Đặc điểm của kinh tế thị trường là hết sức năng động, các nhân tố kinh tế thường xuyên có sự biến động. Mặt khác, nền kinh tế nước ta nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng đang đi những bước đầu tiên vào nền kinh tế thị trường, một lĩnh vực rất mới mẻ , rất nhiều khó khăn và thách thức.Muốn đạt được yêu cầu về hiệu quả kinh doanh ngân hàng và đặc biệt là kinh doanh tín dụng, đòi hỏi các cán bộ làm công tác tín dụng và thẩm định dự án phải không nghừng học hỏi chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng được yêu cầu của công việc. Việc học tập nghiệp vụ này không thể hoàn thành một sớm một chiều mà đây là nhiệm vụ mang tính lâu dài và thường xuyên để liên tục cập nhật những kiến thức mới, phục vụ công tác.
Xuất phát từ quan điểm này, chúng tôi xin khuyến nghị với NHCT Đông đa cần tiếp tục quan tâm nhiều hơn nữa tới công tác đào tạo cán bộ tín dụng nhất là về trình độ thẩm định, đánh giá các dự án kinh doanh của khách hàng vay vốn, kiến thức pháp luật, kiến thức chung về kinh tế xã hội. Công tác đào tạo cần được tiến hành thường xuyên để cập nhật những kiến thức mới. Đào tạo kiến thức cần đi đôi với giáo dục đạo đức kinh doanh và lề lối, phương pháp làm việc. Về hình thức đào tạo, có thể tổ chức những lớp học theo chuyên đề ngắn ngày, các lớp đào tạo chuyên sâu dài ngày hoặc liên kết với các chi nhánh NHCT trong hệ thống tổ chức các cuộc hội thảo, trao đổi kinh nghiệm hoặc cũng có thể phối hợp với các NHTM khác, với NHNN Việt nam tổ chức các hội nghị về tín dụng trung dài hạn, về công tác thẩm định và phân tích rủi ro.v.v.
Trên đây là một số khuyến nghị cụ thể được rút ra qua quá trình nghiên cứu thực tiễn công tác tín dụng và thẩm định dự án tại Ngân hàng Công thương Đống đa. Chúng tôi rất hy vọng những ý tưởng nói trên được các cơ quan hữu quan và các cấp có thẩm quyền có sự quan tâm thích đáng. Chúng tôi cũng rất mong muốn những khuyến nghị mang tính cụ thể đó sớm được nghiên cứu áp dụng trong thực tiễn công tác của ngân hàng nhằm góp một phần nhỏ vào quá trình hoàn thiện công tác thẩm định và phân tích rủi ro dự án trong hoạt động tín dụng trung - dài hạn của các NHTM Việt nam, hướng tới mục tiêu hiệu quả đầu tư, ổn định và phát triển nền kinh tế, thực hiện tốt tiến trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở nước ta.
84 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1460 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những khuyến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng thẩm định và phân tích rủi ro tại ngân hàng công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình trên.
3. Những khó khăn trong công tác thẩm định và phân tích rủi ro DAĐT tại NHCT Đống đa.
3.1- Những khó khăn trong việc thu thập thông tin:
Các thông tin từ doanh nghiệp gửi đến NH không đầy đủ và thiếu chính xác.
- Doanh nghiệp không thuyết minh được năng lực sản xuất, năng lực tài chính; không thuyết minh được tính khả thi của dự án, nhất là thị trường và tài chính, không thuyết minh được khả năng tiếp thu công nghệ của đội ngũ công nhân và chuyên gia kỹ thuật. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có ý đồ đầu tư tốt nhưng không có khả năng lập các dự án đầu tư khả thi.
- Những tài liệu số liệu mà doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng thường chỉ mang tính tương đối, có độ tin cậy thấp, gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình thẩm định dự án.
- Vốn tự có, tự huy động của các dự án thấp chỉ khoảng 7-15% trong tổng vốn đầu tư, chủ yếu là bất động sản có sẵn như nhà xưởng, thiết bị mua sắm chủ yếu vẫn được đáp ứng bằng vốn tín dụng ngân hàng. Khá nhiều doanh nghiệp khi thẩm định tín dụng thì có chủ sở hữu tham gia tổng vốn đầu tư, kể cả phần vốn tối thiểu đáp ứng nhu cầu tài sản lưu động cho dự án hoạt động, nhưng khi công trình đi vào hoạt động thì phần vốn này đưa vào đầu tư trung dài hạn cho các công trình khác hoặc sử dụng cho các mục tiêu khác nên dự án cấp tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng Công thương Đống Đa hoạt động thiếu hiệu quả. Ví dụ trong tổng số 52 tỷ đồng đầu tư trung dài hạn cho kinh tế ngoài quốc doanh thì vốn tự có của doanh nghiệp chỉ đạt khoảng 3,7 tỷ, tức là hơn 7%.
- Trong điều kiện hiện nay khách hàng được quyền lựa chọn Ngân hàng để giao dịch, một doanh nghiệp được mở tài khoản giao dịch tiền gửi, tiền vay tại nhiều Ngân hàng Thương mại khác nhau. Lợi dụng điều này, trên thực tế không ít doanh nghiệp đã mở tài khoản tiền gửi, tiền vay tại nhiều Ngân hàng hoặc vay ngân hàng này không được thì chạy sang vay ngân hàng khác. Hậu quả là Ngân hàng công thương Đống Đa cũng như các Ngân hàng Thương mại khác khó lòng mà kiểm soát được doanh nghiệp trong quá trình sử dụng vốn tín dụng, khó khăn trong việc thu hồi nợ khi đến hạn, vì doanh nghiệp có nợ Ngân hàng chuyển doanh thu sang tài khoản khác. Trong trường hợp doanh nghiệp vỡ nợ thì có ít nhất hai Ngân hàng thương mại trở lên tranh chấp nhau về tài sản xiết nợ.
- Đối với hộ sản xuất, có thể có những hoạt động tài chính ngầm nên không có cơ sở để phát hiện cũng như xác minh tính chính xác của thông tin.
- Nhìn chung, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp quốc doanh cũng như ngoài quốc doanh vẫn còn thấp. Trình độ quản lý, năng lực sản xuất kinh doanh còn chưa đạt yêu cầu. Phần lớn các doanh nghiệp phải tiến hành sản xuất kinh doanh trong tình trạng máy móc thiết bị công nghệ lạc hậu nên sản phẩm tạo ra thiếu sức cạnh tranh. Hơn nữa nhiều nhân tố khách quan cũng tạo nên sức ép lớn đối với các doanh nghiệp như hiện tượng bán phá giá hàng hoá, sản phẩm của các nước trong khu vực đã tác đông tiêu cực đến thị trường của các doanh nghiệp Viêt Nam. Hàng hoá ngoại nhập tràn vào thị trường Việt Nam đã cạnh tranh gay gắt và chiếm lĩnh thị trường trong nước. Những tác động tiêu cực này buộc doanh nghiệp Nhà nước phải giảm tốc độ sản xuất, nhiều doanh nghiệp đang đứng trước nguy cơ đổ vỡ. Doanh nghiệp quốc doanh được coi là khu vực ưu tiên đầu tư của các Ngân hàng thương mại quốc doanh nói chung cũng như Ngân hàng Công thương Đống Đa nói riêng nhưng theo kết quả đánh giá của Bộ tài chính, trong năm 1998 số doanh nghiệp làm ăn có lãi chỉ chiếm 43,6% và 16,6% số doanh nghiệp lỗ mất tới 75% vốn Nhà nước. Trong bối cảnh khó khăn chung như thế, Ngân hàng Công thương Đống Đa cũng như các Ngân hàng thương mại khác nói chung sẽ không thể tránh khỏi sự ngần ngại trước việc mở rộng tín dụng mà nhất là tín dụng trung dài hạn bởi nguy cơ rủi ro tiềm ẩn là rất lớn.
Thiếu các thông tin vĩ mô làm cơ sở để thẩm định:
- Thông tin tổng hợp từ Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng công thương Trung ương về xu hướng phát triển nền kinh tế của các ngành còn thiếu nên chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa thiếu căn cứ và thông tin vĩ mô trong thẩm định.
- Không có cơ quan chuyên ngành đánh giá doanh nghiệp, hoạt động của kiểm toán độc lập còn hạn chế. Việc tổng hợp thông tin đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp chưa có cơ quan nào làm.
- Nhiều dự án khi đến tay Ngân hàng đã được các cơ quan có thẩm quyền xét duyệt mặc dù theo đánh giá của Ngân hàng, dự án thiếu tính khả thi. Tuy nhiên Ngân hàng vẫn phải đầu tư nếu không sẽ tạo thế đối lập với chính quyền địa phương, thành phố ở một mức độ nào đó.
- Hệ thống định chế pháp luật trong việc điều tiết quan hệ tín dụng, thế chấp, cầm cố tài sản tạo nên sự phức tạp trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng đến tranh chấp, tố tụng, xử lý tín dụng. Đặc biệt môi trường pháp lý về quyền sở hữu tài sản và thế chấp tài sản còn nhiều vướng mắc
3.2- Về nội dung và các chỉ tiêu dùng để thẩm định DA:
- Chưa có hệ thống tiêu chuẩn tín dụng và đánh giá doanh nghiệp, khách hàng. Việc đánh giá hiện tại chủ yếu là đánh giá tài chính, bỏ qua đánh giá nhiều yếu tố về năng lực của khách hàng.
- Khi thẩm định, Ngân hàng chưa thực sự quan tâm việc dự kiến vòng đời của dự án trên cơ sở nghiên cứu khả năng thu hồi vốn, sự tiến bộ của năng lực kỹ thuật và công nghệ, quy hoạch phát triển kinh tế liên quan... dẫn đến xác định thời gian cho vay thiếu căn cứ. Còn có hiện tượng lý tưởng hóa hiệu quả của dự án và nguồn trả nợ.
- Về các nội dung thẩm định, hiện nay NHCT Đống đa nói riêng cũng như các NHTM Việt nam nói chung chủ yếu mới chỉ quan tâm đến thẩm định nội dung tài chính của DAĐT còn các nội dung quan trọng khác như thị trường, kỹ thuật- công nghệ...thì vẫn chưa được xem xét một cách sâu sắc và đầy đủ. Nguyên nhân chủ yếu là do cán bộ thẩm định còn thiếu các thông tin cần thiết, thiếu sự hiểu biết chuyên sâu về các lĩnh vực như thị trường và kỹ thuật.
- Ngay trong nội dung thẩm định tài chính, hiện nay NHCT Đống đa cũng mới chỉ quan tâm đến việc thẩm định các chỉ tiêu như tổng vốn đầu tư, khả năng sinh lời của DA hàng năm, khả năng trả nợ vay cho ngân hàng...Còn các chỉ tiêu tài chính quan trọng khác như thời gian thu hồi vốn đầu tư, NPV, IRR của DA vẫn chưa được quan tâm xem xét và tính toán một cách đầy đủ.
- Về vấn đề phân tích rủi ro của DA, thực sự hiện nay ở NHCT Đống đa cũng như ở các NHTM khác hầu như chưa được đề cập tới trong công tác thẩm định DA. Mặc dù trong kinh tế thị trường, khả năng biến động của các nhân tố đầu vào đầu ra của sản xuất và tiêu thụ là rất lớn, các rủi ro là hết sức đa dạng...Nhưng do thiếu các thông tin dự báo cần thiết, thiếu các công cụ phân tích và cán bộ thẩm định của các ngân hàng chưa đánh giá được hết tầm quan trọng của việc phân tích rủi ro DA nên hiện nay việc đảm bảo tín dụng chủ yếu là quan tâm đến tài sản thế chấp, đến thế lực và năng lực tài chính của bên bảo lãnh...Như vậy, việc thẩm định DA chưa đảm bảo việc lượng hoá và dự báo các rủi ro và do đó, không thể nhìn nhận và đánh giá được các nhân tố biến động sẽ tác động đến dự án như thế nào.
3.3- Về vấn đề đào tạo và bố trí cán bộ làm công tác thẩm định:
- Đại bộ phận cán bộ được trưởng thành trong thời kỳ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, một số cán bộ mới bổ sung thì lại thiếu hiểu biết thực tiễn, kiến thức cơ bản về một nền kinh tế thị trường chưa được trang bị đầy đủ, chưa đáp ứng được những đòi hỏi của cơ chế thị trường, thiếu phương pháp điều tra thu thập và xử lý thông tin, thiếu kiến thức về ngành kinh tế mà mình đang cho vay. Thêm vào đó là những kiến thức về pháp lý tự đọc, tự tìm hiểu thiếu tính hệ thống nên nhiều khi đã nhận thức chưa đúng những vấn đề cơ bản của luật kinh tế, luật hợp đồng, luật sở hữu tài sản vì vậy cán bộ thường thiếu khả năng, trình độ, kinh nghiệm để đánh giá đúng tính hiệu quả, mức độ rủi ro của dự án.
- Bên cạnh nguyên nhân chủ quan do kiến thức của bản thân cán bộ tín dụng còn nhiều bất cập thì cách thức tổ chức, bố trí và đào tạo cán bộ của Ngân hàng cũng là một nhân tố quan trọng, khiến cho năng lực, sở trường của cán bộ không được phát huy hết.
Thứ nhất, công tác đào tạo, tuyển chọn cán bộ không tập trung theo một lĩnh vực, chuyên môn nhất định. Tuy công tác đào tạo cán bộ được ngân hàng rất quan tâm nhưng trên thực tế việc đào tạo còn mang tính chất của những khoá học cấp tốc, ngắn hạn nên kiến thức đem lại không sâu. ở ngân hàng chưa có những cán bộ chuyên môn giỏi hẳn về một lĩnh vực như thẩm định dự án đầu tư, cán bộ có kiến thức chuyên sâu về pháp lý, về kế toán, kiểm toán... để đánh giá độ chính xác của các số liệu trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp, thiếu những cán bộ có khả năng nhạy bén trong việc thu thập thông tin thị trường, dự đoán xu hướng phát triển của các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh mà doanh nghiệp đang đầu tư... Hầu hết các cán bộ đều có kiến thức dàn trải nên xử lý công việc không thể đạt hiệu quả cao nhất.
Thứ hai, cách tổ chức, bố trí cán bộ như hiện nay của Ngân hàng Công thương Đống Đa còn những điểm bất hợp lý. Phòng kinh doanh của Ngân hàng được chia thành ba bộ phận chuyên môn: Phòng tín dụng công nghiệp, phòng tín dụng thương nghiệp, và tín dụng ngoài quốc doanh. Về cơ bản ta đã thấy sự chuyên môn hoá theo lĩnh vực và theo thành phần kinh tế, tuy nhiên với cách tổ chức như vậy, phòng tín dụng ngoài quốc doanh sẽ phải chuyên trách tất cả các lĩnh vực, hơn nữa bản thân các cán bộ tín dụng trong phòng lại không được chuyên môn hoá theo lĩnh vực kinh tế nên một cán bộ có thể khi thì cho vay công nghiệp, lúc thì cho vay thương nghiệp hay xây dựng cơ bản... Còn đối với lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh thì ranh giới phân biệt giữa hai phòng tín dụng công nghiệp và tín dụng thương mại cũng đã bị xoá nhoà. Phòng tín dụng thương nghiệp nhiều khi vẫn cho vay xây dựng cơ bản, cho vay sản xuất, điều này dễ dẫn đến tình trạng một cán bộ tín dụng phải cho vay những dự án nằm trong lĩnh vực mà mình am hiểu rất ít hoặc hầu như không hề biết. Hậu quả là cán bộ tín dụng rất thụ động vào những số liệu, những căn cứ về tính khả thi của các dự án mà doanh nghiệp đưa ra. Điều này cũng dễ hiểu vì một cán bộ tín dụng hiểu biết không đầy đủ về lĩnh vực xây dựng cơ bản thì khó lòng mà thẩm định chính xác được một dự án đầu tư nâng cấp đường bộ. Hay cán bộ tín dụng sẽ không thể khẳng định một nhà máy ximăng sẽ hoạt động hiệu quả nếu không hiểu gì về quy trình công nghệ, thành phần và yêu cầu chất lượng ximăng.
Thứ ba, mặc dù Ngân hàng đã có những khen thưởng về vật chất để khuyến khích cán bộ tín dụng tìm kiếm những khách hàng mục tiêu và món vay mới có hiệu quả nhưng theo đánh giá của một số cán bộ trong ngân hàng thì sự kích thích còn rất nhỏ, chưa đủ tạo ra động lực cho cán bộ tích cực tìm kiếm khách hàng để mở rộng tín dụng trung dài hạn.
II. ứng dụng quy trình thẩm định DAĐT vào thẩm định dự án xin vay mua tàu thuỷ của Công ty Vận tải thuỷ Bắc
1. Dự án xin vay mua tàu của Công ty Vận tải thuỷ Bắc.
1.1 Giới thiệu về Công ty vân tải thuỷ Bắc.
1.1.1 Năng lực pháp lý của Công ty.
Công ty vân tải thuỷ Bắc là Doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng công ty hàng hải Việt nam ( Tổng công ty 91 ). Công ty được thành lập theo Quyết định số 1108/QDTCCB-LD ngày 3/6/1993 của Bộ Giao thông vận tải. Giấy phép kinh doanh số 108568 ngày 14/6/1993 do Trọng tài kinh tế Hà nội cấp và Giấy phép kinh doanh XNK số 1031/ GP do Bộ Thương mại cấp ngày 23/6/1995.
Công ty có chức năng, nhiệm vụ chính như sau:
- Vận tải hàng hoá, hành khách bằng đường biển, đường sông.
- Xuất nhập khẩu trực tiếp, cung ứng vật tư thiết bị chuyên ngành đường thuỷ.
- Đại lý vận tải và các dịch vụ tổng hợp khác, sản xuất vật liệu xây dựng.
- Xuất khẩu lao động ra nước ngoài.
Ban giám đốc và Kế toán trưởng Công ty đều có quyết định bổ nhiệm hợp pháp của cấp có thẩm quyền.
1.1.2 Lịch sử phát triển và tình hình kinh doanh.
Năm 1993 khi mới thành lập, Công ty chỉ có 2 chiếc tàu biển chở hàng khô với trọng tải 400 T, qua 6 năm hoạt động, Công ty đã trang bị thêm:
- 4 đoàn tàu sông với trọng tải 800T/đoàn * 4 = 3.200T
- 1 tàu biển chở hàng khô loại hiện đại 5100 T
- 1 tàu biển 400 T
- 1tàu biển 200 T
- 1 taù chở khách cao tốc trang bị hiện đại.
Tổng số lao động hiện tại là 259 người ( 16/3/1999 ). 100% số cán bộ công nhân viên đều là kỹ sư các ngành nghề, phần lớn là ngành đường thuỷ.
Tổng Giám đốc Công ty có học vị PTS chuyên ngành tàu thuỷ.
Phó Tổng Giám đốc là kỹ sư kinh tế.
Các giai đoạn phát triển và sự thay đổi mặt hàng kinh doanh:
- Năm 1993 Công ty chỉ có chức năng vận tải hàng hoá bằng đường sông, đường biển và kinh doanh tổng hợp.
- Năm1995: Bổ sung thêm chức năng XNK trực tiếp ngành đường thuỷ.
- Năm 1996: Bổ sung thêm chức năng vân tải hành khách bằng đường sông, đường biển.
- Năm 1997: Bổ sung thêm chức năng sản xuất vật liệu xây dựng.
- Năm 1998: Bổ sung thêm chức năng đại lý vận tải và xuất khẩu lao động.
1.2 Dự án vay vốn NHCT Đống đa để đầu tư mua tàu vận tải biển.
1.2.1 Cơ sở pháp lý của dự án:
- Luận chứng kinh tế kỹ thuật số 206KĐT ngày 10/5/1999.
- Quyết định phê duyệt Luận chứng số 288 CĐQT ngày 11/5/1999 của Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Hàng hải Việt nam.
- Hợp đồng mua tàu.
- Công văn cam kết mua bảo hiểm.
- Công văn bảo lãnh cho món vay mua tàu biển của Tổng Công ty Hàng hải Việt nam.
- Giấy phép nhập khẩu tàu của Bộ GTVT.
1.2.2 Nội dung căn bản của dự án xin vay vốn:
Hiện nay, việc vân chuyển hàng hoá bằng đường biển ngày càng có nhu cầu gia tăng từ Việt nam đi các nước và ngược lại. Quan hệ XNK ngày càng được mở rộng đặc biệt là với các nước trong khối ASEAN. Chính vì vậy Công ty vận tải thuỷ Bắc xin vay vốn tại NHCT Đống đa để mua 01 tàu biển chở hàng khô nhằm đáp ứng nhu cầu gia tăng về khối lượng vận tải biển của Công ty.
2. Quy trình thẩm định và kết quả thẩm định của NHCT Đống đa về DA xin vay mua tàu.
Nhận được hồ sơ xin vay vốn của Công ty vân tải thuỷ Bắc gửi đến ngân hàng, NHCT Đống đa đã nhanh chóng tiếp nhận, xem xét và xử lý trên tinh thần tạo điều kiện thời gian để khách hàng không bị lỡ cơ hội đầu tư.
Việc tổ chức thẩm định dự án xin vay đã được phân công trách nhiệm cụ thể và triển khai mau chóng.
2.1 Thẩm định cơ sở pháp lý và sự cần thiết phải đầu tư dự án:
- Về cơ sở pháp lý của dự án:
Xuất phát từ cơ sở hồ sơ mà chủ đầu tư gửi đến NH, cán bộ thẩm định đã tiến hành xem xét các yếu tố pháp lý của dự án. Nhìn chung, chủ đầu tư và dự án đã hội tụ đủ những yếu tố pháp lý cần thiết, đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của tín dụng ngân hàng.
- Về sự cần thiết phải đầu tư dự án:
Bằng các số liệu và phân tích cụ thể, chủ đầu tư đã chứng minh và làm rõ được sự cần thiết phải đầu tư thêm tàu chở hàng để đáp ứng nhu cầu thực sự của nền kinh tế.
Trên cơ sở nội dung pháp lý và sự cần thiết phải đầu tư dự án được làm rõ, cán bộ thẩm định đã chuyển sang xem xét vấn đề thị trưồng qua các số liệu cụ thể do chủ đầu tư thuyết trình trong dự án.
2.2 Thẩm định nội dung thị trường của dự án:
Hiện nay do việc giao lưu hàng hoá giữa các nước trên thế giới ngày càng phát triển, hơn nữa Việt nam đang thực hiện chính sách mở cửa để hội nhập kinh tế nên nhu cầu vận tải biển là rất lớn.
2.2.1 Đối tượng và phương thức tiêu thụ sản phẩm:
Công ty đang có nhiều quan hệ với các bạn hàng trong khu vực và trên thế giới, đội tàu biển của Công ty hiện chủ yếu khai thác theo các tuyến như:
Nội địa: Vận tải than, xi măng từ Hải phòng, Hòn gai đi Miền Trung, TP Hồ Chí Minh và hàng nông sản thực phẩm theo chiều ngược lại
Nước ngoài: Chủ yếu vận chuyển gạo XK từ VN đi Nam Triều tiên, Singapo, Indonexia ....Phân bón và các sản phẩm nhập khẩu khác từ các nước về VN.
Công ty dự kiến khai thác con tàu mới theo phương thức cho thuê theo hợp đồng chuyến hoặc cho thuê có kỳ hạn. Đây là phương thức rất phổ biến trong ngành hàng hải trên thế giới.
2.2.2 Tình hình cạnh tranh trên thị trường hiện tại.
Căn cứ vào thị trường vận tải biển nói chung và cân đối với năng lực vận tải sẵn có của Công ty thì việc đầu tư thêm một con tàu có tải trọng 6500DWT là rất cần thiết. Với cỡ tàu này sẽ rất thuận lợi cho việc khai thác, cụ thể là:
- Tuổi tàu : Mới sử dụng có 13 năm, còn mới để khai thác theo lối cho thuê định hạn hoặc khai thác theo chuyến. Thực tế hiện nay người thuê rất kén tuổi tàu, những tàu trên 20 tuổi sẽ ít được thuê hoặc phải đóng thêm phí tàu già nên hiệu quả kinh tế thấp. Đặc biệt tàu trên 20 tuổi sẽ rất khó cho thuê định hạn.
- Hiện nay thi trường vận tải biển rất sôi động, mức tăng trưởng khá nhanh. Tại Việt nam, đội tàu của nước ta mới chiếm 20% thị phần vận tải biển, tuổi tàu của Việt nam khá già ( bình quân trên 19 tuổi ).
- Thông số kỹ thuật của tàu phù hợp với việc khai thác, tải trọng khá phù hợp với các lô hàng vận chuyển hiện nay. Rất phù hợp với vận tải gạo, thép phân bón. Tàu có 03 cần cẩu Direct - 25T sức nâng lớn, hầm hàng miệng rộng. Mớn nước là 6,245 m đủ khả năng vào các cảng ở Việt nam. Máy tàu là loại AKASKA và YANMAR của Nhật sản xuất rất tốt và phổ thông dễ thay thế phụ tùng khi có yêu cầu. Tàu đã được lắp hệ thông s định vị vệ tinh và cấp cứu hàng hải toàn cầu GMDSS rất hiện đại. Chất lượng kỹ thuật hiện tại của tàu là đảm bảo ổn định tương ứng với tuổi tàu, theo biên bản giám định quốc tế của Hãng GERMANNISCHER LLOYD thì máy, thân và tất cả các thiết bị khác trên tàu đều không có khiếm khuyết nào.
- Điều rất có ý nghĩa là giá mua tàu hiện nay đang xuống rất thấp nên khả năng thanh toán để hoàn vốn cao ( Do tiết kiệm được vốn đầu tư ). Giá mua tàu là 1.550.000USD cộng chi phí đi nhận tàu, chay thử thuế...vào cỡ 150.000 USD nữa, theo tính toán của Công ty có khả năng hoàn trả gốc và lãi vay NHCT trong 8 năm ( Trong khi giá các tàu khác cùng cỡ có thể đến 1,8 - 2,2 Triệu USD ). Giá cước vận tải hiện nay không đổi và đáp ứng đựoc yêu cầu của khách hàng. Như vậy giá mua tàu COTINENTAL TAIGA là rất hợp lý, có tính cạnh tranh cao.
Tàu CONTINENTAL TAIGA do Tổng công ty Hàng hải Việt nam giới thiệu, kiểm tra và tư vấn trong suốt quá trình giao dịch, đàm phán ký hợp đồng... Tổng Công ty Hàng hải là cơ quan chủ quản trực tiếp của Công ty vận tải thuỷ bắc và đã trực tiếp hoặc tư vấn mua nhiều tàu có kết quả tốt cho nhiều đơn vị trong và ngoài ngành.
2.3 Thẩm định nội dung kỹ thuật của dự án:
2.3.1 Quy mô dự án:
Công ty đầu tư một tàu chở hàng khô. thuộc loại tàu second - hand.
Các thông số kỹ thuật như sau:
- Tên tàu CONTINENTAL TAIGA của TWIN LIGHT Co.LTD Nhật bản
- Nơi đóng: Tại Nhật năm 1986
- Kiểu tàu: Chở hàng khô
- trọng tải: 6082DWT ; GT 4096
- Size : 90.99-18.50 - 9.20
- Mớn nước: 6,145m
- Máy 2800CV , AKASKA, Japan và 360 KVA YANMAR Japan.
- Tốc độ trung bình 11 Mille/ h
- Hầm hàng: 2 miệng ăn hàng, 2 hầm hàng.
- Cần cẩu : 3 cẩu Direct- 25T mỗi cái.
2.3.2 Đăng kiểm:
Hạn đăng kiểm thân và máy tàu : 25/5/2001.
Các trang thiết bị trên tàu đều đầy đủ, chất lượng tốt theo đúng yêu cầu của Uỷ ban Hàng hải quốc tế quy định.
2.3.3.Nhiên liệu sử dụng:
Tàu sử dụng dầu chạy máy loại FO 180CST là loại nhiên liệu phổ thông rẻ tiền, dầu nhờn của Castrol, Shell hoặc Calltex.
2.3.4 Địa điểm và kế hoạch triển khai dự án:
Giao tàu tại một cảng do 2 bên mua bán thoả thuận tại Nhật, Hông kông, Singapo ( Đây là quy ước quốc tế ).
Sau khi nhận , trong thời gian 01 tháng sẽ làm mọi thủ tục và đưa về VN chạy thử trong 2 tháng trước khi khai thác chính thức.
2.4 Thẩm định về phương diện tổ chức và quản lý:
- Hình thức kinh doanh: Cho thuê chuyến hoặc định hạn.
- Mô hình tổ chức quản tri dự án: Công ty trực tiếp kinh doanh với sự tham gia của các phòng ban, có sự chỉ đạo của Tổng giám đốc.
- Cơ chế nhân sự: Toàn bộ equipe thuyền viên là người của công ty, lương theo chế độ Nhà nước quy định. Tổng số là 25 người.
2.5 Thẩm định phương diện tài chính:
2.5.1 Dự toán vốn và nguồn đầu tư:
Dự toán vốn:
- Giá mua tàu dự toán 1.500.000 USD ( Theo quyết định phê duyệt mua tàu của HĐQT TCty ).
- Giá mua tàu sau khi thẩm định lại 1.550.000 USD do giá tàu trên thế giới có phần nhích lên so với khi duyệt dự án.
- Chi phí đi nhận tàu, thuế trước bạ, chi phí chạy thử là 150.000 USD
- Như vậy tổng dự toán mua tàu là 1.700.000 USD
Cân đối nguồn đầu tư:
- Vốn tự có và tự huy động của chủ đầu tư: 265.000 USD = 16% tổng dự toán. Nguồn này dùng để mua nguyên nhiên vật liệu khi nhận tàu, đi nhận tàu chạy thử đóng thuế trước bạ.
- Dự kiến vay NHCT Đống đa 1.435.000 USD = 84% tổng dự toán để mua tàu.
2.5.2 Hiệu quả kinh tế của dự án mua tàu:
Doanh thu:
- Ngày tàu có doanh thu: 320 ngày
- Ngày sửa chữa off- hire : 45 ngày
- Giá cho thuê: 2400 USD/ ngày.
- Doanh thu 1 năm: 2400 USD * 320 = 7680.000 USD
Chi phí:
- Lương cơ bản theo NĐ 26 cho 25 người: 9.511,3USD
- BHXH, BHYT, CĐ 19%: 1814,7 USD
- Phụ cấp: 57.158,2 USD- Định lượng đi nước ngoài: 41875 USD
- Dầu nhờn : 30.000 USD
- Nước ngọt: 13.400 USD
- Sửa chữa thường xuyên: 76.500 USD
- Sửa chữa lớn: 107.000 USD
- Bảo hiểm thân tàu: 35.250 USD
- Bảo hiểm P&I: 25.560 USD
- Quản lý phí: 40.000 USD
- Khấu hao cơ bản /năm 212.500 USD
- Trả lãi vay NH bình quân /năm: 62.065 USD
- Vật liệu ,phụ tùng: 10.000 USD
- Chi khác bằng tiền: 30.000 USD
Cộng: 755.694,20 USD
Lãi trước thuế: 12.305,8 USD
Lãi sau thuế: 8.367,9 USD
Như vậy sau khi đầu tư thêm phương tiện lựi ích thu được như sau:
- Doanh thu tăng thêm 1 năm: 768.000 USD
- Giải quyết lao động cho 25 người
- Phân bổ thêm quản lý phí của Công ty: 40.000 USD
- Lãi trước thuế tăng: 12.305,8 USD
Phân tích điểm hoà vốn:
( 332.074-140.750+140.750+3.937 )
Điểm hoà vốn trả nợ = ---------------------------------------------- * 100 = 68%
768.000-270.529
Nhận xét chung về phương diện tài chính:
- Nguồn vốn tự có tham gia đảm bảo theo phần .
- Sau đầu tư tàu mới đem lại lợi nhuận ròng 8.368 USD
- Điểm hoà vốn trả nợ = 68% tuy vẫn còn hơi cao ( < 60 % coi là tốt ), nhưng Công ty đã có kế hoạch trả nợ NHCT qua các năm, đảm bảo giá thành không bị thay đổi, tình hình SXKD không ảnh hưởng.
2.6 Phương án cho vay thu nợ đối với dự án:
2.6.1 Phương án cho vay:
Căn cứ vào HĐ tín dụng giữa NHCT Đống đa và Công ty vận tải thuỷ Bắc, NH sẽ phát tiền vay theo hợp đồng mua bán tàu:
- Trong thời gian từ 3- 5 ngày sau khi ký hợp đồng mua bán tàu, NH sẽ chuyển 10% giá trị hợp đồng vào tài khoản “ Đồng chủ sở hữu “ mang tên cả người bán và người mua tại một NHTM có uy tín ở Nhật bản để đặt cọc.
- Trước thời gian giao tàu 3 ngày, NHCT Đống đa chuyển nốt 90% tiền cho vay vào tài khoản trên.
- Khi nhận được biên bản giao nhận tàu có đầy đủ chữ ký của người mua và người bán thì NHTM nhật bản mới thanh toán toàn bộ số tiền tại tài khoản “ Đồng chủ sở hữu “ cho người bán tàu.
2.6.2 Phương án thu nợ:
- Nguồn trả nợ hàng năm:
Chủ yếu là KHCB 1435.000USD/ 8 năm.= 179.375 USD/ 1năm
Căn cứ vào quy định hiện hành của Bộ Tài chính VN ( 1062 TC/QĐ/CSTC ngày 14/11/1996 )và căn cứ vào thực tế kinh doanh tàu biển của Công ty trong những năm qua, Công ty dự kiến thời gian khấu hao tàu là 8 năm.
Lợi nhuận dùng trả nợ hang năm là: 5000 USD/ năm
Tổng nguồn trả nợ là: 179.375 USD/ năm
- Thời gian trả nợ NHCT là :
1.435.000 USD
Ttn = ---------------------- = 8 năm = 96 tháng
179.375 USD
- Thời gian ân hạn là: 6 tháng ( kể từ khi phát món vay đầu tiên 10% giá trị hợp đồng để đặt cọc ) gồm:
Thòi gian chờ giao tàu: Khoảng 4 tháng
Thời gian tu chỉnh tàu sau khi mua: 1,5 tháng
Thòi gian chạy thử tàu: 0,5 tháng
- Thời gian cho vay = thời gian ân hạn + thời gian trả nợ = 102 tháng
Công ty tính toán kế hoach trả nợ NHCT như sau:
Trả gốc bình quân năm: 1.435.000 USD/ 8 = 179.375 USD/ năm
Lãi vay bình quân trong giá thanh/ năm = 54.889 USD
Tổng cộng = 324.264 USD/ năm
Kế hoạch phân bổ trả nợ như sau:
Đơn vị : USD
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Gốc
140750
149923
159692
170099
181183
192990
205567
234796
Lãi dự kiến
93514
84341
74572
64156
53081
41274
28697
15301
Tổng số
234264
234264
234264
234264
234264
234264
234264
234264
2.6 Thẩm định biện pháp đảm bảo tiền vay:
Dự án vay vốn đầu tư mua tàu biển chở hàng khô của Công ty vận tải thuỷ Bắc theo xem xét của NHCT Đống đa có sự đảm bảo tiền vay như sau:
- Công ty vận tải Thuỷ Bắc là DNNN , Ngân hàng CT Đống đa thực hiện cho vay tín chấp theo QĐ 417 ngày 31/5/1997 của NHNN Việt nam.
- Công ty có công văn bảo lãnh của Tổng Công ty Hàng hải VN về mua tàu trên.
- Công ty đảm bảo đủ các điều kiện vay vốn theo cơ chế hiện hành ( thuộc công ty 91 )
- Công ty có mua bảo hiểm tại Bảo việt.
- Quan hệ tín dụng với NHCT Đống đa sòng phẳng , chưa có nợ quá hạn.
Kết luận và ý kiến đề xuất:
Kết luận
Qua quá trình thẩm định hồ sơ xin vay vốn mua tàu biển của Công ty vận tải Thuỷ Bắc, nhận thấy:
- Hồ sơ pháp lý của dự án đã đầy đủ
- Khi có sự cố về tàu: Công ty đã có mua bảo hiểm.
- Công ty đã được Tổng công ty HH Việt nam đứng ra bảo lãnh trả nợ.
- Công ty đảm bảo được các điều kiện vay vốn.
- Đề xuất:
Đề nghị cho vay:
- Số tiền cho vay: 1.435.000 USD
- Lãi suất: 6,8 % năm
- Thời hạn cho vay: 102 tháng
- Thời gian ân hạn : 6 tháng
- Thời gian trả nợ : 96 tháng.
chương III:
những khuyến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng thẩm định và phân tích rủi ro tại NHCT
Đống đa
1. Những khuyến nghi đối với Nhà nước;
1- Về quy hoạch tổng thể nền kinh tế:
Nhà nước cần phải công bố quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế xã hội theo ngành, vùng lãnh thổ và theo từng thời kỳ. quy hoạch tổng thể này sẽ tạo điều kiện cho các NHTM có cơ sở lập kế hoạch tín dụng trung dài hạn sao cho phù hợp với yêu cầu của từng ngành kinh tế vừa đảm bảo được nhu cầu về vốn đầu tư của các doanh nghiệp, phục vụ được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đồng thời tránh được những rủi ro đầu tư sai hướng của NHTM.
2- Về vấn đề thực hiệ n chế độ kế toán thống kê:
Nhà nước cần chỉ đạo và có những biện pháp bắt buộc các doanh nghiệp thực hiên nghiêm túc chế độ kế toán thông kê và thông tin báo cáo theo đúng quy định. Bên cạnh đó, ban hành quy chế kiểm toán bắt buộc và công khai tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện giúp NHTM trong việc phân tích thực trạng hoạt động của doanh nghiệp, qua đó có cơ sở phòng ngừa rủi ro tín dụng.
3- Củng cố các cơ quan tư vấn và hoạt động tư vấn:
Nhà nước cần củng cố các cơ quan, công ty tư vấn hiện có để đáp úng được nhu cầu thuê thẩm định, thuê kiểm định thông tin về dự án. Cần có những văn bản pháp lý quy định rõ trách nhiệm, phạm vi hoạt động của các công ty này như “Luật tư vấn “, “ Hướng dẫn thi hành Luật tư vấn “...Bởi trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu được tư vấn là rất lớn, các nhà doanh nghiệp cần được tư vấn để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đúng pháp luật Nhà nước, để giải quyết các khó khăn vướng mắc về kỹ thuật về hành chính...Đối với các NHTM, công tác tư vấn cũng đặc biệt cần thiết nhất là đối với những lĩnh vực mà ngân hàngcòn ít được tiếp cận như tư vấn về thị trường, về kỹ thuật về pháp lý trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Thực hiện tốt điều này không những giúp cho NHTM hoạt động tín dụng có hiệu quả hơn mà còn hạn chế được tình trạng đổ vỡ tín dụng, phân định được một cách rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn của cán bộ tín dụng, của cấp lãnh đạo... tránh được tình trạng “ hình sự hoá “ các sai sót trong hoạt động tín dụng ngân hàng, gây tâm lý hoang mang trong các cán bộ tín dụng, làm ảnh hưởng không nhỏ đến doanh số cho vay của các NHTM Việt nam như trong thời gian vừa qua.
4- Bố trí sắp xếp và tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước:
Đối với những doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, kinh doanh thua lỗ kéo dài, nên tìm giải pháp cho tiến hành cổ phần hoá hoặc ngừng hoạt động. Chỉ nên duy trì và phát triển những doanh nghiệp làm ăn thực sự có lãi, những danh nghiệp có vai trò thực sự quan trọng đối với nền kinh tế. Từ đó, tạo điều kiện cho kinh doanh tín dụng của NHTM nâng được hiệu quả và hạn chế bớt những rủi ro.
II. Những khuyến nghị đối với NHNN Việt nam:
1- Vấn đề nắm bắt thông tin kinh tế xã hội và định hướng cho các NHTM
Ngân hàng Nhà nước trên địa bàn Tỉnh, Thành phố cần nắm vững phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương mình. Qua đó tư vấn cho các NHTM trên địa bàn đầu tư vốn cho các dự án của các doanh nghiệp sao cho đúng hướng, phát huy được hiệu quả của vốn đầu tư và thu hồi vốn đúng hạn.
2- Thu thập và xử lý các thông tin tín dụng, thông tin về doanh nghiệp
Ngân hàng Nhà nước cần mở rộng phạm vi và nội dung của thông tin tín dụng trên địa bàn mình quản lý nhằm cung cấp thông tin theo yêu cầu của các NHTM về các doanh nghiệp, giúp cho các NHTM có những thông tin cần thiết để thẩm định và phân tích rủi ro trước khi đầu tư vốn cho doanh nghiệp. Cần tạo lập cơ chế để các NHTM cung cấp đầy đủ chính xác , kịp thời các thông tin số liệu cho Trung tâm thông tin tín dụng CIC của NHNN Việt nam. Từng bước thu thập và xử lý các thông tin về doanh nghiệp, tiến hành sắp xếp, cho điểm và phân loại đối với các doanh nghiệp để lấy đó làm cơ sở cho các NHTM tham khảo khi triển khai hoạt động thẩm định, phân tích rủi ro dự án trước khi tiến hành tài trợ. Đối với bộ phận thông tin phòng ngừa rủi ro của các NHTM cũng cần được củng cố và thường xuyên cung cấp các thông tin cần thiết cho các chi nhánh của mình.
3- Hướng dẫn thống nhất về nội dung các chỉ tiêu thẩm định cho các NHTM và tổng kết kinh nghiệm.
Ngân hàng Nhà nước Việt nam cần sớm ban hành một tài liệu hướng dẫn chung cho các NHTM về nội dung và quy trình thẩm định một DAĐT...Trên cơ sở sự kết hợp với Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ khoa học công nghệ và môi trường... Sao cho phù hợp với thực tiễn của Việt nam hiện nay đồng thời, đảm bảo được đúng thông lệ quốc tế.
Sau từng thời kỳ, NHNN Việt nam cần tổ chức những hội nghị tổng kết việc đầu tư của các NHTM vào từng lĩnh vực, từng nghành nghề trong nền kinh tế, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và góp phần định hướng đầu tư trong thời gian tiếp theo. Tránh hiện tượng đầu tư tràn lan theo phong trào hoặc theo ý chí chủ quan của một số người mà không tính đến các yếu tố khách quan của thị trường, đến quan hệ cung cầu...Dẫn đến tình trạng sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được trong thời gian vừa qua như các dự án xi-măng , bia ( địa phương ), vật liệu xây dựng, đường mía....làm cho vốn vay NH khó hoặc không thể hoàn trả được, đó chính là một trong những nguyên nhân sâu xa gây rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng.
III. Những khuyến nghị đối với NHCT Việt nam:
1- Tập trung nâng cao chất lượng công tác thẩm định trong toàn hệ thống, bắt đầu từ công tác bồi dưỡng cán bộ.
NHCT cần đặc biệt chú ý vấn đề nâng cao chất lượng cán bộ thẩm định và phân tích rủi ro dự án. Muốn vậy, cần mở các lớp đào tạo ngắn ngày hoặc dài ngày về chuyên môn, tin học , ngoại ngữ...để cán bộ nâng cao trình độ, đồng thời mời các chuyên gia giỏi đến để truyền đạt các kịnh nghiệm thẩm định.
2- Tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế.
NHCT cần tăng cường và mở rộng các quan hệ hợp tác trong nước và quốc tế như các cơ quan các viện nghiên cứu, dự báo về chiến lược kinh tế, về thị trường giá cả...Qua đó tạo lập được các kênh cung cấp thông tin ổn định có chất lượng và được cập nhật thường xuyên, đảm bảo tính chính xác cho các thông tin dùng cho công tác thẩm định và phân tích rủi ro của các DAĐT, đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi về thông tin tín dụng cho các ngân hàng trong cùng hệ thống.
3- Tổ chức trang bị một cách đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ công tác thẩm định và phân tích rủi ro.
NHCT cần tạo điều kiện đầu tư trang bị một cách đồng bộ các hệ thống máy tính, các thiết bị tin học...Bên cạnh đó, tổ chức việc phối hợp giữa các cán bộ tin học ngân hàng với các chuyên gia thẩm định để cùng nhau xây dựng những phần mềm thẩm định và phân tích rủi ro bằng tiếng Việt để có thể mau chóng đưa ứng dụng phân tích rủi ro và thẩm định dự án được tin học hoá vào thực tiễn.
IV. Khuyến nghị với NHCT Đống đa.
Xuất phát từ quá trình nghiên cứu thực tiễn hoạt động tín dụng trung dài hạn của NHCT Đống đa, chúng tôi xin đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp cụ thể nhằm từng bước hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án.
1- NHCT Đống đa cần chủ động hơn trong việc tìm kiếm dự án.
Ngân hàng có thể và cần chủ động cùng các chủ doanh nghiệp căn cứ vào các thông tin định hướng về quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, thông tin về thị trường... để cùng nhau xây dựng các phương án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Tránh hiện tượng ngân hàng thụ động chỉ ngồi chờ doanh nghiệp đến xin vay vốn. Bởi trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau cũng như sự cạnh tranh giữa các NHTM là rất gay gắt. Việc NHTM cùng doanh nghiệp tìm phương án vay vốn sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có vốn để sản xuất kinh doanh, đồng thời ngân hàng có được tính chủ động trong việc nắm bắt các thông tin về dự án ngay từ những bước đầu...Điều này sẽ tạo cơ sở thuận lợi trong công tác thẩm định và phân tích rủi ro dự án cũng như khả năng ngân hàng chủ động về tạo lập các nguồn vốn tài trợ cho dự án.
2- Từng bước đổi mới và hoàn thiện phương thức thẩm định theo hướng đáp ứng yêu cầu thẩm định một cách toàn diện các DAĐT.
Thực tế công tác thẩm định dự án đầu tư ở NHCT Đống đa cũng như phần lớn các NHTM Việt nam hiện nay mới chỉ quan tâm chủ yếu đến phần thẩm định nội dung tài chính của DAĐT mà chưa tiến hành phân tích và thẩm định một cách đầy đủ nội dung về thị trường, về kỹ thuật của dự án. Trong quá trình nghiên cứu chọn lọc và phân tích các thông tin để lập dự án, chủ đầu tư phải xuất phát từ các yêu cầu thực tế của thị trường, từ các số liệu về giá bán cạnh tranh trên thị trường, đòi hỏi về chất lượng mẫu mã sản phẩm của khách hàng...Để từ đó, xây dựng các phương án công nghệ - kỹ thuật nhằm sản xuất ra sản phẩm với chất lượng thoả mãn các yêu cầu thương mại trên thị trường. Đối với mỗi phương án kỹ thuật, sẽ có một phương án về tài chính đi kèm, có thể nói các nội dung trong một dự án đầu tư có sự liên kết rất chặt chẽ, nội dung sau được xây dựng trên cơ sở của nội dung trước. Như vậy, việc thẩm định một dự án đầu tư mà chỉ tập trung vào phân tích tài chính như các NHTM Việt nam hiện nay đang làm là chưa đảm bảo tính toàn diện và tính hệ thống trong các yêu cầu của công tác thẩm định dự án. Để đảm bảo các kết luận thẩm định thực sự có giá trị, có ý nghĩa tham mưu cho cấp lãnh đạo và cán bộ tín dụng trong việc ra quyết định đầu tư đối với dự án, công tác thẩm định cần được đổi mới theo nguyên tắc thẩm định toàn diện tất cả các nội dung trong dự án xin vay mà khách hàng gửi đến ngân hàng. Tuy nhiên, để thực hiện được yêu cầu này không phải là vấn đề có thể giải quyết được một sớm một chiều, nó đòi hỏi một quá trình làm quen nhất định và trong quá trình này chắc chắn các cán bộ thẩm định sẽ gặp phải một số khó khăn cơ bản, mà khó khăn lớn nhất là vấn đề thu thập và cách thức xử lý các thông tin để có thể đưa ra các kết luận có giá trị tham mưu cho cấp lãnh đạo. Một thực tế hiện nay là phần lớn cán bộ làm công tác tín dụng và thẩm định ở NHCT Đống đa nói riêng và các NHTM Việt nam nói chung đều được đào tạo ở các trường thuộc khối kinh tế, do đó khả năng nắm bắt các vấn đề thị trường, kỹ thuật sẽ gặp những khó khăn nhất định, nhất là đối với việc tài trợ các dự án lớn công tác nghiên cứu về thị trường và kỹ thuật rất chuyên sâu và phức tạp đòi hỏi một trình độ chuyên môn cao. Về vấn đề này, chúng tôi xin khuyến nghị một giải pháp mang tính khả thi đó là ngân hàng cần tạo lập mối quan hệ với các chuyên gia kỹ thuật - công nghệ hàng đầu của các Viện nghiên cứu, các Trường đại học...để từ đó, khi có nhu cầu thẩm định các nội dung thị trường, kỹ thuật... mang tính chuyên sâu, ngân hàng có thể thuê các chuyên gia này tiến hành thẩm định. Như vậy, với kiến thức chuyên môn của mình, chắc chắn các kết luận của các chuyên gia sẽ có độ tin cậy cao đảm bảo chất lượng thông tin tư vấn cho quyết định tài trợ dự án của ngân hàng. Mô hình trên đây thực tế đã được áp dung ở các NHTM tại hầu hết các nước tiên tiến theo kinh tế thị trường. Tuy nhiên để công tác tư vấn nói trên đạt hiệu quả cao thì hoạt động này cần được đưa vào một khung pháp lý chắc chắn. Về vấn đề này, chúng tôi đã có khuyến nghị đối với Nhà nước trong việc sớm ban hành các văn bản pháp lý quy định về tư vấn và hành nghề tư vấn ( đã nêu ở phần trên ).
3- Hoàn thiện các chỉ tiêu trong thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Hiện nay công tác thẩm định nội dung tài chính dự án đầu tư tại NHCT Đống đa mới chỉ tập trung vào phân tích về tổng vốn đầu tư và cơ cấu vốn, về các nguồn trả nợ và lãi vay ngân hàng của dự án và một số chỉ tiêu khác như điểm hoà vốn ...Để từ đó đề xuất phương án cho vay và thu nợ. Như vậy, việc thẩm định mới chỉ đề cập đến một số hữu hạn các chỉ tiêu tài chính của dự án. Trong thực tế, nghiên cứu về tài chính của các dự án đặc biệt là các dự án dài hạn, việc phân tích theo phương pháp giá trị hiện tại là cần thiết để có thể đánh giá được một cách toàn diện các khoản thu chi của dự án cũng như hiệu quả tài chính mà dự án đem lại cho nhà đầu tư. Đối với ngân hàng, phương pháp này cũng cho phép tính toán xác định được khả năng trả nợ thực tế từ bản thân dự án, giúp cho ngân hàng có cơ sở cùng với chủ đầu tư lập kế hoạch trả nợ cho phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh. Về vấn đề này, chúng tôi xin khuyến nghị NHCT Đống đa nghiên cứu để từng bước đưa các kỹ thuật thẩm định tài chính theo giá trị hiện tại vào công tác thực tế của mình. Cần tính toán các chỉ tiêu như NPV, IRR, thời gian hoàn vốn chiết khấu.v.v. ( như trong chương I của bản luận văn đã trình bày ) và coi đó như những chỉ tiêu tài chính cần phải có trong việc đưa ra các kết luận đánh giá về dự án, giúp cho cấp lãnh đạo có cơ sở quyết định tài trợ hay không tài trợ cho dự án. Liên quan đến kỹ thuật phân tích tài chính theo phương pháp giá trị hiện tại, có một vấn đề cần phải lưu ý đó là việc xác định đúng vòng đời hay tuổi thọ kinh tế của dự án. Hiện nay việc xác định đúng vòng đời của dự án cần chú ý đến quan hệ cung cầu sản phẩm trên thị trường, đến quan điểm và sở thích tiêu dùng đang thay đổi rất nhanh chóng của người tiêu dùng và đặc biệt là sự tiến bộ rất nhanh chóng của khoa học - công nghệ; Các sáng chế và công nghệ cao ( Hi- tech ) ngày càng nhiều và được ứng dụng ngày càng nhanh chóng vào quá trình sản xuất ...Do đó, xác định đúng vòng đời của dự án cần căn cứ vào các yếu tố nói trên. Đối với ngân hàng việc xác định đúng vòng đời của dự án cho phép ngân hàng tính toán xác định khoản tài trợ là trung hạn hay dài hạn từ đó có kế hoạch cho vay, thu nợ một cách phù hợp nhất, tránh hiện tượng trong thực tế đã từng xảy ra là do xác định vòng đời của dự án không chính xác ảnh hưởng tới khả năng thu nợ của ngân hàng.
4- Từng bước triển khai và áp dụng các kỹ thuật phân tích rủi ro hiện đại vào công tác thẩm định các DAĐT.
Từ khi nền kinh tế Việt nam chuyển sang cơ chế thị trường, các hoạt động kinh tế đã trở nên rất sôi động, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ra sức cạnh tranh với nhau để có được chỗ đứng vững vững chắc trên thị trường, để sản phẩm của mình tạo được niềm tin với khách hàng. Nhằm vào mục tiêu nói trên, các doanh nghiệp đã tìm kiếm và tận dụng các cơ hội đầu tư để đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm...Do đó, nhu cầu về vốn đầu tư phát triển là hết sức cần thiết và cấp bách. Bên cạnh nguồn vốn tự có của bản thân doanh nghiệp ( nguồn vốn chủ sở hữu ), doanh nghiệp luôn luôn phải tìm kiếm những nguồn vốn bổ sung khác, trong đó một phần rất quan trọng là nguồn vốn đầu tư của các NHTM Việt nam đầu tư cho các dự án.
Với quy mô tín dụng trung dài hạn ngày càng có xu hướng mở rộng
( Chương II, phần thực tế ở NHCT Đống đa đã trình bày ), khối lượng vốn ngân hàng cho vay ngày càng lớn, vấn đề đặt ra ở đây là trong hoạt động tín dụng của mình, NHCT Đống đa cần phải có sự thẩm định thật chặt chẽ đối với các dự án xin vay và ngân hàng cũng phải có những công cụ hữu hiệu và nhưng phương pháp có độ tin cậy cao để đánhgiá các rủi ro của dự án. Bởi vì nói đến kinh tế thị trường là phải nói đến sự cạnh tranh quyết liệt và sự rình rập thường trực của rất nhiều các loại rủi ro.
Thực tế khảo sát trong thời gian qua chúng tôi nhận thấy, NHCT Đống đa đã có sự quan tâm thích đáng đến việc nâng cao chất lượng của công tác thẩm định. Tuy nhiên, về mặt phương pháp thẩm định và kỹ thuật tiến hành cụ thể vẫn còn có nhiều lúng túng và khó khăn. Phần lớn các dự án được thẩm định qua ngân hàng mới chỉ quan tâm đến các chỉ tiêu tài chính giản đơn, chứ chưa sử dụng các phương pháp phân tích tài chính hiện đại trong tính toán các chỉ tiêu hiệu quả. Mặt khác, do có sự khó khăn về thông tin kinh tế - thị trường và sự hạn chế nhất định về năng lực chuyên môn nên các nội dung thị trường, kỹ thuật - công nghệ của dư án chưa được đánh giá đúng mức, chưa đo lường được những biến động, nhưng rủi ro có tính dài hạn sẽ xảy ra trong tương lai. Thực tế cho thấy, có những dự án khi phân tích theo các chỉ tiêu tài chính giản đơn, trong một tương lai gần thì đảm bảo được hiệu quả nhưng khi tiến hành tính toán phân tích có tính đến các rủi ro thời gian theo phương pháp tài chính hiện đại thì lại bộc lộ nhiều yếu kém. Từ đó, việc thẩm định dự án chưa đạt kết quả cao như mong muốn và từ đó, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Xuất phát từ thực trạng nói trên, trong thời gian tới, để góp phần nâng cao không ngừng chất lượng công tác thẩm định dự án nói riêng và chất lượng tín dụng trung dài hạn của NHCT Đống đa nói chung, cần thiết phải có sự quan tâm thích đáng đến việc ứng dụng các công nghệ phân tích rủi ro hiện đại vào công tác thẩm định dự án của ngân hàng. Đây là giải pháp hợp lý và đúng hướng của các NHTM trong điều kiện kinh tế thị trường đầy cạnh tranh và biến động hiện nay.
Về khả năng ứng dụng kỹ thuật phân tích rủi ro hiên đại tại NHCT Đốngđa
Như đã phân tích ở phần trên, việc áp dụng các kỹ thuật phân tích rủi ro hiện đại vào công tác thẩm định của các NHTM Việt nam nói chung và NHCT Đống đa nói riêng là một tất yếu khách quan. Vấn đề đặt ra ở đây là trong thực tế, khả năng ứng dụng các kỹ thuật phân tích rủi ro này sẽ có những thuận lợi và khó khăn căn bản gì?
Theo chúng tôi, những thuận lợi và khó khăn căn bản sẽ bao gồm:
Về thuận lợi:
- Một là: Trong quá trình hội nhập về kinh tế khu vực và toàn cầu, các dự án đầu tư quốc tế đầu tư vào Việt nam ngày càng nhiều. Theo thông lệ quốc tế, tất cả các dự án đầu tư đều phải trải qua một quá trình thẩm định chặt chẽ, trong đó họ rất coi trọng vấn đề phân tích rủi ro. Để có thể quản lý tốt các dự án này phía Việt nam cần nắm được các phương pháp kỹ thuật thẩm định và phân tích rủi ro. Mặt khác, khi nhu cầu đầu tư vốn tăng cao sẽ nảy sinh hình thức đồng tài trợ giữa nhiều NHTM thuộc các quốc gia khác nhau, việc cùng nhau phân tích rủi ro và cùng thẩm định là tất yếu. Do đó, đây vừa là một xu hướng, vừa là một thuận lợi cho các NHTM Việt nam trong quá trình hội nhập trong nền kinh tế thị trường.
- Hai là: Về mặt nhận thức, phần lớn cán bộ lãnh đạo và cán bộ trực tiếp làm công tác thẩm định tại các NHTM đều đánh giá được tầm quan trọng của đòi hỏi nâng cao chất lượng công tác thẩm định. Đây là một thuận lợi tinh thần hết sức to lớn, nó thể hiện mối quan tâm sâu sắc của các cấp lãnh đạo trong NHTM và các cán bộ tác nghiệp trực tiếp tới chất lượng tín dụng.
Con người luôn luôn là nhân tố quyết định mọi thành công, do đó sự thông suốt về tư tưởng, sẵn sàng tiếp nhận và vận hành kỹ thuật mới là một thuận lợi rất căn bản.
- Ba là: Các phòng tín dụng tại NHCT Đống đa đều được trang bị các máy tính, các thiết bị tin học văn phòng khá đầy đủ. Đây là cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng để hiện thực hoá việc ứng dụng kỹ thuật phân tích rủi ro theo phương pháp tài chính hiên đại.
Bên cạnh những thuận lợi nói trên, trong thực tế vẫn còn tồn tại những khó khăn cản trở việc ứng dụng kỹ thuật phân tích rủi ro hiện đại, cụ thể như sau:
Về khó khăn:
- Một là: Khó khăn về nguồn thông tin. Đây là khó khăn lớn nhất và cơ bản nhất trong công tác phân tích rủi ro của các NHTM Việt nam hiện nay. Do thông tin còn thiếu, không chính xác hoặc không được cập nhật kịp thời nên công tác phân tích rủi ro gặp rất nhiều khó khăn.
- Hai là: Tuy đã có cơ sở vật chất cần thiết cho phân tích rủi ro ( các máy tính đã được trang bị khá đầy đủ ), nhưng điều quan trọng là các phần mềm phân tích rủi ro, đặc biệt là các phần mềm bằng tiếng Việt để tạo điều kiện thuận lợi trong sử dụng cho cán bộ thẩm định vẫn chưa có.
- Ba là: Trình độ cán bộ làm công tác thẩm định còn có những hạn chế nhất định về chuyên môn, về năng lực ngoại ngữ, tin học...Đây cũng là nhưng khó khăn khi ứng dụng kỹ thuật phân tích rủi ro mới vào thực tiễn.
Xuất phát từ sự cần thiết phải phân tích rủi ro dự án, từ những thuận lợi và khó khăn đang tồn tại trong thực tiễn hoạt động của NHCT Đống đa, chúng tôi xin có một số khuyến nghị về vấn đề này như sau:
NHCT Đống đa cần từng bước cho các cán bộ tín dụng được tham dự các khoá học về phân tích rủi ro dự án, từ đó trang bị cho họ những kiến thức, phương pháp và kỹ thuật phân tích rủi ro hiện đại. Đồng thời, đưa việc phân tích rủi ro dự án vào làm một nội dung quan trọng trong các tờ trình, các báo cáo thẩm định của cán bộ tín dụng khi tham mưu cho cấp lãnh đạo trong việc quyết định cho vay hay không cho vay.
NHCT Đống đa cần tạo lập các mối quan hệ rộng rãi với các cơ quan và cá nhân có nguồn thông tin phong phú về thị trường giá cả trong và ngoài nước: Các chuyên gia có khả năng phân tích và dự báo sự biến động của thị trường, của công nghệ - kỹ thuật....Trên cơ sở đó thu thập các thông tin liên quan đến thẩm định dự án và mời tư vấn khi cần thiết.
5- Từng bước nâng cao trình độ nghiệp vụ và khả năng phân tích DAĐT của các cán bộ làm công tác tín dụng và thẩm định thông qua quá trình đào tạo và đào tạo lại.
Xét cho cùng, trong bất cứ công việc gì, nhân tố con người luôn luôn là nhân tố quyết định nhất đến thành công. Chính vì vậy, một trong những vấn đề chúng tôi xin khuyến nghị NHCT Đống đa là công tác cán bộ, đặc biệt là đối với cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định.
- Về vấn đề tuyển chọn và bố trí cán bộ:
Trong tuyển chọn, bố trí cán bộ làm tín dụng cần kết hợp hài hoà giữa năng lực chuyên môn và tư cách đạo đức; cán bộ làm tín dụng phải có tiêu chuẩn rõ ràng, đủ năng lực làm việc. Đối với nhân viên mới được tuyển chọn cần phải được đào tạo chuyên sâu thêm về công việc sẽ giao. Ngoài ra, cần phải hướng dẫn cho nhân viên mới nắm rõ mục tiêu, những quy định của NH và của pháp luật liên quan đến hoạt động NH như Bộ Luật dân sự, Luật hình sự, các Luật doanh nghiệp, Luật phá sản doanh nghiệp ...
- Phân công giao việc cụ thể, khoa học:
Việc giao công việc cụ thể, trong đó phân định trách nhiệm, quyền hạn cho từng công việc, từng người. Các nhiệm vụ chức năng cần có sự độc lập tương đối ví dụ như trong hoạt động tín dụng, các nhân viên chuẩn bị hồ sơ tín dụng phải độc lập với nhân viên thẩm định từ đó, các ý kiến sẽ khách quan hơn và trong một chừng mực nào đó, quy định rõ được trách nhiệm của từng cá nhân trong hoạt động tín dụng. Các chế độ đãi ngộ, khen thưởng đối với cán bộ tín dụng cũng cần được quy định một cách rõ ràng bởi thực chất trong hoạt động kinh doanh của NHTM, công tác tín dụng là công tác tiềm ẩn nhiều rủi ro nghề nghiệp nhất. Chính vì vậy, việc tạo ra cơ chế lợi ích thoả đáng sẽ giúp cán bộ tín dụng yên tâm hơn trong công tác của mình, tạo điều kiện cho họ hết lòng vì công việc chung.
- Về công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ.
Đặc điểm của kinh tế thị trường là hết sức năng động, các nhân tố kinh tế thường xuyên có sự biến động. Mặt khác, nền kinh tế nước ta nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng đang đi những bước đầu tiên vào nền kinh tế thị trường, một lĩnh vực rất mới mẻ , rất nhiều khó khăn và thách thức...Muốn đạt được yêu cầu về hiệu quả kinh doanh ngân hàng và đặc biệt là kinh doanh tín dụng, đòi hỏi các cán bộ làm công tác tín dụng và thẩm định dự án phải không nghừng học hỏi chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng được yêu cầu của công việc. Việc học tập nghiệp vụ này không thể hoàn thành một sớm một chiều mà đây là nhiệm vụ mang tính lâu dài và thường xuyên để liên tục cập nhật những kiến thức mới, phục vụ công tác.
Xuất phát từ quan điểm này, chúng tôi xin khuyến nghị với NHCT Đông đa cần tiếp tục quan tâm nhiều hơn nữa tới công tác đào tạo cán bộ tín dụng nhất là về trình độ thẩm định, đánh giá các dự án kinh doanh của khách hàng vay vốn, kiến thức pháp luật, kiến thức chung về kinh tế xã hội.... Công tác đào tạo cần được tiến hành thường xuyên để cập nhật những kiến thức mới. Đào tạo kiến thức cần đi đôi với giáo dục đạo đức kinh doanh và lề lối, phương pháp làm việc. Về hình thức đào tạo, có thể tổ chức những lớp học theo chuyên đề ngắn ngày, các lớp đào tạo chuyên sâu dài ngày hoặc liên kết với các chi nhánh NHCT trong hệ thống tổ chức các cuộc hội thảo, trao đổi kinh nghiệm hoặc cũng có thể phối hợp với các NHTM khác, với NHNN Việt nam tổ chức các hội nghị về tín dụng trung dài hạn, về công tác thẩm định và phân tích rủi ro.v.v.
Trên đây là một số khuyến nghị cụ thể được rút ra qua quá trình nghiên cứu thực tiễn công tác tín dụng và thẩm định dự án tại Ngân hàng Công thương Đống đa. Chúng tôi rất hy vọng những ý tưởng nói trên được các cơ quan hữu quan và các cấp có thẩm quyền có sự quan tâm thích đáng. Chúng tôi cũng rất mong muốn những khuyến nghị mang tính cụ thể đó sớm được nghiên cứu áp dụng trong thực tiễn công tác của ngân hàng nhằm góp một phần nhỏ vào quá trình hoàn thiện công tác thẩm định và phân tích rủi ro dự án trong hoạt động tín dụng trung - dài hạn của các NHTM Việt nam, hướng tới mục tiêu hiệu quả đầu tư, ổn định và phát triển nền kinh tế, thực hiện tốt tiến trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở nước ta.
Tài liệu tham khảo
1- Thẩm định dự án đầu tư Vũ Công Tuấn,
NXB TP HCM
2- Quản trị DAĐT trong nước và quốc tế Nguyễn Xuân Thuỷ,
NXB CTQG
3- Quản trị tài chính doanh nghiệp ĐH Kinh tế quốc dân
4- Dự toán vốn đầu tư trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Sách dịch, NXB Thống kê
5- Tài liệu hướng dẫn sử dụng Risk Master for Windows
Havard University USA
6- Tổng quan hoạt động của NHTW Pháp Banque de France 1997
7- Một số tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Tạp chí Ngân hàng các năm 97-99
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28205.doc