Đối với các vụ án mua bán người
không quả tang, rất khó xác định tình
tiết định khung tăng nặng hình phạt tại
khoản 3 Điều 150 BLHS năm 2015 “Đã
lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” vì trong
trường hợp này, chúng ta chỉ xác định
được trong trường hợp nạn nhân trở về
và tố cáo với cơ quan Công an thì mới xác
định được. Trong trường hợp có đủ chứng
cứ đề chứng minh đối tượng phạm tội có
hành vi mua bán nhiều người nhưng có
những người chưa trở về, chưa xác định
được địa chỉ họ đang ở đâu, nếu họ đã bị
lấy đi bộ phận cơ thể nào đó thì xử lý thế
nào? Tương tự như vậy, tình tiết làm nạn
nhân tự sát cũng rất khó xác định trong
trường hợp không xác định được người
bị hại đang ở đâu. Nếu họ tự sát do bị
làm nhục thì cũng không có căn cứ để xử
lý đối với người phạm tội.
Việc xác định thiệt hại, giá trị vụ lợi
là rất khó khăn trong thực tiễn, bởi việc
mua bán được thỏa thuận thực hiện giữa
người mua và người bán mà người bị hại
có thể biết hoặc không thể biết được giá
trị mua bán của bản thân mình, dẫn đến
việc không thể xác định được giá trị của
vụ lợi. Đặc biệt, trong trường hợp người
mua ở nước ngoài thì Cơ quan điều tra
chỉ có thể căn cứ vào lời khai của người
phạm tội để xác định, việc chỉ dựa vào lời
khai của người phạm tội có giá trị chứng
minh thấp và không khách quan./.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 269 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những khó khăn vướng mắc khi thu thập, đánh giá chứng cứ trong điều tra các vụ án mua bán người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
27Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
NguyễN Huy BìNH
Trong những năm qua với sự nỗ lực của các cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát các
cấp đã khởi tố, điều tra 1.947 vụ án mua
bán người (đạt tỷ lệ 88,29%), bắt 3.055 đối
tượng. Riêng trong 05 đợt tổ chức triển
khai cao điểm theo từng năm, đã điều
tra, khám phá 579 vụ (chiếm 29,74% tổng
số vụ), với 807 đối tượng (chiếm 26,41%
tổng số đối tượng). Viện kiểm sát nhân
dân các cấp đã truy tố 1.360 vụ, với 2.675
bị can về tội mua bán người, trong đó:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã trực
tiếp thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra 19 vụ, với 38 bị can1.
1 Tổng hợp báo cáo của VP130.
Để tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động
đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung và tội phạm mua bán người nói
riêng, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) quy định tội mua bán người
(Điều 150), tội mua bán người dưới 16
tuổi (Điều 151) được tách ra từ tội mua
bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em (Điều
120 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung
năm 2009).
Đặc trưng của tội mua bán người
Điều 150 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) gồm:
- Về phương thức của tội phạm:
NHỮNG KHÓ KHĂN VƯỚNG MẮC KHI THU THẬP, ĐÁNH GIÁ
CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN MUA BÁN NGƯỜI
NguyễN Huy BìNH*
* Tiến sĩ, Khoa cảnh sát hình sự, Học viện Cảnh
sát nhân dân
Thu thập, đánh giá chứng cứ trong điều tra các vụ án mua bán người là
hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Trong đó, các cơ quan, cá nhân này sử dụng những
biện pháp được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS); đây là hoạt
động rất quan trọng trong công tác đấu tranh, phòng chống các tội phạm mua
bán người. Bài viết nghiên cứu một số hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ
trong điều tra tội phạm mua bán người trên cơ sở áp dụng những quy định
trong BLTTHS năm 2015; đồng thời rút ra một số khó khăn, vướng mắc trong
hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong điều tra các vụ án mua bán người.
Từ khóa: Thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ, điều tra, vụ án mua bán
người.
Evidence collection and assessment in investigating human trafficking
crimes belongs to competent procedural authorities and individuals who use
methods prescribed under the Criminal Procedure Code. These activities play
an important role in combating and preventing human trafficking crimes. The
paper studies on several collecting and assessing activities in human trafficking
crimes based on regulations of the Criminal Procedure Code, then points out
some difficulties and inadequacies of these activities in that kind of crimes.
Keywords: Evidence collection, evidence assessment, investigation, human
trafficking crimes.
28
NhữNg khó khăN vướNg mắc khi thu thập, đáNh giá chứNg cứ...
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
Chuyển giao, tiếp nhận, tuyển mộ, vận
chuyển, chứa chấp người.
- Về hành vi của tội phạm: Dùng vũ
lực, đe doạ dùng vũ lực, lừa gạt hoặc
bằng thủ đoạn khác.
- Về mục đích của tội phạm: Giao,
nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất
hoặc bóc lột tình dục, cưỡng bức lao
động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân
hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.
Tuy nhiên, riêng phương thức tuyển
mộ, vận chuyển, chứa chấp phải để
chuyển giao hoặc tiếp nhận thì mới có
thể xử lý về tội mua bán người.
Đối với tội mua bán người dưới 16
tuổi, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) quy định tương tự như tội
mua bán người nhưng khác biệt ở chỗ:
So với tội phạm mua bán người, khi xử
lý tội phạm mua bán người dưới 16 tuổi,
không cần phải chứng minh hành vi
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt
hoặc bằng thủ đoạn khác của đối tượng
phạm tội.
Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 đưa
ra khái niệm chứng cứ được quy định
tại Điều 86. Chứng cứ được thu thập từ
nhiều nguồn khác nhau, gồm: Vật chứng;
lời khai, lời trình bày; dữ liệu điện tử; kết
luận giám định, định giá tài sản; biên bản
trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án; kết quả thực hiện ủy
thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; các
tài liệu, đồ vật khác (Điều 87 BLTTHS).
Như vậy, BLTTHS năm 2015 ngoài việc
quy định cụ thể, rõ ràng hơn so với
BLTTHS năm 2003 một số nguồn chứng
cứ như lời trình bày, biên bản trong hoạt
động khởi tố, thi hành án thì đã bổ sung
thêm các nguồn chứng cứ là: Dữ liệu điện
tử; kết luận định giá tài sản; kết quả thực
hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế.
Điều này tạo điều kiện thuận lợi để các
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
có thể đấu tranh phòng chống tội phạm
nói chung và tội phạm mua bán người
nói riêng.
Trên thực tế, để thu thập chứng cứ
trong giai đoạn tố tụng tội phạm mua
bán người cần phải thông qua các biện
pháp sau:
Một là, biện pháp lấy lời khai bị hại,
người làm chứng. Trong vụ án mua bán
người, lời khai của người bị hại, người
làm chứng là nguồn chứng cứ phổ biến,
gần như là điểm xuất phát, cơ sở để Cơ
quan điều tra tiến hành điều tra, xác
minh thu thập các nguồn chứng cứ liên
quan khác.
Quá trình lấy lời khai cần tập trung
làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản: Có
sự việc mua bán người hay không (việc
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt
hoặc có thủ đoạn khác để tuyển mộ, chứa
chấp, di chuyển, vận chuyển, tiếp nhận,
chuyển giao, giá cả, phương thức thanh
toán, vấn đề bóc lột tình dục, cưỡng bức
lao động, lấy bộ phận cơ thể)? Xảy ra ở
đâu, thời gian nào? Ai là người thực hiện
hành vi phạm tội mua bán người (nhân
thân lai lịch, đặc điểm nhận dạng, nơi cư
trú, vị trí, vai trò của đối tượng phạm tội)?
Thủ đoạn phạm tội là gì, hậu quả, thiệt
hại do hành vi phạm tội gây ra? Riêng
đối với lời khai của người làm chứng,
ngoài làm rõ các nội dung trên, cần làm
rõ lý do vì sao họ biết được những tình
tiết mà họ trình bày.
Hai là, công tác bắt, khám xét, thu giữ
vật chứng. Mục đích của việc bắt, khám
xét là để phát hiện, thu giữ vật chứng, đồ
vật tài liệu khác có liên quan để chứng
29Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
NguyễN Huy BìNH
minh hành vi phạm tội của đối tượng
thực hiện hành vi mua bán người. Thực
tiễn trong điều tra vụ án mua bán người,
để thu thập thêm tài liệu chứng cứ, Cơ
quan điều tra thực hiện việc bắt, khám
xét khẩn cấp là chủ yếu vì vụ án mua bán
người thông thường đã xảy ra trước đó
một thời gian dài, nạn nhân thường bị
mua bán trao đổi, vận chuyển, chuyển
giao từ nơi này đến nơi khác, qua biên
giới, khi trốn thoát mới trình báo, tố giác
đến cơ quan Công an. Trong quá trình
bắt, khám xét cần tập trung chú ý phát
hiện, thu giữ: Công cụ, phương tiện, giấy
tờ, tài liệu sử dụng vào hoạt động mua
bán người (phương tiện thông tin liên
lạc, giấy tờ, tài liệu sử dụng vào hoạt
động mua bán người, vũ khí, phương
tiện vận chuyển); Văn bằng, chứng chỉ,
giấy khai sinh của nạn nhân hoặc giả mạo
hộ chiếu, chứng minh thư của nạn nhân;
Tiền, vàng, quần áo, đồ trang sức của
nạn nhân bị các đối tượng phạm tội mua
bán người chiếm đoạt; Tiền hoặc tài sản
có được do phạm tội mua bán người mà
có; Những tài liệu khác có giá trị chứng
minh tội phạm mua bán người (sổ sách,
tài liệu ghi tên nạn nhân hoặc những lần
chuyển giao nạn nhân, ghi chép số tiền
nhận được, địa chỉ của các đối tượng
khác, số điện thoại của đồng bọn...).
Ba là, công tác hỏi cung bị can. Hỏi
cung bị can là một trong những hoạt
động điều tra vụ án liên quan đến mua
bán người phải thực hiện nhằm tiếp tục
thu thập, củng cố chứng cứ chứng minh
tội phạm và người thực hiện hành vi
phạm tội mua bán người. Lời khai của
đối tượng nghi vấn, người bị tạm giữ, bị
can được coi là một nguồn chứng cứ khi
nó phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác
mà cơ quan điều tra thu thập được. Trong
quá trình đấu tranh xét hỏi đối tượng, hỏi
cung bị can trong vụ án mua bán người
cần tập trung làm rõ: Nhân thân, lai lịch,
tiền án, tiền sự; nội dung, diễn biến hành
vi phạm tội mua bán người của các đối
tượng; làm rõ về nạn nhân mà các đối
tượng đã mua bán (số lượng, nhân thân
lai lịch nạn nhân), tình trạng hiện tại
của nạn nhân, địa điểm giam giữ, mua
bán, bóc lột; phương thức, thủ đoạn hoạt
động của tổ chức, đường dây tội phạm
mua bán người; phương tiện mà các đối
tượng sử dụng để tuyển mộ, vận chuyển,
chuyển giao nạn nhân; lợi nhuận các đối
tượng đã thu được từ hoạt động phạm tội
mua bán người từ trước đến khi bị bắt.
Bốn là, công tác phục hồi khai thác
phương tiện, dữ liệu điện tử. Cơ quan
điều tra yêu cầu Cơ quan chuyên môn
thực hiện việc phục hồi, khai thác dữ liệu
trong thiết bị điện tử thu giữ, tạm giữ
được (điện thoại, máy vi tính, địa chỉ thư
điện tử, mạng xã hội...) để thu thập thông
tin, tài liệu liên quan đến việc mua bán
người, phục vụ công tác điều tra vụ án.
Năm là, công tác trưng cầu giám định.
Cơ quan điều tra ra quyết định trưng cầu
giám định yêu cầu cơ quan, người giám
định tiến hành giám định để phục vụ cho
hoạt động điều tra trong vụ án mua bán
người trong các trường hợp: Giám định
tài liệu trong trường hợp thu giữ được các
văn bản, giấy tờ, tài liệu, sổ sách ghi chép
việc mua bán người hoặc các trường hợp
nghi vấn đối tượng có hành vi giả mạo tài
liệu để thực hiện hành vi phạm tội (làm
giấy tờ tùy thân giả, hộ chiếu giả, tài liệu
giả khác...); giám định âm thanh trong các
cuộc giao dịch, liên lạc, trao đổi liên quan
đến tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao
nạn nhân; giám định tâm thần khi có sự
nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai
báo đúng đắn đối về các tình tiết vụ án
của người bị hại, người làm chứng; giám
30
NhữNg khó khăN vướNg mắc khi thu thập, đáNh giá chứNg cứ...
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
định tuổi của bị can, người bị hại (đặc biệt
là với các trường hợp giữa các độ tuổi của
nạn nhân xấp xỉ 16 tuổi để đảm bảo xử lý
đúng tội danh, đúng pháp luật)...
Sáu là, công tác xác minh, ủy thác
tư pháp, hợp tác quốc tế. Trong một số
trường hợp cụ thể, Cơ quan điều tra thực
hiện công tác xác minh theo lời khai của
nạn nhân, người làm chứng, người thực
hiện hành vi phạm tội, biên bản xác minh,
kết quả của công tác ủy thác tư pháp hay
kết quả của công tác hợp tác quốc tế được
coi là chứng cứ.
Bảy là, công tác đối chất. Mục đích
của đối chất trong hoạt động điều tra vụ
án liên quan đến mua bán người nhằm
giải quyết những mâu thuẫn trong lời
khai của những người tham gia đối chất
về những tình tiết hoặc nội dung cơ bản
của vụ án liên quan đến mua bán người
đã xảy ra.
Tám là, công tác nhận dạng. Trong
quá trình điều tra vụ án liên quan đến
mua bán người, khi cần thiết Cơ quan
điều tra có thể đưa người, ảnh hoặc vật
cho người bị hại, người làm chứng, hoặc
bị can nhận dạng trong từng trường hợp,
tình huống cụ thể để xác định, làm rõ đối
tượng thực hiện hành vi phạm tội mua
bán người, nạn nhân trong vụ án mua
bán người, đồ vật, tài liệu... liên quan
trong vụ án mua bán người.
Số người, ảnh hoặc vật đưa ra để nhận
dạng ít nhất phải là 03 và có đặc điểm
tương tự nhau, ngoại trừ nhận dạng tử
thi. Quá trình nhận dạng có người chứng
kiến và Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận
dạng. Điều tra viên phải hỏi trước người
nhận dạng về những tình tiết và các đặc
điểm mà nhờ đó họ có thể nhận dạng
được, không được đặt câu hỏi gợi ý. Sau
khi người nhận dạng đã xác nhận một
người, một vật hay một ảnh trong số
được đưa ra để nhận dạng thì yêu cầu họ
giải thích rõ căn cứ đã nhận dạng được,
việc nhận dạng phải được lập biên bản.
Kết quả nhận dạng được coi là chứng cứ.
Chín là, công tác nhận biết giọng nói.
Khi cần thiết, trong từng tình huống,
trường hợp cụ thể, Cơ quan điều tra có
thể cho bị hại, người làm chứng nhận biết
giọng nói của đối tượng thực hiện việc
mua bán người.
Bên cạnh đó, để làm rõ những vấn
đề cần phải chứng minh trong một vụ
án hình sự nói chung và vụ án mua bán
người nói riêng, không chỉ đơn thuần là
thu thập đầy đủ chứng cứ, tài liệu theo
công thức số học, liệt kê mà đỏi hỏi cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng phải kiểm tra, đánh giá để xác
định tính hợp pháp, xác thực và liên
quan của chứng cứ đến vụ án mua bán
người. Như vậy, hoạt động kiểm tra,
đánh giá chứng cứ chính là hoạt động
của tư duy biện chứng đối với các sự
việc khách quan. BLTTHS năm 2015 quy
định việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ tại
Điều 108.
Việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ xoay
quanh nội hàm của khái niệm chứng cứ
đó là: tính khách quan, tính liên quan và
tính hợp pháp. Trong đó, tính khách quan
là những gì có thật và phản ánh trung
thực những tình tiết của vụ án mua bán
người đã xảy ra; tính liên quan là có mối
quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với vụ án
mua bán người; tính hợp pháp là tất cả
những gì có thật phải được cung cấp, thu
thập, bảo quản theo một trình tự, thủ tục
do luật định. Trong các giai đoạn tố tụng,
hoạt động sử dụng chứng cứ gắn liền với
hoạt động đánh giá chứng cứ. Đánh giá
31Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
NguyễN Huy BìNH
chứng cứ là tiền đề, là điều kiện cho sử
dụng chứng cứ, và sử dụng chứng cứ là
sự kiểm nghiệm, xác định lại kết quả của
hoạt động đánh giá chứng cứ. Đánh giá
chứng cứ không đúng, tất yếu dẫn đến
kết quả sai lầm, không đúng đắn của việc
sử dụng. Ngược lại, việc sử dụng chứng
cứ sai mục đích, không phù hợp giữa nội
dung, giá trị chứng minh của chứng cứ
với đối tượng cần phải chứng minh là
làm hạn chế kết quả của hoạt động đánh
giá chứng cứ.
Tuy nhiên trên thực tế, chúng tôi thấy
có một số khó khăn, vướng mắc trong
thu thập, đánh giá chứng cứ vụ án mua
bán người như sau:
Thực tiễn giải quyết các vụ án mua
bán người cho thấy, tội phạm mua bán
người là loại tội phạm ẩn, thường mang
tính truy xét, rất ít trường hợp bị bắt quả
tang. Do vậy, đối với các vụ án không
thuộc trường hợp phạm tội quả tang
thì chỉ khi người bị hại trốn được về địa
phương và có đơn tố cáo thì đối tượng
phạm tội mới bị phát hiện nên quá trình
điều tra, truy tố, việc thu thập chứng
cứ chủ yếu dựa vào lời khai người bị
hại cũng như lời khai nhận tội của đối
tượng phạm tội. Nếu người bị hại tố cáo
và khai rằng bản thân mình hoặc mình
cùng nhiều người khác bị lừa bán nhưng
đối tượng phạm tội không thừa nhận thì
rất khó chứng minh tội phạm. Chính vì
vậy, điều này dễ dẫn đến việc xử lý oan
cho người phạm tội hoặc bỏ lọt hành vi
phạm tội.
Trong trường hợp xác định được
người phạm tội, xác định được chứng cứ
chứng minh người phạm tội thực hiện
hành vi mua bán người nhưng không
xác định được người bị hại (do người bị
hại vẫn đang ở nước ngoài hoặc ở trong
nước nhưng không lấy được lời khai),
nhiều địa phương chưa thống nhất trong
cách giải quyết: có địa phương khởi tố,
điều tra, truy tố và xét xử, nhưng cũng
có những địa phương không phê chuẩn
hoặc trả hồ sơ để yêu cầu xác định và
đưa người bị hại vào tham gia tố tụng;
việc này là không thể thực hiện được nên
các vụ án thường bị tạm đình chỉ hoặc
kéo dài.
Đối với các vụ án mua bán người
không quả tang, rất khó xác định tình
tiết định khung tăng nặng hình phạt tại
khoản 3 Điều 150 BLHS năm 2015 “Đã
lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” vì trong
trường hợp này, chúng ta chỉ xác định
được trong trường hợp nạn nhân trở về
và tố cáo với cơ quan Công an thì mới xác
định được. Trong trường hợp có đủ chứng
cứ đề chứng minh đối tượng phạm tội có
hành vi mua bán nhiều người nhưng có
những người chưa trở về, chưa xác định
được địa chỉ họ đang ở đâu, nếu họ đã bị
lấy đi bộ phận cơ thể nào đó thì xử lý thế
nào? Tương tự như vậy, tình tiết làm nạn
nhân tự sát cũng rất khó xác định trong
trường hợp không xác định được người
bị hại đang ở đâu. Nếu họ tự sát do bị
làm nhục thì cũng không có căn cứ để xử
lý đối với người phạm tội.
Việc xác định thiệt hại, giá trị vụ lợi
là rất khó khăn trong thực tiễn, bởi việc
mua bán được thỏa thuận thực hiện giữa
người mua và người bán mà người bị hại
có thể biết hoặc không thể biết được giá
trị mua bán của bản thân mình, dẫn đến
việc không thể xác định được giá trị của
vụ lợi. Đặc biệt, trong trường hợp người
mua ở nước ngoài thì Cơ quan điều tra
chỉ có thể căn cứ vào lời khai của người
phạm tội để xác định, việc chỉ dựa vào lời
khai của người phạm tội có giá trị chứng
minh thấp và không khách quan./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_kho_khan_vuong_mac_khi_thu_thap_danh_gia_chung_cu_tron.pdf