng giá trị của
tài sản mà mình hưởng dụng (Điều 591).
Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931, quy định
quyền hưởng dụng được xác lập trên cơ sở
luật định hoặc theo thoả thuận (Điều 557).
Quyền hưởng dụng có thể vô điều kiện, hay
có thời hạn. Quyền hưởng dụng có thể được
xác lập có điều kiện hoặc có thời hạn nhưng
tối đa cũng không vượt quá cuộc đời người
hưởng dụng. Theo Điều 559 Dân luật Bắc
Kỳ, thì người hưởng dụng có quyền được
hưởng tất cả hoa lợi do việc sử dụng tài sản
mang lại. Điều 571 Dân luật Bắc Kỳ quy
định, người hưởng dụng không có quyền yêu
cầu chủ sở hữu tài sản do mình hưởng dụng
đền bù trong trường hợp người hưởng dụng
có công hoặc chi phí làm tăng giá trị của tài
sản do mình hưởng dụng.
Trước năm 1975, ở miền Nam có Bộ
Dân luật năm 1972 cũng có quy định về
quyền dụng ích. Điều 417 Bộ Dân luật năm
1972 quy định: “Quyền dụng ích là một vật
quyền cho phép hưởng dụng và thu lợi một
tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác
trong một thời gian không quá đời sống của
người thụ hưởng, với trách vụ giữ nguyên tài
sản ấy”. Và: “Người dụng ích được hưởng
mọi hoa lợi, dù là hoa lợi tự nhiên, canh tác
hay dân sự” (Điều 420). Quyền của người
dụng ích cũng tương tự như quyền của chủ
sở hữu tài sản trong quan hệ về quyền địa
dịch. Điều 425 Bộ Dân luật năm 1972 quy
định: “Người dụng ích hưởng quyền địa dịch
và mọi quyền lợi liên quan đến bất động sản
dụng ích, y như chủ sở hữu”. Về quyền và
nghĩa vụ của chủ sở hữu và của người dụng
ích được quy định tại Điều 430 Bộ Dân luật
năm 1972: “Sở hữu chủ không được phép có
hành vi gì phương hại đến quyền lợi của
người dụng ích”. Về phần người dụng ích,
cũng không thể đòi bồi hoàn gì về những tu
bổ đã làm trong thời gian dụng ích dù những
sự tu bổ này làm cho giá trị tài sản gia tăng,
khi mãn kết quyền dụng ích. Tuy nhiên,
người dụng ích hoặc người thừa kế được
quyền tháo dỡ những đồ trang trí đã được
gắn vào nơi dụng ích, nhưng những nơi ấy
phải được chỉnh lập lại như cũ. Theo quy
định tại Điều 438 Bộ Dân luật năm 1972, thì
quyền dụng ích chấm dứt trong trường hợp:
Người dụng ích chết hoặc quyền dụng ích và
quyền sở hữu được xác lập ở một chủ thể
hoặc tài sản dụng ích bị tiêu huỷ hoặc người
dụng ích không hưởng dụng tài tài sản mình
có quyền dụng ích trong thời gian 20 năm.
Quyền của người không phải là chủ sở hữu
tài sản nhưng lại có quyền hưởng dụng tài
sản của người khác theo quy định của pháp
luật hoặc theo thoả thuận được quy định
trong Dân luật Bắc Kỳ 1931, Dân luật Trung
Kỳ 1936 và Bộ dân luật Sài Gòn năm 1972.
Quyền hưởng dụng hay còn gọi là quyền
dụng ích là nhu cầu của quan hệ vật quyền;
nó phát sinh một cách khách quan trong xã
hội và đã được các bộ luật dân sự ở nước ta
dưới thời thực dân - phong kiến và trước
năm 1975 ở miền Nam Việt Nam đều có
những quy định điều chỉnh quan hệ quyền
hưởng dụng. Tuy nhiên, BLDS năm 1995 và
BLDS năm 2005 của Cộng hoà xã hội chủ
45Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
nghĩa Việt Nam đã không có một quy định
nào về quyền hưởng dụng. Nguyên nhân của
sự thiếu vắng quy định này là cách đặt vấn
đề và quan điểm lập pháp chỉ nhằm quy định
về quyền sở hữu, coi quyền sở hữu như một
quyền năng tối cao. Về thực chất, quyền sở
hữu tài sản cũng chỉ với vai trò là một thành
tố của quan hệ vật quyền mà thôi. Vì vậy
nhiều yếu tố có liên quan đến quyền sở hữu
đã không được chú ý và đề cập. Bởi vì, chỉ
tập trung quy định về quyền sở hữu tài sản,
mà không quy định về những quan hệ khác
có liên quan, đó là quan hệ vật quyền. Thực
chất, quyền hưởng dụng tài sản của người
không phải là chủ sở hữu tài sản, quyền dụng
ích tài sản của người khác đều là những
thành tố của quan hệ vật quyền.
Khắc phục sự thiếu vắng những quy
định mang tính khách quan và phù hợp với
đời sống xã hội, BLDS năm 2015 đã quy
định về quyền hưởng dụng với 10 điều, điều
chỉnh quan hệ về quyền hưởng dụng tài sản
(từ Điều 257 đến Điều 266). Những quy định
về quyền hưởng dụng nhằm điều chỉnh căn
cứ xác lập quyền hưởng dụng do luật định,
theo thoả thuận hoặc theo di chúc (Điều
258), hiệu lực của quyền hưởng dụng được
xác định từ thời điểm nhận chuyển giao tài
sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
luật liên quan có quy định khác (Điều 259),
thời hạn hưởng dụng dựa trên thỏa thuận của
chủ sở hữu tài sản và người hưởng dụng
hoặc do luật định nhưng tối đa đến hết cuộc
đời người hưởng dụng đầu tiên là cá nhân,
đối với người hưởng dụng là cá nhân; đối
với pháp nhân hưởng dụng đến khi pháp
nhân chấm dứt nhưng tối đa 30 năm nếu
pháp nhân là người hưởng dụng đầu tiên.
Như vậy, thời hạn hưởng dụng tối đa đối với
cá nhân đến thời điểm cá nhân qua đời và đối
với pháp nhân tối đa là 30 năm. Thời hạn
hưởng dụng do luật định và người hưởng
dụng có thể được chuyển giao, nhưng thời
điểm để tính thời hạn bắt đầu từ người
hưởng dụng đầu tiên.
Căn cứ vào các quy định tại các quy
định về quyền của người hưởng dụng (Điều
261); Nghĩa vụ của người hưởng dụng (Điều
262); quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu tài
sản (Điều 263) thì người hưởng dụng có các
quyền: Khai thác, sử dụng tài sản và thu hoa
lợi, lợi tức; Yêu cầu chủ sở hữu sửa chữa tài
sản là đối tượng mình đang khai thác; Cho
thuê quyền hưởng dụng đối với tài sản là đối
tượng của quyền hưởng dụng;
Quyền hưởng hoa lợi, lợi tức trong thời
hạn khai thác tài sản là đối tượng của quyền
hưởng dụng. Ngoài các quyền trên, chủ thể
hưởng dụng có nghĩa vụ được quy định tại
Điều 262 BLDS năm 2015 gồm: Nhận tài
sản theo hiện trạng, thực hiện đăng ký nếu
có quy định; khai thác tài sản phù hợp với
công dụng, mục đích sử dụng tài sản; giữ
gìn, bảo quản tài sản như của chính mình;
bảo dưỡng, sửa chữa tài sản theo định kỳ và
thực hiện nghĩa vụ phù hợp với yêu cầu kỹ
thuật theo tập quán về bảo quản tài sản; hoàn
trả tài sản cho chủ sở hữu sau khi hết thời
hạn hưởng dụng.
Tương ứng với quyền và nghĩa vụ của
bên có quyền hưởng dụng, là quyền và nghĩa
vụ của chủ sở hữu tài sản. Theo quy định tại
các Điều 263 và 264 BLDS năm 2015, thì
chủ sở hữu vẫn có quyền định đoạt tài sản,
nhưng không được làm thay đổi quyền
hưởng dụng đã được xác lập. Như vậy,
quyền hưởng dụng của chủ thể không thay
đổi trong trường hợp tài sản là đối tượng của
quyền này vẫn tồn tại và có sự thay đổi về
chủ sở hữu trong các trường hợp chuyển
giao quyền sở hữu như bán, tặng cho, đổi, để
lại thừa kế tài sản. Chủ sở hữu tài sản cũng
Số 6(406) - T3/202046 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
có quyền đơn phương truất quyền hưởng
dụng trong trường hợp người hưởng dụng vi
phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của mình như
khai thác tài sản không đúng với công dụng,
mục đích, quản lý tài sản không chu đáo dẫn
đến tình trạng hư hỏng, xuống cấp, hao
phí Ngoài các quyền trên, chủ sở hữu tài
sản, theo quy định tại khoản 4 Điều 263
BLDS năm 2015 có nghĩa vụ sửa chữa tài
sản để bảo đảm không bị suy giảm đáng kể
dẫn tới tài sản không thể sử dụng được hoặc
mất toàn bộ công dụng, giá trị tài sản.
Quan hệ về quyền hưởng dụng tài sản là
một quan hệ pháp luật dân sự. Vì vậy, có các
điều kiện phát sinh, chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ của các bên chủ thể như: khi thời
hạn của quyền sử dụng đã hết; theo thỏa
thuận của các bên; người hưởng dụng trở
thành chủ sở hữu tài sản là đối tượng của
quyền hưởng dụng (mua, được tặng cho,
khấu trừ nghĩa vụ dân sự, được thừa kế tài
sản là đối tượng đang hưởng dụng).
Quyền hưởng dụng còn bị chấm dứt
trong trường hợp người hưởng dụng từ bỏ
hoặc không thực hiện quyền hưởng dụng
trong thời hạn do luật định hoặc tài sản là đối
tượng của quyền hưởng dụng không còn
hoặc theo quyết định của Tòa án và các căn
cứ khác do luật định.
Trường hợp đối tượng của quyền hưởng
dụng không còn là trường hợp tài sản bị tiêu
hủy hoặc hưởng dụng mặt nước để khai thác
nuôi trồng thủy sản nhưng đã cạn kiệt do bị
sa mạc hóa, bị ô nhiễm nặng hoặc cây ăn quả
không còn khả năng ra hoa kết trái do bị già
cỗi, bị đổ gẫy, bị hỏa hoạn, diện tích đồi rừng
bị lở, xói mòn do mưa lũ cuốn trôi...
2. Căn cứ xác lập quyền hưởng dụng
Quyền hưởng dụng được xác lập theo
quy định tại Điều 258 BLDS năm 2015:
“Quyền hưởng dụng được xác lập theo quy
định của pháp luật, theo thỏa thuận hoặc
theo di chúc”.
Xác lập quyền hưởng dụng theo quy
định của pháp luật
Quyền hưởng dụng được xác lập theo
quy định của pháp luật là quyền của một chủ
thể được khai thác, sử dụng tài sản của một
chủ thể khác mà giữa họ không có giao kết
hợp đồng hoặc người hưởng dụng không
dựa theo di chúc của cá nhân người lập di
chúc để lại tài sản là đối tượng của quyền
hưởng dụng sau khi người để lại tài sản chết.
Về quyền hưởng dụng theo quy định của
pháp luật, thì hiện nay ở Việt Nam không có
một quy định cụ thể nào, mà chỉ quy định về
việc quản lý tài sản riêng của các con vị
thành niên; việc sử dụng, định đoạt tài sản
của người con phải vì lợi ích của người con
chưa trưởng thành. Pháp luật Việt Nam hiện
không có quy định về trường hợp cha mẹ
khấu trừ những khoản chi nuôi dưỡng con
chưa trưởng thành và khoản chi phí cho việc
học tập của con vị thành niên vào tài sản
riêng của người con này.
Trước đây, Điều 744 BLDS năm 1995
quy định về quyền tiếp tục sử dụng đất của
các thành viên trong hộ gia đình: “Hộ gia
đình được Nhà nước giao đất nông nghiệp
để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản,
nếu trong hộ có thành viên chết, thì các
thành viên khác trong hộ được quyền tiếp tục
sử dụng đất do Nhà nước giao cho hộ đó;
nếu trong hộ gia đình không còn thành viên
nào, thì Nhà nước thu hồi đất đó”.
Như vậy, theo quy định trên thì những
thành viên trong gia đình của người chết
được tiếp tục khai thác đất nông nghiệp cho
đến hết thời hạn được giao đất, là một quyền
hưởng dụng rất phổ biến ở Việt Nam.
47Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Trên thực tế, ở Việt Nam còn rất nhiều
trường hợp quyền hưởng dụng phát sinh từ
những quan hệ rất cụ thể. Ví dụ như tài sản
của người chồng hoặc người vợ đã chết để
lại hoặc là bất động sản hoặc là động sản mà
những người có quyền thừa kế các di sản này
của người chồng hoặc người vợ đã chết,
nhưng không có tranh chấp về việc hưởng di
sản và không có yêu cầu chia thừa kế di sản,
thì người chồng hoặc người vợ còn sống có
quyền hưởng dụng tài sản của người đã chết
có thể đến hết đời, nếu những người có
quyền hưởng thừa kế không có yêu cầu chia
di sản.
+ Xác lập quyền hưởng dụng theo thỏa
thuận
Quyền hưởng dụng được xác lập theo
thỏa thuận là việc bên có tài sản là động sản
hoặc bất động sản thỏa thuận với bên có
hưởng dụng tài sản đó có thời hạn hoặc
không có thời hạn, theo đó bên hưởng dụng
có quyền sử dụng tài sản là đối tượng của
hương dụng để hưởng hoa lợi, lợi tức hoặc
nhằm đáp ứng nhu cầu sinh sống của bản
thân hoặc của các thành viên trong gia đình
người có quyền hưởng dụng.
Hợp đồng hưởng dụng tài sản của chủ
sở hữu cũng thỏa mãn các điều kiện về chủ
thể, về tài sản được phép chuyển giao, về nội
dung, về hình thức, thủ tục theo luật định.
Hợp đồng hưởng dụng là hợp đồng dân sự,
cho nên có nội dung của một hợp đồng dân
sự. Nội dung của hợp đồng hưởng dụng tuân
theo quy định tại Điều 398 BLDS năm 2015
về đối tượng hưởng dụng là động sản, bất
động sản, câu cối, súc vật số lượng, chất
lượng của đối tượng hưởng dụng; giá hưởng
dụng (nếu có), phương thức thanh toán; thời
hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp
đồng; quyền và nghĩa vụ của các bên; trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng; phương thức
giai quyết tranh chấp
+ Quyền hưởng dụng được xác lập theo
di chúc
Với tư cách là chủ sở hữu của tài sản,
chủ sở hữu tài sản có quyền lập di chúc chỉ
định người thừa kế quyền hưởng dụng tài
sản của mình sau khi người lập di chúc chết.
Nền kinh tế thị trường là môi trường của
mọi cá nhân, tổ chức thuộc các thành phần
kinh tế và các hình thức sở hữu khác nhau
phát huy được triệt để nhất năng lực của
mình để tạo ra những sản phẩm cho xã hội
thông qua các giao dịch dân sự, thương mại.
Quy định về quyền hưởng dụng trong BLDS
năm 2015, là một cải cách lớn trong những
quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối
với tài sản với những mục đích tạo điều kiện
cho các chủ thể trong xã hội khai thác tài sản
của các chủ sở hữu, đồng thời tạo ra cơ chế
nhằm khuyến khích khả năng khai thác tối
đa và có hiệu quả tài sản trong xã hội, để
giảm bớt những chi phí cho chủ thể có nhu
cầu sử dụng tài sản mà không phải chi phí
cho việc mua tài sản, tiết kiệm được thời
gian và không phải chịu một khoản chi lớn
về tài sản. Quy định về quyền hưởng dụng
đã góp phần bảo vệ sản xuất, sự bình ổn
trong quan hệ dân sự và tạo ra những điều
kiện thuận lợi trong việc khai thác những
tiềm năng của tài sản thuộc các thành phần
kinh tế và hình thức sở hữu khác nhau trong
xã hội.
Xác lập quyền địa dịch theo di chúc, lần
đầu tiên ở Việt Nam được quy định trong
BLDS năm 2015. Đây là một quy định có
tính linh hoạt phù hợp với thời đại và quan
hệ xã hội trên mọi mặt của đời sống sản xuất,
kinh doanh, làm dịch vụ.
Trước đây ở Việt Nam, Bộ Dân luật Bắc
Kỳ (1931) và Bộ Dân luật Trung Kỳ (1936)
đều có những quy định về quyền hưởng
dụng thu lợi hay quyền ứng dụng thu lợi (Bộ
Số 6(406) - T3/202048 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Dân luật Bắc Kỳ quy định “quyền của người
ứng dụng thu lợi”, Bộ Dân luật Trung Kỳ
quy định: “Quyền của người hưởng dụng thu
lợi”). Điều 557 Dân luật Bắc Kỳ quy định:
“Quyền ứng dụng thu lợi hoặc do pháp luật
định ra hoặc do người ta tự định lấy. Quyền
ấy có thể đối với tất cả các hạng động sản,
bất động sản”. Quyền hưởng dụng được quy
định tại Điều 576 Bộ Dân luật Trung Kỳ:
“Quyền hưởng dụng thu lợi hoặc do pháp
luật định ra hoặc do người ta tự ý định ra.
Quyền ấy có thể đối với tất cả các hạng động
sản và bất động sản”. Các căn cứ xác lập
quyền hưởng dụng được quy định trong Bộ
Dân luật Bắc Kỳ và Bộ Dân luật Trung Kỳ
chỉ gồm hai căn cứ: Quyền hưởng dụng do
luật định hoặc do thỏa thuận. Bộ Dân luật
Bắc Kỳ và Dân luật Trung Kỳ không có quy
định xác lập quyền hưởng dụng theo di chúc.
BLDS năm 2015 quy định quyền hưởng
dụng được xác lập do luật định, theo thỏa
thuận hoặc theo di chúc. Quyền hưởng dụng
được xác lập theo di chúc được quy định tại
Điều 258 BLDS năm 2015, đã mở ra những
khả năng để chủ sở hữu tài sản có quyền lựa
chọn các hình thức định đoạt tài sản của
mình, trong đó có quyền định đoạt quyền
hưởng dụng tài sản của mình theo di chúc.
Đây là quy định phù hợp với đời sống kinh
tế, xã hội hiện đại ở Việt Nam, được thể hiện
trong những khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, đã như một truyền thống và
theo thông lệ, nhân sự kiện cá nhân qua đời
thì toàn bộ tài sản của cá nhân khi còn sống
tạo ra, có được và cá nhân với tư cách chủ
sở hữu khối tài sản của mình, có quyền định
đoạt bằng cách lập di chúc chỉ định người
thừa kế di sản của mình sau khi qua đời.
Thừa kế theo di chúc là cách thức chuyển
dịch tài sản của cá nhân sau khi chết cho
người khác được chỉ định thừa kế theo di
chúc. Người thừa kế theo di chúc có thể là
một hoặc nhiều người theo sự chỉ định của
người lập di chúc. Quyền hưởng dụng được
xác lập theo di chúc không nhằm chuyển
dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản cho
người hưởng dụng, mà chỉ chuyển giao tài
sản cho người hưởng dụng có kỳ hạn hoặc
suốt đời nếu là cá nhân, tối đa ba mươi năm
nếu pháp nhân là người hưởng dụng, mà
không chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho
người hưởng dụng. Đây là sự khác biệt về
tính chất thừa kế theo di chúc di sản thông
thường với việc xác lập quyền hưởng dụng
tài sản theo di chúc. Người thừa kế theo di
chúc được nhận di sản thừa kế theo di chúc
và được xác lập quyền sở hữu đối với phần
di sản được hưởng. Nhưng người hưởng
dụng chỉ có quyền nhận tài sản là đối tượng
của quyền hưởng dụng mà không được xác
lập quyền sở hữu đối với tài sản này. Người
thừa kế theo di chúc là chủ sở hữu phần di
sản được hưởng và có quyền định đoạt tài
sản với tư cách chủ sở hữu, còn người
hưởng dụng chỉ có quyền khai thác tài sản
phù hợp với công dụng, mục đích sử dụng
tài sản. Người hưởng dụng chỉ được thu hoa
lợi, lợi tức có được từ tài sản là đối tượng
của quyền hưởng dụng trong thời gian
quyền hưởng dụng có hiệu lực pháp luật.
Như vậy, quyền hưởng dụng được thực hiện
có thời hạn theo di chúc, có thể không có
thời hạn, nhưng tối đa đến hết cuộc đời của
người hưởng dụng là cá nhân, tối đa ba
mươi năm nếu người hưởng dụng là pháp
nhân. Người hưởng dụng có thể bị truất
quyền hưởng dụng trong trường hợp người
hưởng dụng vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ
của người hưởng dụng theo luật định hoặc
được xác định trong di chúc của người để
lại tài sản hưởng dụng.
49Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Thứ hai, quyền hưởng dụng được xác
lập theo di chúc có thể có thời hạn do người
lập di chúc ấn định, thời hạn hưởng dụng
ngắn hay dài tùy thuộc vào ý chí của người
lập di chúc, mà không phụ thuộc vào đối
tượng của quyền hưởng dụng là bất động sản
hay động sản hay cây trồng hay vật nuôi
Nếu quyền hưởng dụng có thời hạn theo di
chúc, thì người hưởng dụng chỉ có quyền tự
mình hoặc cho người khác khai thác, sử
dụng, thu hoa lợi, lợi tức từ đối tượng của
quyền hưởng dụng. Tài sản là đối tượng của
quyền hưởng dụng theo di chúc thuộc quyền
sở hữu chung của những người thừa kế hợp
pháp di sản của người để lại tài sản là đối
tượng của quyền hưởng dụng đó. Vì vậy,
người hưởng dụng có quyền yêu cầu những
người thừa kế với tư cách là đồng sở hữu
chung theo phần đối với tài sản là đối tượng
của quyền hưởng dụng thực hiện nghĩa vụ
sửa chữa đối với tài sản để bảo đảm không
bị suy giảm đáng kể dẫn tới tài sản không
thể sử dụng được hoặc mất toàn bộ công
dụng, giá trị của tài sản.
Thứ ba, trường hợp quyền hưởng dụng
có thời hạn theo di chúc thì khi kết thúc thời
hạn của quyền hưởng dụng, những người
thừa kế hợp pháp của người để lại tài sản là
đối tượng của quyền hưởng dụng có quyền
yêu cầu người hưởng dụng có kỳ hạn theo di
chúc chuyển giao tài sản cho mình. Theo quy
định tại khoản 2 Điều 264 BLDS năm 2015:
“Trường hợp quyền hưởng dụng chấm dứt
mà chưa đến kỳ hạn thu hoa lợi, lợi tức thì
khi đến kỳ hạn thu hoa lợi, lợi tức, người
hưởng dụng được hưởng giá trị của hoa lợi,
lợi tức thu được tương ứng với thời gian
người đó được quyền hưởng dụng”. Giá trị
của hoa lợi, lợi tức thu được tương ứng với
thời gian hưởng dụng được xác định theo
cách tính lấy tổng giá trị mà tài sản đó thu
được khi đến thời vụ thu hoạch trừ đi chi phí
quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng, thu hoạch,
phần còn lại thuộc về người hưởng dụng.
Những cơ sở pháp lý liên quan đến tài
sản là đối tượng của quyền hưởng dụng đã
đươc phân tích cho thấy sự khác biệt giữa
thừa kế theo di chúc của người được chỉ định
nhận di sản thừa kế theo di chúc và người
hưởng dụng tài sản được chỉ định theo di
chúc. Khi thời hạn của quyền hưởng dụng
theo di chúc chấm dứt, những người thừa kế
hợp pháp tài sản là đối tượng của quyền
hưởng dụng có quyền chia di sản hoặc thỏa
thuận với người hưởng dụng tài sản theo di
chúc có thời hạn tiếp tục được hưởng dụng
tai sản. Trong trường hợp này, người hưởng
dụng không hưởng dụng theo di chúc mà
thực hiện quyền hưởng dụng theo hợp đồng
mà một bên là những người thừa kế, bên còn
lại là người hưởng dụng. Theo đó, quyền
hưởng dụng được xác lập theo hợp đồng,
quyền và nghĩa vụ của các bên được thực
hiện theo hợp đồng hưởng dụng. Hợp đồng
hưởng dụng có các nội dụng của hợp đồng
dân sự và giải quyết tranh chấp được áp
dụng các quy định về hợp đồng dân sự - hợp
đồng hưởng dụng. Hợp đồng hưởng dụng có
thể có thời hạn, có thể không có thời hạn và
được giải quyết theo những quy định chung
về hợp đồng dân sự. Quyền hưởng dụng
được xác lập theo di chúc, do vậy những
điều kiện có hiệu lực của di chúc được thực
hiện. Những điều kiện có hiệu lực của di
chúc định đoạt tài sản là đối tượng của quyền
hưởng dụng được chyển giao cho người
hưởng dụng theo di chúc, cũng tuân theo các
quy định về di chúc trong BLDS năm 2015.
Theo quy định tại Điều 624 BLDS năm
2015: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá
nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho
người khác sau khi chết.” Di chúc là sự thể
Số 6(406) - T3/202050 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
hiện ý nguyện cuối cùng của người lập di
chúc, là chỉ định cho một hoặc nhiều người
có quyền hưởng dụng tài sản của người lập
di chúc sau khi qua đời. Ý nguyện của người
lập di chúc được thể hiện thông qua quyền
dân sự của cá nhân được pháp luật quy định.
Quyền của người lập di chúc là quyền tự
định đoạt của chủ sở hữu tài sản chỉ định
người hưởng dụng tài sản của mình suốt đời
hoặc có thời hạn. Dựa trên ý nguyện của
người lập di chúc, được thể hiện rõ trong nội
dung của di chúc cho ai được hưởng dụng di
sản là cá nhân hay tổ chức; người được chỉ
định hưởng quyền hưởng dụng tài sản gì và
có nghĩa vụ gì khi thực hiện quyền hưởng
dụng tài sản. Người hưởng dụng tài sản theo
di chúc có thể là cá nhân, có thể là pháp
nhân; theo đó, thời hạn hưởng dụng của
pháp nhân được pháp luật quy định tối đa 30
năm nếu người hưởng dụng đầu tiên là pháp
nhân, đối với cá nhân có thể hưởng dụng tối
đa đến hết cuộc đời.
Như vậy, quyền hưởng dụng được xác
lập theo di chúc theo quy định của pháp luật
phải nhằm chuyển tài sản của người lập di
chúc cho người hưởng dụng sau khi người
lập di chúc chết. Xét về tính chất của giao
dịch dân sự, di chúc là sự thể hiện ý chí đơn
phương, hoàn toàn độc lập, tự định đoạt ý
chí của cá nhân người lập di chúc mà không
có bất kỳ sự lệ thuộc nào vào bất kỳ ý kiến
của ai, do vậy di chúc là giao dịch dân sự
một bên. Giao dịch dân sự này là loại giao
dịch đặc biệt, tuy rằng các điều kiện của chủ
thể lập di chúc, ý chí của chủ thể, nội dung
và hình thức của di chúc đều phù hợp với
quy định của pháp luật về các điều kiện có
hiệu lực của di chúc nhưng di chúc chỉ phát
sinh hiệu lực thi hành sau khi người để lại di
chúc chết. Do hành vi đơn phương của người
lập di chúc và nội dung của di chúc nhằm
chuyển dịch tài sản cho người hưởng dụng
có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn
nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng hoặc không
có bất kỳ mối quan hệ nào giữa người hưởng
dụng và người để lại tài sản là đối tượng của
quyền hưởng dụng theo di chúc. Người được
chỉ định là người hưởng dụng tài sản theo di
chúc không có quyền sở hữu tài sản, mà chỉ
có quyền khai thác, sử dụng tài sản của
người chết để lại trong thời hạn nhất định
hoặc suốt đời người hưởng dụng nếu là cá
nhân. Đã như một tiền lệ và như một đạo lý
trong cuộc sống là chủ sở hữu tài sản có
quyền định đoạt tài sản của mình bằng cách
lập di chúc và chỉ định người thừa kế, người
được di tặng tài sản của người để lại di chúc
sau khi chết. Thừa kế theo di chúc và thừa
kế theo pháp luật nói chung thì đều có chung
một căn cứ là xác lập quyền sở hữu do được
thừa kế. Thừa kế theo di chúc hoặc theo
pháp luật đều có một đặc điểm chung là
chuyển dịch tài sản của một người sau khi
qua đời cho người khác nhận di sản thừa kế
theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người có
quyền hưởng di sản thừa kế là chủ sở hữu
của những phần di sản được chia. Tuy nhiên,
theo quy định về căn cứ xác lập quyền
hưởng dụng tại Điều 258 BLDS năm 2015,
thì người được chỉ định hưởng quyền hưởng
dung theo di chúc của người để lại di sản chỉ
có quyền khai thác, sử dụng tài sản để hưởng
dụng tài sản và những lợi ích vật chất do tài
sản là đối tượng của quyền hưởng dụng
mang lại. Theo quy định về căn cứ xác lập
quyền hưởng dụng tài sản, thì người hưởng
dụng không được xác lập quyền sở hữu đối
với tài sản mình đang hưởng dụng. Người
hưởng dụng có quyền sử dụng và hưởng hoa
lợi từ tài sản mình hưởng dụng như chủ sở
hữu của tài sản. Người hưởng dụng có quyền
hưởng dụng tất cả hoa lợi từ tài sản mình có
51Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
quyền hưởng dụng. Quyền hưởng dụng được
xác lập theo di chúc, có thể có những yếu tố
liên quan do người lập di chúc đặt ra đối với
người có quyền hưởng dụng: Về tài sản
hưởng dụng là bất động sản hay động sản
hay vườn cây hay diện tích nước nuôi trồng
thủy sản, hải sản khác. Pháp luật dân sự hiện
nay của Việt Nam không quy định cụ thể tài
sản là đối tượng của quyền hưởng dụng được
liệt kê như thế nào. Nhưng theo quy định
trong Bộ Dân luật Trung Kỳ, thì những tài
sản là đối tượng của quyền hưởng dụng còn
bao gồm: Khoản tiền thuê nhà, tiền lời của
các khoản tiền cho vay, tiền lời cổ phần tham
gia các hội, tiền trưng nộp về các hầm mỏ do
người thứ ba đang khai thác, tiền lĩnh canh
(Điều 581).
Căn cứ xác lập quyền hưởng dụng theo
di chúc đã tạo ra những điều kiện thuận lợi
và có hiệu quả trong việc bảo tồn và khai
thác khối tài sản là di sản thừa kế do người
lập di chúc để lại. Bởi vì, khối tài sản thuộc
quyền sở hữu của một người, sau khi người
chủ sở hữu qua đời được để lại cho một hoặc
nhiều người hưởng dụng là cá nhân hoặc
pháp nhân; người hưởng dụng không phải là
chủ sở hữu tài sản, mà chỉ có quyền sử dụng,
khai thác tài sản là đối tượng của quyền
hưởng dụng để hưởng phần hoa lợi, lợi tức
do tài sản mang lại. Vì vậy, tài sản hưởng
dụng là di sản của một người để lại cho
người khác hưởng dụng mà không phải là
chuyển giao quyền sở hữu tài sản, cho nên
tài sản là đối tượng hưởng dụng không được
chia thừa kế. Với việc để lại quyền hưởng
dụng theo di chúc, thì những người thừa kế
khác có quyền hưởng di sản theo pháp luật
không được chia tài sản này như trường hợp
thừa kế thông thường khác. Vì vậy, khối tài
sản là đối tượng của quyền hưởng dụng vẫn
được bảo tồn, không bị chia nhỏ thành nhiều
phần như chia di sản thừa kế cho những
người thừa kế có quyền hưởng di sản. Di tài
sản là đối tượng của quyền hưởng dụng
không được chia, cho nên việc sử dụng tài
sản đó vẫn bình thường như khi người để lại
tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng
còn sống.
Đối với di sản của chủ sở hữu lập di
chúc để lại cho người khác có quyền hưởng
dụng là một doanh nghiệp, một công ty, một
dây chuyền sản xuất của cơ sở sản xuất
thuộc các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, làm
dịch vụ khác nhau không bị chia nhỏ thành
nhiều phần cho những người có quyền thừa
kế; tài sản của người quá cố để lại quyền
hưởng dụng theo di chúc vẫn được khai thác,
sử dụng bình thường, theo đó sản xuất không
bị phá vỡ, người lao động vẫn có việc làm
và tính ổn định trong sản xuất, kinh doanh,
làm dịch vụ của người hưởng dụng tài sản
vẫn được duy trì vào việc sản xuất, kinh
doanh, làm dịch vụ vẫn phát triển mặc dù
chủ sở hữu tài sản đã qua đời.
Đối tượng của quyền hưởng dụng vẫn
được duy trì và giữ được mối đoàn kết giữa
những người có quyền đối với tài sản là đối
tượng của quyền hưởng dụng. Trên thực tế
đời sống xã hội, có câu ngạn ngữ: “đánh
nhau chia gạo, chào nhau ăn cơm”, thể hiện
bản chất của các cá nhân trong trường hợp
chia nhau các lợi ích, nhất là các lợi ích vật
chất. Pháp luật quy định quyền hưởng dụng
được xác lập theo di chúc đã đáp ứng được
nhu cầu, đòi hỏi của đời sống, xã hội đương
thời.
Quyền hưởng dụng hóa giải được nhiều
vấn đề phức tạp liên quan đến di sản của
người chết để lại, được thể hiện trong những
trường hợp sau đây:
Thứ nhất, chủ sở hữu tài sản lập di chúc
chỉ định người hưởng dụng tài sản của mình
Số 6(406) - T3/202052 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
để lại sau khi chết, tránh được những tranh
chấp xảy ra giữa những người thừa kế, tránh
được nguy cơ phá vỡ một cơ sở sản xuất,
một doanh nghiệp, một dây chuyền sản
xuất Nếu một dây chuyền sản xuất, một
doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của một
người, theo lẽ thông thường thì sau khi chủ
sở hữu những tài sản này qua đời, có thể để
lại di chúc chỉ định người hưởng di sản hoặc
người chủ sở hữu tài sản có để lại di chúc
nhưng di chúc không có hiệu lực thi hành,
thì di sản của người này được chia theo pháp
luật. Việc chia di sản thừa kế theo di chúc và
theo pháp luật đã chia khối di sản của người
chết để lại thành các phần tương ứng với
phần mỗi người thừa kế có quyền hưởng. Từ
nguyên nhân này mà khối tài sản của một
nghiệp chủ bị phân chia và cơ sở sản xuất
ngừng hoạt động do những người thừa kế
không thỏa thuận để cùng duy trì doanh
nghiệp, duy trì sản xuất. Nhưng quyền của
một người hoặc nhiều người cùng được
hưởng dụng doanh nhiệp, một cơ sở sản
xuất, kinh doanh thì họ chỉ có quyền sử dụng
các tư liệu sản xuất thuộc về chủ doanh
nghiệp trước đó để duy trì, mở rộng, phát
triển việc sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ
và tài sản của doanh nghiệp vẫn tồn tại, việc
sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ không bị
triệt tiêu.
Thứ hai, pháp luật quy định quyền
hưởng dụng được xác lập theo di chúc. Quy
định này là cơ sở pháp lý để chủ sở hữu tài
sản lựa chọn cách định đoạt tài sản của mình
sau khi chết cho người hưởng dụng được chỉ
định trong di chúc chiếm hữu, sử dụng và
thu được hoa lợi, lợi tức từ tài sản là đối
tượng hưởng dụng. Theo quy định của pháp
luật, người lập di chúc có quyền lựa chọn
người có khả năng duy trì, sử dụng tài sản
do mình để lại là bất kỳ ai hoặc là cá nhân
thuộc diện thừa kế theo pháp luật hoặc là
người không thuộc diện thừa kế theo pháp
luật hoặc chỉ định cho pháp nhân được
hưởng dụng tài sản. Việc lựa chọn người
hưởng dụng tài sản do người để lại tài sản
quyết định. Do vậy, trong số những người
thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người
để lại tài sản là đối tượng hưởng dụng, người
lập di chúc chỉ định người này mà không chỉ
định người kia là dựa vào khả năng của
người có thể thực hiện được quyền hưởng
dụng theo ý chí chủ quan của người lập di
chúc. Người lập di chúc để lại tài sản cho
người hưởng dụng là bất kỳ ai hoặc là người
thuộc diện thừa kế theo luật hoặc là người
không thuộc diện thừa kế theo luật mà là một
cá nhân khác hoặc pháp nhân.
Thứ ba, quyền hưởng dụng được thực
hiện nhằm giúp đỡ những chủ thể có nhu cầu
sử dụng tài sản của người để lại tài sản một
cách kịp thời mà không phải mất nhiều công
sức, tài sản để tạo lập các tài sản để đáp ứng
nhu cầu sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ
của mình.
Thứ tư, trong cộng đồng dân cư, trong
hộ gia đình có thể áp dụng quyền hưởng
dụng một mảnh đất, ngôi nhà, vườn cây, ao
cá và những vật phẩm tiêu dùng khác giao
được giao cho một người quản lý, sử dụng
để khai thác những hoa lợi, lợi tức và người
này được hưởng một phần trong số các hoa
lợi thu được, phần hoa lợi còn lại để phục vụ
cho việc duy trì nhà thờ của một họ, một tộc
và người hưởng dụng này thực hiện các hành
vi như một chủ sở hữu tài sản. Tài sản là đối
tượng của quyền hưởng dụng được quản lý,
duy trì, phát triển do người có quyền hưởng
dụng thực hiện n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_khia_canh_phap_ly_cua_quyen_huong_dung.pdf