Những khía cạnh pháp lý của việc thuê đất kinh doanh, thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn

Các cơ quan bảo vệ pháp luật, khi xử lý các vụ doanh nhân vi phạm pháp luật, cần phân tích toàn diện, hiểu rõ những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như những bất cập của hệ thống pháp luật hiện hành mà xử lý đúng người, đúng tội, không nên một chiều hình sự hoá các quan hệ dân sự. +Để hình thành các tổ chức xã hội trong các hoạt động tư vấn, hỗ trợ các DNN&V, Nhà nước cần có chính sách ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức xã hội đó hoạt động có hiệu quả thiết thực, khắc phục các tiêu cực có thể xảy ra. Về phía mình, Chính phủ cần hình thành một tổ chức của Nhà nước làm đầu mối phối hợp các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội nghiên cứu và đề xuất các cơ chế, chính sách, các chương trình hỗ trợ DNN&V,v.v.

doc37 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1032 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những khía cạnh pháp lý của việc thuê đất kinh doanh, thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i và đầu tư mở rộng -Thiếu một cơ chế pháp lý để thực hiện khuyến khích đầu tư trong nước đối với kinh tế trang trại là những DNN&V ở nông thôn và miền núi. -Các chính sách khuyến khích đầu tư trong nước chưa tạo ra cơ hội cho những người nghèo,yếu thế tham gia đầu tư mà mới chỉ quan tâm tới các chủ thể kinh doanh những ngành nghề mà Nhà nước cần khuyến khích và ở các địa bàn cần khuyến khích. -Còn thiếu chiến lược khuyến khích đầu tư đối với DNN&V. Ngay cả các dự án nghiên cứu về DNN&V cũng bị phân tán việc nghiên cứu để tìm giải pháp đồng bộ chưa có sự chỉ huy thống nhất, nên cho đến nay chưa có được một chính sách cụ thể đối vơi DNN&V. -Mối quan hệ giữa chính sách đối với DNN&V và các chính sách xoá đói giảm nghèo, các chính sách đối với hợp tác xã cần có một sự lồng ghép. -Các dự án liên quan đến hỗ trợ DNN&V ngoài quốc doanh cần phối hợp hành động vì mục tiêu chung xây dựng được luật hỗ trợ DNN&V ngoài quốc doanh để thay thế Luật Khuyến khích đầu tư trong nước hiên hành. Phần IV: LUÂT DOANH NGHIệP- Cở Sở PHáP Lý MớI ĐốI VớI CáC DOANH NGHIệP NHỏ Và VừA NGOàI QUốC DOANH. Người kinh doanh cần những hình thức pháp lý phù hợp để đầu tư vốn, tổ chức kinh doanh, chia sẻ rủi ro và lợi nhuận. Pháp luật Việt Nam hiện hành tạo điều kiện cho người kinh doanh có thể lựa chọn nhiều mô hình tổ chức kinh doanh khác nhau tuỳ theo số lượng vốn, ngành nghề và mục đích kinh doanh. Việc tìm hiểu quy định pháp luật về các mô hình này là rất cần thiết, vì nếu không hiểu biết pháp luật mà đầu tư sai quy định, có thể sẽ bị Toà án Việt Nam coi là hành vi phạm pháp. I-Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Đối Với Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Ngoài Quốc Doanh Dưới giác độ của một nhà đầu tư, theo pháp luật hiện hành, người kinh doanh có thể đầu tư vốn theo các hình thức dưới đây: -Kinh doanh theo Nghị định số 66/HĐBT- Cá nhân kinh doanh -Góp vốn cùng người khác kinh doanh theo Nghị định số 66/HĐBT- Nhóm kinh doanh -Kinh doanh theo mô hình Tổ hợp tác- Điều 120 - 129 BLDS -Thành lập Hợp tác xã theo luật hợp tác xã 1996 -Thành lập Doanh nghiệp tư nhân -Thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn -Thành lập công ty cổ phần Các hình thức nêu trên có thể được gọi là đầu tư thành lập các doanh nghiệp. Ngoài ra, tuỳ theo ngành nghề và sự linh hoạt của người kinh doanh, có thể chọn rất nhiều hình thức đầu tư khác mà không thành lập doanh nghiệp mới. Phù hợp với các mô hình kinh doanh kể trên, theo số lượng thống kê, các mô hình doanh nghiệp hiện có ở Việt Nam như sau: +6300 Doanh nghiệp nhà nước +350 Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội +8903 Công ty trách nhiệm hữu hạn +2882 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài +200 Công ty cổ phần +21358 Doanh nghiệp tư nhân +1.800.000 cá nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị định số 66/HĐBT Bảng thống kê này cho thấy,DNN&V ngoài quốc doanh tập trung ở mô hình “Cá nhân và nhóm kinh doanh” theo NDD số 66/HĐBT, “Doanh nghiệp tư nhân” và một số ít hơn ở dạng Công ty trách nhiệm hữu hạn. Công ty cổ phần là mô hình chưa được ưa chuộng rộng rãi ở Việt Nam. II-Một Số Điểm Mới Cơ Bản Của Luật Doanh Nghiệp 1999 Luật doanh nghiệp gồm 10 chương với 124 điều đã được Quốc hội thông qua ngày12-6-1999, có hiệu lực từ ngày 01-01-1999, thay thế Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Đối với các doanh nghiệp dân doanh, Luật này là một bước tiến mới, tạo nhiều điều kiện pháp lý thuận lợi cho người đầu tư trong việc thành lập và tổ chức kinh doanh. Nhìn tổng thể, những thành công cơ bản của Luật doanh nghiệp thể hiện ở những điểm sau: -Là một bước tiến mới thực hiện đương lối cải cách kinh tế của Nhà nước Việt Nam: +Phát huy nội lực +Tạo ra sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế +Đa dạng hoá các hình thức pháp lý cho các hoạt động kinh doanh +Cải cách hành chính +Pháp điển hoá -Là một thành công lớn trong việc khuyến khích làm giàu hợp pháp: +Cải cách cơ bản thủ tục thành lập doanh nghiệp +Bảo hộ quyền tự do kinh doanh +Khuyến khích sự năng động +Khuyến khích sự tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh +Bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số +Bảo vệ quyền lợi của chủ nợ +Quy định trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp trong các giao dịch tư lợi. -Là một đạo luật có tầm nhìn chiến lược trong tương quan với: +Cải cách doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp đoàn thể +Nhất thể hoá luật đầu tư trong nước và nước ngoài +Hỗ trợ thị trường chứng khoán phát triển +Chuyển đổi hình thức doanh nghiệp, cơ sở pháp lý cho các liên kết tập đoàn +Nâng pháp luật Việt Nam hài hoà hoá với pháp luật quốc tế (WTO). Phần V: NHữNG KHía CạNH PHáP Lý Của VIệC THUế ĐấT KINH DOANH THế CHấP QUYềN Sử DụNG ĐấT Để VAY VốN Hiến pháp 1992 nước CHXHCN việc xác định “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý cuả Nhà nước, theo định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”.Với mục đích giúp cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, nhất là các DNN&V ngoài quốc doanh có thể cạnh tranh, làm ăn có hiệu quả; tồn tại, đứng vững và cạnh tranh lành mạnh trong cơ chế thị trường, thì việc tìm hiểu các quy định của pháp luật về vấn đề sử dụng đất để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh là một việc làm cần thiết không thể thiếu được của chủ doanh nghiệp. I-Thuê Đất Kinh Doanh 1-Các trường hợp thuê đất: Luật đất đai 1993 quy định Nhà nước cho thuê đất trong các trường hợp sau: -Tổ chức kinh tế sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh theo dự án được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. -Hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu sử dụng đất để sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, Nhà nước còn cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuê đất để tiến hành các hoạt động đầu tư tại Việt Nam. 2-Thời hạn cho thuê đất: Luật đất đai quy định:Thời hạn cho thuê đất được xác định theo dự án đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt nhưng không quá 50 năm, đối với dự án cần thời hạn thuê đất dài hơn thì căn cứ vào quy định của Uỷ ban Thường vụ Quốc hôị, Chính phủ quyết định thời hạn cho thuê đất đối với từng dự án, nhưng không quá 70 năm. 3-Vấn đề cho thuê lại đất trong khu công nghiệp, khu chế xuất của tổ chức trong nước Thực hiện công cuộc “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá” đất nước do Đảng khởi xướng, Nhà nước ta ban hành quy chế thành lập khu chế xuất, khu công nghiệp nhằm khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài đầu tư sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để sản xuất và tiêu thụ tại thị trường trong nước, xây dựng và kinh doanh cá công trình cơ sở hạ tầng, tiến hành các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp. II- Thế Chấp Quyền Sử Dụng Đất Để Vay Vốn Kinh Doanh 1-Khái Niệm: Thế chấp quyền sử dụng đất là trường hợp người sử dụng đất dùng quyền sử dụng đất của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự phù hợp với các quy định của Bộ luật dân sự và pháp luật đất đai. Sở dĩ điều kiện thế chấp quyền sử dụng đất được pháp luật quy định không khắt khe như đối với các hình thức khác của chuyển quyền sử dụng đất là vì: sau khi hợp đồng thế chấp được lập thì người sử dụng đất vẫn tiệp tục được chiếm hữu và sử dụng đất. Trên thực tế chưa có sự chuyển giao quyền sử dụng đất cho người khác.Nói cách khác, pháp luật không cần thiết phải can thiệp sâu vào vấn đề này vì thế chấp quyền sử dụng đất cũng chỉ là một biện pháp bảo đảm cho hợp đồng vay vốn, là hình thức chuyển quyền sử dụng đất có điều kiện tức là chỉ xảy ra khi người sử dụng đất không trả được tiền vay. 2-Cơ Sở Pháp Lý Của Việc Quy Định Thế Chấp Quyền Sử Dụng Đất *Điều 18-Hiến pháp 1992: Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. *Điều 78c - Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đất đai 1993:Tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất có quyền: “Thế chấp giá trị quyền sử dụng đất đai tổ chức tín dụng Việt Nam để vay vốn sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật” *Điều 78d - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1993 quy định: -Tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất mà trả tiền thuê đất hàng năm có quyền thế chấp tài sản thuộc quyền sử hữu của mình gắn liền với đất thuê tại tổ chức tín dụng Việt Nam để vay vốn sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật. -Tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất mà đã trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê có quyền thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê trong thời hạn thuê tại tổ chức tín dụng Việt Nam để vay vốn sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật -Tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất đã trả trước tiền thuê đất cho nhiều năm nếu thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất là 5 năm thì có quyền của tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất cho cả thời gian thuê. *Bộ luật dân sự Việt Nam năm 1995: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất. *Quyết định số 217/QĐNH1 ngày 17-8-96 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế thế chấp, cầm cố tài sản và bảo lãnh vay vốn ngân hàng. *Nghị định 17/CP ngày 29-3-99 của Chính phủ về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng cho thuê, cho thuê lại thừa kế quyền sử dụng đất, thế chấp góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Vậy cho thuê quyền sử dụng đất và thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn sản xuất kinh doanh là những quy định mới của pháp luật đất đai nhằm tạo điều kiện cho người sử dụng đất khai thác tối đa mọi tiềm năng đất đai, đồng thời giúp họ sử dụng có hiệu quả đất đai. Tuy nhiên các văn bản pháp luật cụ thể hoá các quy định này đang và sẽ được ban hành, trong đó thiếu các quy định cho các DNN&V ngoài quốc doanh. Điều đó gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc làm thủ tục vay vốn sản xuất kinh doanh tại các tổ chức tín dụng của Nhà nước. Những khía cạnh pháp lý về cho thuê đất và thế chấp quyền sử dụng đất được đề cập trên đây mới dừng lại ở việc giới thiệu các quy định mang tính khái quát chắc chắn chưa thể thoả mãn được đòi hỏi của các doanh nghiệp, đối tượng trực tiếp thực thi các quy định này. Điều đó đặt ra vấn đề cần phải có những bổ sung, sửa đổi và pháp điển hoá trong các quy định của Bộ luật đất đai trong tương lai thì mới có thể đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống và đáp ứng được yêu cầu về vốn và sử dụng đất của các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Phần VI: CHíNH SáCH,PHáP LUậT THUế, TíN DụNG Hỗ TRợ PHáT TRIểN DOANH NGHIệP NHỏ Và VừA. Kinh nghiệm thực tiễn ở nhiều nước trên thế giới cho thấy rằng, các DNN&V đóng vai trò rất quan trọng trong cơ cấu tổng thể phát triển nền kinh tế đất nước. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa tuy có quy mô vốn không lớn, số lượng lao động không nhiều, song nó có nhiều ưu thế về quản lý và sự năng động trong kinh doanh.Với vị trí, vai trò và những lợi thế của chúng, nhiều nước trên toàn thế giới đều có những bảo đảm đầu tư và những ưu đãi, kích thích sự phát triển của khu vực kinh tế này Đối với Việt Nam, việc khuyến khích, hỗ trợ phát triển các DNN&V trong giai đoạn hiện nay càng có ý nghĩa sâu sắc khi chúng ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế cơ cấu hai thành phần sang cơ cấu đa thành phần, đa hình thức sở hữu.Phát triển DNN&V hiện nay là phù hợp với bối cảnh kinh tế đất nước hiện nay trên tất cả các phương diện của đầu tư từ vốn, kỹ thuật,công nghệ đến quản lý. Tuy nhiên cho đến nay, những ưu đãi nhằm hỗ trợ phát triển các DNN&V, đặc biệt là các DNN&V ngoài quốc doanh chưa nhiều, chưa hình thành một cơ chế đồng bộ, đủ hấp dẫn để kích thích sự phát triển của chúng. Nhận thức được các vấn đề trên đây, trong mấy năm gần đây Đảng và Nhà nước ta bắt đầu quan tâm đến việc xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm hỗ trợ và kích thích sự phát triển của các doanh nghiệp này. Đặc biệt là vừa qua, ngày 31-5-99 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 133/1999/QĐ-TTg thành lập tổ nghiên cứu cơ chế chính sách phát triển DNN&V và chắc chắn rằng trong một tương lai không xa, chúng ta sẽ hình thành được một cơ chế đồng bộ cho việc phát triển các loại hình doanh nghiệp naỳ. Nói như vậy, không có nghĩa rằng hiện nay chúng ta chưa có cơ chế chính sách ưu đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh. Trong chính sách pháp luật hiện hành có nhiều ưu đãi, hỗ trợ cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp mà các DNN&V ngoài quốc doanh có thể lựa chọn để dành lấy ưu đãi cho quá trình đầu tư và hoạt động kinh doanh của mình.Trong phạm vi bài viết này tôi xin đề cập tới hai lĩnh vực ưu đãi, hỗ trợ mà chúng tôi cho rằng đây là hai loại ưu đãi hấp dẫn nhất, có ý nghĩa trực tiếp nhất về mặt kinh tế đối với các doanh nghiệp, đó là các ưu đãi về thuế và tín dụng. I-Những Ưu Đãi Của Pháp Luật Thuế 1-Những ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp Trong các ưu đãi về thuế, ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp là ưu đãi có ý nghĩa thiết thực nhất đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Bởi vì thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu, điều tiết trực tiếp vào thu nhập của doanh nghiệp. Việc miễn giảm thuế là tạo thêm khả năng và điều kiện tài chính để doanh nghiệp dùng thu nhập có được để tái đầu tư lại quá trình kinh doanh. Vì lẽ đó, các quy định về miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có tính hấp dẫn cao hơn nhiều so với các miễn giảm thuế khác. Các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp gồm: a-Các ưu đãi về thuế suất Muốn hiểu và nắm vững các ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập, cần xác định rõ dự án đầu tư của doanh nghiệp, nhà đầu tư thuộc loại nào? loại dự án đó được xếp vào danh mục loại A, B, C. Muốn vậy cần đối chiếu với các danh mục A, B, C được ban hành kèm theo Nghị định số 51/1999/NĐ-CP ngày 8/7/99 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước. -Danh mục A: Ngành, nghề thuộc các lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư. -Danh mục B: Địa bàn có điều kiện kinh tế khó khăn. -Danh mục C: Địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Các ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm: +Thuế suất 25% đối vơí dự án đầu tư thuộc danh mục A +Thuế suất 25% đối với dự án đầu tư thuộc danh mục B +Thuế suất 20% đối với dự án đầu tư thuộc danh mục A thực hiện ở địa bàn thuộc danh mục B +Thuế suất 20% đối với dự án đầu tư thuộc danh mục C +Thuế suất 15% đối với dự án đầu tư thuộc danh mục A thực hiện tại địa bàn thuộc danh mục C. b-Các ưu đãi về thời hạn miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp Nhà đầu tư có dự án thành lập cơ sở sản xuất,kinh doanh đáp ứng điều kiện quy định tại điều 15,16 Nghị định 51/1999/NĐ-CP ngày 8-7-99 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) được miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp kể từ khi có thu nhập chịu thuế. Thời hạn miễn thuế từ 2 đến 4 năm và giảm 50% từ 2 đến 9 năm tiếp theo tuỳ từng dự án đáp ứng các điều kiện theo luật định (ngành nghề, sử dụng lao động, địa bàn...). c-Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các dự án đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu -Đối với dự án thuộc danh mục A được miễn giảm một năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 4 năm tiếp theo. - Được miễn 3 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 5 năm tiếp theo đối với dự án đầu tư thực hiện tại địa bàn quy định tại danh mục B. - Được miễn 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 7 năm tiếp theo đối với dự án đầu tư thực hiện tại địa bàn quy định tại danh mục C. d-Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với dự án BOT, BTO Nhà đầu tư có dự án theo hình thức hợp đồng Xây dựng, kinh doanh, chuyển giao (BTO) hoặc hợp đồng Xây dựng, chuyển giao, kinh doanh (BTO) được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 4 năm đầu kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp 9 năm tiếp theo. e-Ưu đãi bổ sung về thuế đối với nhà đầu tư sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu Ngoài các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trên đây các nhà đầu tư sản xuất, kinh doanh hàng xuất nhập khẩu còn được hưởng thêm ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp như sau: -Được giảm 50% số thuế phải nộp cho phần thu nhập có được trong các trường hợp: + Xuất khẩu của năm đầu tiên được thực hiện bằng cách xuất khẩu trực tiếp +Xuất khẩu mặt hàng mới có tính năng kinh tế - kỹ thuật, tính năng sử dụng khác với mặt hàng trước đây doanh nghiệp đã xuất khẩu +Xuất khẩu ra thị trường một quốc gia mới, hoặc lãnh thổ mới khác với thị trường trước đây. -Được giảm 50% số thuế thu nhập phải nộp cho phần thu nhập tăng thêm do xuất khẩu trong năm tài chính đối với nhà đầu tư có doanh thu xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước. -Được giảm 20% số thuế thu nhập phải nộp cho phần thu nhập có được do xuất khẩu tronh năm tài chính đối với các trường hợp: +Có doanh thu xuất khẩu đạt tỷ trọng trên 50% tổng doanh thu +Duy trì thị trường xuất khẩu ổn định về số lượng hoặc giá trị hàng hoá xuất khẩu trong 3 năm liên tục trước đó. - Được giảm thêm 25% số thuế phải nộp cho phần thu nhập có được do xuất khẩu trong năm tài chính đối với nhà đầu tư nói tại điểm 1,2 hoặc 3 trên đây thực hiện dự án đầu tư tại địa bàn tại danh mục B. -Được miễn toàn bộ số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho phần thu nhập có được do xuất khẩu trong năm tài chính đối với nhà đầu tư nói tại điểm 1,2 hoặc 3 trên đây, thực hiện dự án đầu tư tại địa bàn quy định tại danh mục C. 2-Miễn thuế nhập khẩu đối vơi thiết bị máy móc tạo thành tài sản cố định Nhà đầu tư có dự án đầu tư thuộc danh mục A hoặc có dự án đầu tư thực hiện tại địa bàn quy định tại danh mục B hoặc C được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá sau đây mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu chất lượng: -Thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng ( nằm trong dây chuyền công nghệ) nhập khẩu để tại tài sản cố định của doanh nghiệp hoặc mở rộng quy mô đầu tư, đổi mới công nghệ. -Phương tiên vận chuyển dùng để đưa đón công nhân. 3-Miễn thuế thu nhập cá nhân -Nhà đầu tư là cá nhân được miễn thuế thu nhập cho phần thu nhập có được do góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp, của quỹ hỗ trợ đầu tư, quỹ hỗ trợ xuất khẩu hoặc quỹ hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia trong thời hạn 5 năm kể từ khi nhà đầu tư có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập đối với cá nhân. -Nhà đầu tư là cá nhân được miễn thuế thu nhập cho phần thu nhập có được do góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp ở địa bàn quy định tại danh mục B và C trong thời hạn 10 năm kể từ khi nhà đầu tư có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập đối với cá nhân. -Nhà đầu tư góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ được miễn thuế thu nhập có được từ phần vốn góp này. 4-Miễn giảm thuế sử dụng đất -Nhà đầu tư được Nhà nước giao đất có dự án đầu tư theo quy định tại danh mục A được miễn, giảm thuế sử dụng đất, kể từ khi được giao đất như sau: +Được miễn giảm 50% thuế sử dụng đất trong 7 năm đối với dự án đầu tư quy định tại mục II danh mục A. +Được miễn nộp thuế sử dụng đất trong suốt thời gian thực hiện dự án đối với dự án quy định tại mục I danh mục A. -Nhà đầu tư có dự án đầu tư tại địa bàn thuộc danh mục B được miễn nộp thuế sử dụng đất, kể từ khi được giao đất như sau: +Được miễn 7 năm đối với dự án tại địa bàn quy định tại mục II danh mục B. +Được miễn 10 năm đối với dự án tại địa bàn quy định tại mục I danh mục B. -Nhà đầu tư có dự án đầu tư tại địa bàn quy định tại danh mục B đồng thời đáp ứng điều kiện quy định tại điều 15 Nghị định 51/1999/NĐ-được miễn thuế sử dụng đất, kể từ khi được giao đất như sau: +Được miễn 11 năm đối với dự án đầu tư thuộc danh mục A +Được miễn 15 năm đối với dự án đáp ứng đồng thời hai điều kiện quy định tại khoản 1, khoản 2, điều 15 Nghị định 51/1999/NĐ-CP. -Nhà đầu tư có dự án đầu tư ở địa bàn quy định tại danh mục C được miễn nộp thuế sử dụng đất, kể từ khi được giao đất như sau: +Được miễn 11năm đối với dự án tại địa bàn quy định tại mục II danh mục C +Được miễn 15 năm đối với dự án tại địa bàn quy định tại mục I danh mục C. -Được miễn nộp thuế sử dụng đất trong suốt thời gian thực hiện dự án đối với dự án đầu tư thuộc danh mục A thực hiện tại địa bàn quy định tại danh mục C. II-Những Ưu Đãi Về Tín Dụng 1-Ưu đãi từ tin dụng đầu tư phát triển của Nhà nước Vừa qua Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29thangs 6 năm 1999 về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Mục đích của việc ban hành chính sách này là nhằm hỗ trợ cho các dự án đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư. Nghị định 43 cũng là một bước tiến quan trọng trong việc thống nhất cơ chế, thể lệ tín dụng và đầu mối cho vay đầu tư phát triển Nhà nước. Theo Nghị định này, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được thực hiện thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển (được Chính phủ thành lập theo Nghị định 50/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999) dưới ba hình thức hỗ trợ đầu tư là: -Cho vay đầu tư -Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư -Bảo lãnh tín dụng đầu tư a-Cho vay đầu tư: Đối tượng được cho vay theo hình thức này là các dự án đầu tư phát triển có khả năngthu hồi vốn trực tiếp. -Những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn theo các danh mục B và C thuộc một số ngành nghề như: sản xuất điện, khai thác khoáng sản, hoá chất, chế tạo máy công cụ, xây dựng mới cơ sở chế biến nông ,lâm, thuỷ sản, làm muối, sản xuất hàng xuất khẩu, trồng rừng nguyên liệu tập trung... -Các dự án nuôi trồng thuỷ hải sản, chăn nuôi bò sữa. -Các dự án thực hiện chủ trương của chính phủ về xã hội hoá y tế, giáo dục, văn hoá, thể dục thể thao. -Các dự án có sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho vay lại. -Một số chương trình, dự án đầu tư khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Thời hạn vay được xác định theo khả năng thu hồi vốn và trả nợ của chủ đầu tư, nhưng tối đa là 10 năm. Lãi suất cho vay là 9% năm được xác định tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng và được giữ nguyên trong suốt thời hạn cho vay. b-Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư Đây là hình thức mà Nhà nước thông qua quỹ hỗ trợ phát triển hỗ trợ một phần lãi suất cho chủ đầu tư vay vốn của các tổ chức tín dụng để đầu tư dự án sau khi dự án đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đối tượng được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là các dự án được hưởng ưu đãi theo luật khuyến khích đầu tư trong nước hiện hành. Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Số tiền hỗ trợ lãi xuất sau đầu tư được xác định bằng tổng số vốn đã vay đầu tư của tổ chức tín dụng nhân (x) với 50% mức lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Mức lãi suất hỗ trợ được tính tại thời điểm vay vốn và ấn định trong suốt thời hạn vay vốn. c-Bảo lãnh tín dụng đầu tư Bảo lãnh tín dụng đầu tư là cam kết của quỹ hỗ trợ phát triển với tổ chức tín dụng cho vay vốn về việc trả nợ đày đủ, đúng hạn của bên đi vay. Trong trường hợp bên đi vay không trả được nợ hoặc trả không đủ nợ khi đến hạn, Quỹ hỗ trợ phát triển sẽ chịu trách nhiệm trả nợ thay cho bên đi vay. Đối tượng được bảo lãnh là các chủ đầu tư có dự án đầu tư thuộc diện được hưởng ưu đãi đầu tư theo luật Khuyến khích đầu tư trong nươcs nhưng không được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, không được vay hoặc mới chỉ vay một phần vốn tín dụng đầu tư phát triểnt của Nhà nước. Mức bảo lãnh đối với một dự án bằng mức vốn vay của tổ chức tín dụng trong tổng mưcs đầu tư của dự án, nhưng tối đa không vượt mức quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Phí bảo lãnh. Chủ đầu tư được bảo lãnh phải trả cho Quỹ hỗ trợ phát triển một khoản phí bảo lãnh là 0,5%/năm tính trên số tiền đang bảo lãnh. 2-Các ưu đãi tín dụng trong một số lĩnh vực cụ thể: a-Chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn. (Theo Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30-3-1999 của thủ tướng Chính phủ). Có ba loại cho vay: -Cho vay thông thường: để đáp ứng các nhu cầu về vay vốn trong đầu tư, sản xuất của các hộ gia đình, hợp tác xã....Các hộ gia đình vay đến 10 triệu đồng thì không phải thế chấp tài sản mà chỉ nộp kèm theo đơn xin vay giấy chứng nhân quyền sử dụng đất. Đối với Hợp tác xã được dùng tài sản của các thành viên ban quản lý hoặc tài sản hình thành từ vốn vay làm bảo đảm tiền vay. -Cho vay với lãi suất ưu đãi, được thực hiện theo quyết định riêng của Thủ tướng Chính phủ và luật khuyến khích đầu tư trong nước. -Cho vay theo các chương trình, chính sách của Nhà nước như: cho vay các hộ nghèo, cho vay khắc phục hậu quả bão lụt, thiên tai, cho vay đóng mới, cải hoá tàu đánh bắt cá và tàu dịch vụ đánh bắt hải sản xa bờ, cho vay các chương trình khác. b-Chính sách cho vay vốn tạo việc làm: Theo thông tư liên tịch số 13/1999/TTLT-BLĐTBXH-BTC-BKHĐT ngày 8-5-1999 về hướng dẫn cho vay quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm và lập quỹ giải quyết việc làm tại địa phương. -Đối tượng vay: là các hộ gia đình, tổ hợp tác,hợp tác xã, các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp có dự án tạo chỗ làm việc mới, thu hút thêm lao động. -Mức vốn vay: +Đối với hộ gia đình không quá 10 triệu đồng +Đối với dự án có nhiều hộ vay vốn, mức vay của mỗi hộ tối đa không quá 10 triệu đồng +Đối với dự án của cơ sở sản xuất, kinh doanh mức vay không quá 300 triêu đồng và không quá 10 triệu đồng trên một chỗ làm việc mới -Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất ngân hàng thương mại. Mức cụ thể từng thời kỳ do Bộ Tài chính quy định. Phần VII: KHU VựC MậU DịCH Tự DO ASEAN (AFTA), THáCH THứC ĐốI VớI DOANH NGHIệP NHỏ Và VừA Của VIệT NAM. Ngày nay vấn đề toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại đã trở thành vấn đề cấp thiết. Trong quan hệ kinh tế quốc tế, các quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau về vốn, nguyên liệu, công nghệ, thị trường....Do dân số thế giới không ngừng tăng lên,tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt cùng với môi trường sinh thái bị huỷ hoại nghiêm trọng, nên các quốc gia buộc phải tăng cường liên kết kinh tế, mở cửa thị trường, hợp tác để phát triển. Không có quốc gia nào đóng cửa thị trường mà đạt được sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Một ví dụ điển hình là tại Đông á, từ đầu thế kỷ thứ 19, nước Nhật đã mở cửa thị trường buôn bán với phương Tây, tiếp thu khoa học công nghệ,cải cách nền kinh tế. Đặc biệt là thời gian sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã thực hiện chiến lược xuất khẩu nhằm mục tiêu công nghệ hoá, hiện đại hoá, kết quả họ đã trở thành một trong những nước công nghiệp phát triển nhất thế giới (nhóm G8), Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore tuy có chậm hơn nhưng họ cũng trở thành những nước công nghiệp mới (Nics). I-Lý Thuyết Về Tự Do Hoá Thương Mại Vùng Theo lý thuyết về hội nhập vùng, thì ảnh hưởng của việc tạo lập thương mại sẽ dẫn đến thay đổi cả trong sản xuất lẫn tiêu dùng. Sẽ có sự thay thế sản xuất nội địa bằng sản xuất của nước bạn hàng và sự thay thế tiêu dùng của nước bạn hàng bằng hàng hoá sản xuất nội địa. Tạo lập thương mại sản sinh ra hai loại lợi ích kinh tế: một là, tiết kiệm được chi phí sản xuất do nhập khẩu nguyên liệu đầu vào với giá rẻ hơn, hai là, do thay thế chi phí cao bằng chi phí thấp sẽ tạo ra lợi ích thặng dư của người tiêu dùng. Tự do hoá thương mại vùng có thể mang lại lợi ích nếu hầu hết các nhà sản xuất có hiệu quả đều là thành viên. Tự do hoá thương mại sẽ buộc các nhà sản xuất của nước thành viên phải tăng cường khả năng cạnh tranh về giá, chất lượng, mẫu mã, đa dạng hoá sản phẩm nhằm chiếm lĩnh thị trường. Để đạt được mục tiêu, nhà sản xuất phải luôn đổi mới công nghệ và phải đầu tư vào lĩnh vực nào có hiệu quả nhất. Người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi từ việc cạnh tranh này. Tự do hoá thương mại cũng làm cho xuất nhập khẩu nhiều hơn và đó là yếu tố kích thích tăng trưởng kinh tế. Nhà kinh tế học cổ điển David Ricardo đưa ra lý thuyết về lợi thế so sánh, lý thuyết này hiện nay đã được các nền kinh tế thành viên áp dụng, phát huy thế mạnh của mình trong quá trình hội nhập, nó cũng là kết quả của việc phân công lao động quốc tế một cách tự nhiên, theo quy luật thị trường. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) được xem như là cơ hội để Việt Nam thực hiện bước đi đầu tiên của mình trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, nhưng nó cũng là thách thức đối với nền sản xuất của chúng ta. II-Mục Tiêu Của AFTA, Công Cụ Thực Hiện Và Cam Kết Của Việt Nam 1-Mục tiêu của AFTA: -Thứ nhất là thực hiện tự do hoá thương mại bằng việc loại bỏ hàng rào thuế quan trong thương mại nội bộ ASEAN, trong khi vẫn cho phép nước thành viên duy trì chính sách với phần còn lại của thế giới. -Thứ hai, phải giảm dần và tiến tới xoá bỏ hẳn các biện pháp phi quan thuế, như: hạn chế số lượng, quota, giấy phép, phụ thu hải quan, các biện pháp cản trở thương mại khác. -Thứ ba, làm cho ASEAN thích nghi với môi trường kinh tế quốc tế, dần dần phù hợp với các nguyên tắc của APEC và WTO. -Thứ tư, thu hút đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một khối thị trường chung thống nhất với những điều kiện ưu đãi hấp dẫn đầu tư nước ngoài hơn các khu vực khác. 2-Công cụ để thực hiện mục tiêu AFTA a-Công cụ để thực hiện tự do hoá thương mại, thực hiện mục tiêu Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN là Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Ngay sau khi trở thành thành viên ASEAN, tháng 7-1995 Việt Nam đã ký kết tham gia hiệp định này, cam kết giảm dần thuế suất thuế nhập khẩu xuống 0 đến 5%. Bắt đầu thực hiện từ năm 1996 và phải hoàn thành vào năm 2006 ( trừ các mặt hàng thuộc danh mục loại trừ hoàn toàn và một số mặt hàng thuộc danh mục loại trừ tạm thơì), giảm dần và thôi áp dụng các biện pháp bảo hộ mậu dịch khác; loại bỏ các biện pháp phi thuế quan (giấy phép, quota, hạn chế định lượng, phụ thu hải quan...), chỉ được bảo hộ sản xuất trong nước bằng biện pháp thuế quan nhưng ở mức thấp và một số biện pháp khác phù hợp với thông lệ quốc tế như: tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm, môi trường, sức khoẻ cộng đồng... b-Khái niệm về các danh mục mặt hàng trong hiệp định CEPT Hiệp định áp dụng với tất cả sản phẩm chế tạo, sản phẩm cơ bản và nông sản, chia ra làm 4 loại danh mục hàng hoá: +Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL): Là danh mục bao gồm các mặt hàng ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, sức khoẻ, văn hoá phẩm ảnh hưởng xấu tới đạo đức xã hội, lịch sử, truyền thống văn hoá.(Việt Nam quy định khoảng 213 mặt hàng thuộc danh mục này, chiếm khoảng 41% kim ngạch NK với ASEAN). +Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) Tức là các mặt hàng tạm thời chưa đưa vào thực hiện hiệp định CEPT, chiếm 34% kim ngạch nhập khẩu từ ASEAN. +Danh mục hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SEL): Danh mục này gồm các mặt hàng nông sản rất nhạy cảm đối với nền kinh tế, nếu đưa vào thực hiện CEPT ngay nó sẽ tác động bất lợi tới sản xuất ( đối với danh mục này mỗi năm các nước thành viên phải chuyển 20% mặt hàng vào danh mục cắt giảm). +Danh mục mặt hàng đưa vào thực hiện CEPT: Danh mục này được chia làm hai loại: loại giảm nhanh và loại giảm bình thường. Vừa qua, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ VI tại Hà Nội tháng12-1998. Nguyên thủ của nhiều quốc gia thành viên lại đề nghị rút ngắn thêm thời gian hoàn thành, đối với Việt Nam các nước vẫn dành ưu tiên cho thời gian hoàn thành là vào năm 2006 nhưng phải có nghĩa vụ tối đa hoá các dòng thuế đạt 0 - 0,5% vào năm 2003 ( tối đa hoá tự nguyện). III-Tình Hình THực Hiện Hiệp Định CEPT Của Việt Nam +Năm 1996, năm đầu tiên Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế theo CEPT,Chính phủ ban hành Nghị định 91/CP ngày 18-12-1995, đưa 875 mặt hàng vào thực hiện Hiệp định. +Năm 1997,Chính phủ ban hành Nghị định 82/CP ngày 13-12-1996 đưa 1496 mặt hàng vào thực hiện CEPT, tuy đưa vào Hiệp định nhưng trên thực tế ta chưa thực sự cắt giảm thuế. +Năm 1998,Chính phủ ban hành Nghị định 15/1998/NĐ-CP ngày 12-3-1998 gồm 1719 mặt hàng. +Năm 1999,Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 14/1999/NĐ-CP gồm 3582 mặt hàng và đây cũng là năm chúng ta thực sự giảm thuế nhập khẩu với ASEAN. Ngoài 4 Nghị định trên đây, Chính phủ cũng đã thông qua lịch trình giảm thuế nhập khẩu tổng thể với ASEAN cho cả giai đoạn 10 năm (1996-2006 ) sách hướng dẫn lịch trình này đã được Bộ tài chính xuất bản tháng 2-1998 và đã chuyển tới các Bộ, ngành, địa phương để hướng dẫn cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Về lộ trình giảm các biện pháp phi quan thuế: Hiệp định CEPT quy định các nước thành viên phải huỷ bỏ ngay các hạn chế về định lượng đối với các sản phẩm trong danh sách cắt giảm và huỷ bỏ các biện pháp phi quan thuế khác trong vòng 5 năm kể từ khi cắt giảm. Việt Nam bắt đầu thực hiện bước cắt giảm vào năm 1996, điều đó có ý nghĩa rằng việc huỷ bỏ các biện pháp phi quan thuế phải hoàn thành vào năm 2000, sau các nước khác 3 năm.Nhưng đến nay ta vẫn chưa hoàn thành. Thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong cải cách thủ tục xuất nhập khẩu (Nghị định 57/1998/NĐ-CP), cho phép thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập hợp pháp đều được phép xuất nhập khẩu trực tiếp mà không cần xin giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, chỉ cần đăng ký mã số kinh doanh XNK với cục Hải quan cấp tỉnh, thành phố. Thủ tục kiểm tra Hải quan đã có một số cải tiến, doanh nghiệp tự kê khai tính thuế XNK, tự chịu trách nhiệm, thời gian giải phóng hàng đã rút ngắn, đã thực hiện hệ thống hành lang xanh với các nước ASEAN. IV-Anh Hưởng Của AFTA Đối Với Nền Kinh Tế 1-Đối với thương mại: Thời gian qua hầu hết các mặt hàng nhập khẩu từ ASEAN đều chưa được hưởng ưu đãi thuế quan của ta, do yêu cầu bảo hộ sản xuất trong nước thêm một thời gian nữa. Mặc dù chưa được giảm thuế tối đa, Việt Nam vẫn bị nhập siêu. Các mặt hàng có thuê suất thấp, được đưa vào các Nghị định của Chính phủ, trên thực tế ta không nhập của ASEAN. Chắc chắn vào những năm đầu của năm 2000, theo cam kết ta phải giảm mạnh thuế suất thuế nhập khẩu, loại bỏ các biện pháp hạn chế định lượng, lúc đó ảnh hưởng của việc tham gia AFTA đối với thương mại và sản xuất sẽ rất rõ ràng. 2-Đối với đầu tư: Tính đến hết tháng 5-1998 ta đã cấp giấy phép cho 345 dự án đầu tư của các nước ASEAN, bằng 15,9% tổng số dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, trị giá 9,2 tỷ USD. Ta cũng đã cam kết dành đãi ngộ quốc gia cho các nhà đầu tư ASEAN (AIA). Vừa qua, do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực, đầu tư của ASEAN vào Việt Nam có giảm sút, nhưng về lý thuyết, khi được hưởng ưu đãi thuế quan thì các nhà đầu tư ASEAN sẽ lại tìm kiếm cơ hội tái đầu tư. 3-Đối với dịch vụ: Việt Nam đã cam kết mở cửa một số phân ngành thuộc 7 lĩnh vực dịch vụ, gồm: du lịch, hàng hải, hàng không, tài chính, bảo hiểm, kế toán và dịch vụ kinh doanh. Việc mở cửa thị trường dịch vụ, tuy còn bị hạn chế về hình thức trao đổi kinh doanh dịch vụ song nếu ta không tự vươn lên thì các doanh nghiệp của ta sẽ phải đương đầu và cạnh tranh quyết liệt với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ của ASEAN. V-Anh Hưởng Của AFTA Đối Với Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa: 1-Cơ Hội: +Là cơ hội mở rộng thị trường, do thị trường trong nước nhỏ, quy mô hạn hẹp, sức mua yếu (dân số khoảng 80 triệu người, GDP tính theo đầu người thấp xấp xỉ 300 USD) tham gia AFTA, các doanh nghiệp Việt Nam mới có thêm cơ hội tiếp cận với thị trường bên ngoài. +Là động lực đổi mới công nghệ, thiết bị, tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, nhằm chiếm lĩnh thị trường +Sẽ xuất hiện những ngành, nghề mới do tạo lập thương mại dẫn đến thay đổi cả sản xuất lẫn tiêu dùng ,thay thế sản xuất nội địa bằng sản xuất của nước bạn hàng và ngược lại. Thực tế này đã diễn ra,Singapore và Malaysia đã chuyển sang các ngành công nghệ cao, hàm lượng vốn lớn,các ngành cần nhiều lao động dần chuyển sang Thái Lan và Indonesia. +ổn định và hấp dẫn đầu tư nước ngoài hơn do rào chắn thương mại khu vực bị rỡ bỏ. +Người tiêu dùng trong nước được lựa chọn,sử dụng hàng hoá tốt hơn, giá thành hạ hơn với nhiều chủng loại hàng hoá khác nhau. 2-Thách Thức: Do thiếu thông tin và số liệu về doanh nghiệp nhỏ và vừa nên báo cáo chỉ phân tích ảnh hưởng của AFTA đối với DNN&V, dựa trên hai yếu tố: yếu tố ngành hàng, và lợi thế của đối thủ cạnh tranh. a-Ngành hàng: -Về sản xuất:DNN&V của ta hiện nay hoạt động phổ biến trong các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, khai thác chế biến lâm sản, nuôi trồng đánh bắt, chế biến thuỷ sản, trong công nghiệp có dệt , may, da giầy, chế biến gỗ, sành sứ,vật liệu xây dựng, một số sản phẩm công nghiệp tự cung tự cấp, đồ thủ công mỹ nghệ, một số thiết bị, máy móc và nhận gia công bán thành phẩm cho các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... -Về dịch vụ: hoạt động chủ yếu trong các linh vực: dịch vụ sửa chữa, vận tải hàng hoá,vận chuyển hành khách, dịch vụ du lịch,kinh doanh khách sạn, nhà hàng, xây dựng, kiến trúc, tư vấn đầu tư, pháp lý... -Về thương mại: phổ biến là kinh doanh xuất nhập khẩu, phân phối, lưu thông hàng hoá, đại lý bán buôn, tổ chức bán lẻ cho các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hãng nước ngoài. b-Về đối thủ cạnh tranh: -Doanh nghiệp của các nền kinh tế thành viên ASEAN có năng lực cạnh tranh cao hơn nhất là các doanh nghiệp của Singapore, Malaysia, Thailan...Trong khi doanh nghiệp của Việt Nam có quy mô vốn ít, công nghệ, thiết bị máy móc lạc hậu, chưa có kinh nghiệm quản lý, thiếu kiến thức về buôn bán quốc tế... -Về thị trường tiêu thụ khu vực đã dần ổn định, do ASEAN tự do hoá thương mại trước ta, các doanh nghiệp của họ đã tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường từ nhiều năm nay, doanh nghiệp Việt Nam khó có khả năng thâm nhâp. -Lợi thế so sánh của ta trùng với lợi thế so sánh của các nước trong khu vực: nguyên liệu chưa chế biến, hàng nông sản, lâm sản, thuỷ sản cũng đều thuộc thế mạnh của ASEAN. Hàng hoá sử dụng nhiều lao động như: dệt, may mặc, quần áo, giầy dép, xây dựng... thuộc thế mạnh của Thailan, Indonesia. Hàng công nghệ cao, điện, điện tử, công nghiệp thực phẩm chế biến (Singapore, Malaysia). -Các nền kinh tế thành viên cũng có thế mạnh về lao động -Về dịch vụ, phần lớn các nước thành viên đạt trình độ cao hơn ta, nhất là dịch vụ hàng không, vận tải biển, du lịch,khách sạn, viễn thông, kiểm toán, kế toán, bảo hiểm, ngân hàng, tài chính, xây dựng, dịch vụ xuất khẩu lao động... -Các ngành công nghệ cao, hàm lượng lao động ít: công nghệ thông tin, máy tính, linh kiện máy tính, phần mềm, hàng điện tử (Singapore, Malaysia). 3-Kết luận: Tóm lại, thách thức đối với DNN&V là tính cạnh tranh gay gắt của việc mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế khu vực. Công cụ bảo hộ chủ yếu của Nhà nước đối với sản xuất nội địa là hàng rào thuế quan cao và phi thuế quan sẽ dần mất đi và kết thúc vào năm 2006. Người tiêu dùng trong nước sẽ lựa chọn và sử dụng hàng hoá rẻ và tốt hơn, dẫn đến nguy cơ các doanh nghiệp Việt Nam bị thua ngay trên thị trường trong nước. Để tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh quốc tế, trước hết doanh nghiệp phải tự vươn lên, phải hết sức linh hoạt, nhất là việc tiếp cận thị trường, xác định chiến lược kinh doanh, quyết định quy mô sản xuất, cơ cấu đầu tư phù hợp, thay thế máy móc thiết bị cũ kỹ, dây chuyền sản xuất lạc hậu. Đa dạng hoá các loại hình kinh doanh, dịch vụ, cải tiến thay đổi mẫu mã,chuyển hướng sản xuất, đầu tư vào cái gì hiệu quả nhất. Về đầu tư phát triển nguồn nhân lực, DNN&V chưa chú trọng đến kiến thức quản trị kinh doanh, tìm hiểu thâm nhập thị trường, nắm và hiểu biết cách thức, thể lệ buôn bán quốc tế, ký kết, thực hiện, giải quyết tranh chấp hợp đồng ngoại...Nâng cao trình độ của cả người sử dụng lao động chính là yếu tố tăng cường khả năng cạnh tranh. Một việc nữa mà các doanh nghiệp cần phải làm ngay là tổ chức thành lập hoặc tham gia vào các hiệp hội ngành hàng ở địa phương mình. Chính sách của Nhà nước đối với DNN&V, thời gian tới là xem xét, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện để doanh nghiệp phát huy hết khả năng của mình. Nhà nước sẽ nghiên cứu các chính sách: về ưu đãi tín dụng, về thuế, tỷ giá, cung cấp thông tin thị trường, thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại, quỹ hỗ trợ xuất khẩu, cải cách và đơn giản hoá thủ tục xuất nhập khẩu, cho thuê đất, thế chấp vay tín dụng, thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh,....nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trụ lại được trong điều kiện mở cửa thị trường. Phần VIII: Phần Kết Luận Thứ nhất: Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, một nhiệm vụ chiến lược: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã xác định xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, và “trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu lên cơ cấu kinh tế hiện đại, nền kinh tế quốc dân sẽ bao gồm nhiều ngành, nghề, nhiều quy mô, nhiều trình độ công nghệ”. Thực tế đã chỉ rõ, về quy mô sản xuất kinh doanh ở nước ta, điều hợp lý là phải kết hợp chặt chẽ giữa quy mô lớn, quy mô vừa và quy mô nhỏ, trong đó quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu. Thứ hai: Hình thành một hệ thống chính sách khuyến khích: Một hệ thống chính sách minh bạch, nhất quán, ổn định và được thực thi nghiêm túc đang là đòi hỏi rất cấp bách của DNN&V, để DNN&V có thể đứng vững trong thị trường trong nước và có đủ sức cạnh tranh trong hội nhập quốc tế. Có thể nêu các chính sách chủ yếu như sau: +Chính sách về vốn +Chính sách thị trường +Chính sách khuyến khích đầu tư +Chính sách thuế +Chính sách mặt bằng kinh doanh +Chính sách về công nghệ Thứ ba: DNN&V có rất nhiều khả năng thu hút lao động, giải quyết việc làm. Nhưng trình độ tay nghề của người lao động ở đây rất kém, chủ yếu là lao động phổ thông.Vì vậy rất cần đẩy mạnh việc đào tạo nhân công lành nghề tại các trường, lớp đào tạo bằng nhiều hình thức do các DNN&V hoặc các tổ chức xã hội đảm nhiệm. Nhà nước tạo thuận lợi, khuyến khich phát triển và nâng cao chất lượng các trung tâm dạy nghề, khuyến khích các doanh nghiệp lớn liên kết, giúp đỡ các DNN&V đào tạo công nhân lành nghề. Đối với doanh nhân, điều quan trọng là có sự nhìn nhận mới của các nhà quản lý và của xã hội, xoá bỏ mọi kỳ thị, phân biệt đối xử, cần cải thiện bộ mặt của doanh nhân trên các phương tiện thông tin đại chúng.Doanh nhân trong khu vực kinh tế dân doanh là những người rất đáng tôn vinh vì họ đã mạnh dạn bỏ vốn đầu tư kinh doanh trong điều kiện khó khăn, bất trắc hiện nay.Tuy nhiên, điều dáng chú ý hiện nay là nhiều doanh nhân chưa được đào tạo về quản trị kinh doanh, chỉ có khoảng 30% là có trình độ từ cao đẳng trở lên, và khoảng 48% doanh nhân không có bằng cấp chuyên môn. Kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp còn rất thiếu, còn bỡ ngỡ trước thị trường đang đầy rẫy cạnh tranh và thách thức. Vì vậy, rất cần thiết bằng nhiều hình thức do Nhà nước tổ chức và nhất là khuyến khích mạnh các tổ chức xã hội mở rộng việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ doanh nhân phù hợp với kinh tế thị trường. Thứ tư: Mạng lưới các tổ chức tư vấn, hỗ trợ: Trong điều kiện kinh doanh vừa rất mới, vừa rất khó khăn, hoạt động của các tổ chức tư vấn, tổ chức hỗ trợ là rất cần thiết. Nội dung tư vấn có rất nhiều: từ tư vấn về thị trường, công nghệ đến quản trị kinh doanh, v.v...Các hoạt động hỗ trợ cũng rất đa dạng, nhất là về vốn, đào tạo nghề. Các DNN&V hiện nay cũng rất thiếu thông tin, kể cả các văn bản pháp quy về chủ trương, chính sách mà họ cần biết để thi hành, thông tin về thị trường, về công nghệ... Chúng ta có thể dựa vào các tổ chức nước ngoài để giải quyết yêu cầu này, nhưng chủ yếu vẫn phải là khai thác khả năng trong nước.Trong kinh tế thị trường, cộng đồng xã hội và các tổ chức xã hội giữ vai trò cực kỳ quan trọng, giữ cầu nối với Nhà nước với doanh nghiệp trong nhiều loại hoạt động. Cộng đồng các DNN&V rải rác khắp nước, có những tiềm năng rất phong phú để tự lo liệu công việc của họ. Nhà nước chỉ nên quản lý những công việc đích thực cần thiết, chỉ nên làm những việc mà xã hội và doanh nghiệp không làm được. Các tổ chức nghề nghiệp như phòng thương mại, hội công thương, câu lạc bộ doanh nghiệp, trung tâm tư vấn...là những tổ chức dân sự rất đáng khuyến khích phát triển, là nơi mà cộng đồng các DNN&V cùng nhau bàn luận một cách dân chủ và giúp nhau giải quyết được nhiều việc về tư vấn và hỗ trợ nói trên mà không cần thiết đến bàn tay của Nhà nước, kể cả việc thông qua các tổ chức xã hội đó, doanh nhân tự giáo dục để tự hoàn thiện. Đó chính là mô thức “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” mà Trung Quốc nêu lên trong cuộc cải cách mở cửa. Thứ năm: Vai trò của Nhà nước Trong kinh tế thị trường, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn các lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Nhà nước có chức năng định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát và xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế, khuyến khích cạnh tranh hợp pháp, chống độc quyền, bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Nhà nước là “người cầm lái” chứ không phải là “người cầm chèo”. Nhà nước không can thiệp vào những hoạt động sản xuất kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp. Theo hướng đó, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho DNN&V trong các mặt như: +Đơn giản hoá các thủ tục đăng ký kinh doanh. Thay vì doanh nghiệp phải xin cấp giấy phép thành lập và xin cấp giấy đăng ký kinh doanh, sau đó lại phải xin cấp rất nhiều giấy phép hành nghề như trước đây, từ nay doanh nghiệp chỉ cần đăng ký kinh doanh với thủ tục đơn giản.Theo Nghị định 25/1999 ngày 8-7-1999 ban hành quy chế đầu tư và xây dựng, giấy phép đầu tư đối với doanh nghiệp trong nước cũng đã được bãi bỏ, khoảng gần 200 loại giấy phép hành nghề cũng đang được nghiên cứu giảm bớt. +Để hỗ trợ các DNN&V, Nhà nước cần hình thành rõ một hệ thống các cơ chế chính sách khuyến khích phát triển mạnh hơn nưã DNN&V như đã trình bày ở trên. Điều quan trọng là xác định rõ nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước, các cơ quan chính quyền các cấp trong việc nghiên cứu, ban hành và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các chính sách khuyến khích, hỗ trợ đã được ban hành. Khắc phục khuynh hướng các bộ,nganhfban hành các văn bản, các thông tư không quán triệt đường lối đổi mới, quy định những điều khoản bảo vệ cho quyền hành và lợi ích cục bộ của bộ, ngành đó mà không quan tâm đến những khó khăn vất vả của doanh nghiệp khi thực hiện. Chính phủ cũng đã quy định quyền của doanh nghiệp trong việc tham gia hoạch định chính sách, đối với các văn bản liên quan đến đối tượng thi hành là doanh nghiệp thì trước khi ban hành, phải được lấy ý kiến đóng góp của doanh nhân thông qua các tổ chức như: Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, các hiệp hội công thương. +Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính vẫn là một nhiệm vụ rất nặng nề của các cơ quan hành chính nhà nước. Phải làm cho mọi công chức nhận thức đầy đủ rằng họ là những người do dân, do doanh nghiệp đóng thuế để nuôi, chức trách của họ là phục vụ dân, phục vụ doanh nghiệp, chứ không phải là cấp trên, có quyền ban ơn cho các doanh nghiệp, họ thi hành công vụ chính là thực hiện những công việc được pháp luật giao cho, họ “chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép” chứ không được bày vẽ ra những lệ làng để sách nhiễu doanh nghiệp. Những hành vi cửa quyền, sách nhiễu của công chức đối với doanh nghiệp phải được trừng trị nghiêm khắc. +Việc thanh tra kiểm tra các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đang là một lĩnh vực gây rất nhiều khó khăn, phiền hà, làm nản lòng các doanh nhân. Nhà nước đã có Nghị định quy định khá chặt chẽ về công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền. Việc thanh tra, kiểm tra phải theo đúng chức năng, đúng thẩm quyền và tuân thủ các quy định của pháp luật. Luật doanh nghiệp cũng quy định rõ: việc thanh tra về tài chính được thực hiện không quá một lần trong một năm đối với một doanh nghiệp, thời hạn thanh tra không quá 30 ngày. Khi thanh tra phải có quyết định, kết thúc phải có bản kết luận. Công chức lợi dụng thanh tra để sách nhiễu doanh nghiệp thì phải bị xử lý, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường cho doanh nghiệp. Đó là những quy định rõ ràng nhằm bảo vệ quyền của doanh nghiệp, cần được thực hiện nghiêm túc. +Các cơ quan bảo vệ pháp luật, khi xử lý các vụ doanh nhân vi phạm pháp luật, cần phân tích toàn diện, hiểu rõ những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như những bất cập của hệ thống pháp luật hiện hành mà xử lý đúng người, đúng tội, không nên một chiều hình sự hoá các quan hệ dân sự. +Để hình thành các tổ chức xã hội trong các hoạt động tư vấn, hỗ trợ các DNN&V, Nhà nước cần có chính sách ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức xã hội đó hoạt động có hiệu quả thiết thực, khắc phục các tiêu cực có thể xảy ra. Về phía mình, Chính phủ cần hình thành một tổ chức của Nhà nước làm đầu mối phối hợp các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội nghiên cứu và đề xuất các cơ chế, chính sách, các chương trình hỗ trợ DNN&V,v.v... Tóm lại, để phát triển mạnh hơn nữa các DNN&V, cần giải quyết nhiều vấn đề đồng bộ, từ nhận thức đến các chính sách khuyến khích, khung pháp lý phù hợp và tổ chức thợc hiện có hiệu quả, đòi hỏi sự cố gắng vươn lên của các DNN&V, nhưng chủ yếu vẫn là các cơ quan Nhà nước phải tiếp tục đổi mới nền hành chính Nhà nước, từ thể chế đến bộ máy và công chức, bảo đảm cho Nhà nước thực hiện đúng chức năng của mình trong quan hệ với doanh nghiệp. MụC LụC Phần mở đầu Phần I: Định nghĩa khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa Phần II: Đặc điểm khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa Phần III: DNN&V với luật khuyến khích đầu tư trong nước Phần IV: Luật doanh nghiệp - Cơ sở pháp lý mới đối với các DNN&V ngoài quốc doanh Phần V: Những khía cạnh pháp lý của việc thuê đất kinh doanh, thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn Phần VI: Chính sách, pháp luật thuế, tín dụng hỗ trợ phát triển DNN&V Phần VII: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), thách thức đối với DNN&V của Việt Nam Phần VIII: Phần kết luận Tài Liệu Tham Khảo 1-Các Văn Bản Pháp Luật Về Quản Lý Doanh Nghiệp 2-Phát Triển Kinh Tế 3-Kỷ Yếu Khoa Học: Dự án chính sách hỗ trợ phát triển 4-Kinh Tế Ngoài Quốc Doanh Thời Kỳ Mở Cửa 5-Tạp Chí Công Nghiệp 6-Tạp Chí Cộng Đồng Phát Triển 7-Tạp Chí Việt Nam Châu á Thái Bình Dương.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0247.doc
Tài liệu liên quan