Ngoài ra Việt Nam cần chú trọng tới việc phát triển đa dạng các hình thức dịch vụ, ngân hàng, vận tải, viễn thông, truyền hình. để thay đổi cơ cấu theo hướng xuất khẩu trong những năm tới.
Trong ba bước trên thì bước ba là bước rất quan trọng có tính định hướng cho xuất khẩu Việt Nam hiện nay. Trong một tương lai gần giá lao động của Việt Nam sẽ trở nên đắt hơn do đó việc xuất khẩu những sản phẩm sử dụng nhiều lao động sẽ không hợp lý. Điều này sẽ làm cho hàng hoá của Việt Nam trở nên đắt và kém sức cạnh tranh hơn .
Hiện nay các mặt hàng chủ lực của Việt Nam hiện nay chủ yếu là nông, lâm, hải sản như gạo, dầu, lạc. có giá trị kim ngạch thấp chủ yếu là do chúng ta xuất khẩu dưới dạng sơ chế. Mặt khác, những mặt hàng này có đặc điểm là không phát huy được kỹ thuật tiên tiến. Lịch sử của các nước công nghiệp hoá và các NIEs đã chỉ ra rằng “ Không thể có một sự phát triển cao và bền vững nếu như ta bỏ rơi khu vực nông nghiệp - nông thôn đồng thời cũng không thể làm giàu hay cất cánh được nếu chỉ dựa vào nông nghiệp và khai khoáng ". Do đó tầm quan trọng của việc xác định các mặt hàng chủ lực có hàm lượng vốn và công nghệ cao như thông tin, điện tử. là rất cần thiết.
Tóm lại trong tình hình hiện nay Việt Nam nên có những bước đi thích hợp nhằm giảm tỷ lệ thô và sơ chế các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản đồng thời có chính sách đầu tư, xác định và phát triển những mặt hàng có hàm lượng vốn và công nghệ cao cho phù hợp với xu thế và yêu cầu của thị trường thế giới .
71 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n kinh tế thế giới .
Tóm lại nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á nằm ngay trong lòng những quốc gia này, xuất phát từ những mâu thuẫn nội tại . Sự bất hợp lý trong cơ cấu vốn, sự phụ thuộc quá nhiều vào bên ngoài của các nước Asean, sự tham nhũng, chi phối Chính phủ quá mạnh của các tập đoàn khổng lồ Hàn Quốc (Chaebol) và tính không minh bạch trong thị trường tài chính của Nhật Bản có thể được coi là các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cuộc khủng hoảng này .
3 . Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Tới nền kinh tế khu vực và thế giới
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á chẳng phải là một thông điệp tốt đẹp gì gửi tới thế kỷ 21 của các nước Châu á. Theo lý thuyết thì cuộc khủng hoảng này cũng làm cho các quốc gia có điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu, tuy nhiên mặt tích cực thì ít mà thiệt hại mà nó đem lại thì quá lớn. Các nước này phải gánh chịu hậu quả nặng nề cả về kinh tế , xã hội lẫn sự bất ổn về chính trị. Xét về góc độ kinh tế thì cuộc khủng hoảng này có những tác động sau :
Trong thời gian trước và sau cuộc khủng hoảng, các nước đều phải tiêu tốn một lượng ngoại tệ lớn để chống đỡ giữ cho đồng tiền không bị mất giá quá mức. Thái Lan phải sử dụng 1/2 lượng dự trữ ngoại tệ của mình, Philippines sử dụng khoảng 20% để cứu đồng Peso . Các nước như Indonesia, Malaysia cũng sử dụng nhiều tỷ USD và mục đích nói trên .
Nợ nước ngoài tính bằng ngoại tệ tăng lên khoảng 25 - 28% tuỳ theo mức độ phá giá đồng tiền. Như vậy tính đến đầu năm 1998 nợ nước ngoài của Thái Lan từ 85 tỷ USD lên 119 tỷ USD, Malaysia từ 29 lên 36,5 tỷ USD, Philippines từ 43,5 lên 54,4 tỷ USD, Indonesia từ 100,3 tỷ lên 150,8 tỷ USD ...
Hoạt động đầu tư kinh doanh bị đình đốn, hàng loạt các công ty mất khả năng thanh toán và bị phá sản. Số vụ phá sản năm 1997 của Malaysia là 6.587 vụ, tăng gấp 13 lần so với năm 1996. Tại Hồng Kông với 1.142 công ty làm đơn xin phá sản 1997 đã tăng 43% so với 1996, Nhật Bản năm 1997 cũng có khoảng 16500 cuộc khủng hoảng lớn nhỏ xảy ra, riêng tháng 5/1998 Nhật Bản đã có 1791 công ty bị phá sản, đây là con số công ty bị phá sản hàng tháng lớn nhất kể từ sau thế chiến II ... Điều này làm cho thất nghiệp gia tăng, gây ra hậu quả rất xấu với các nền kinh tế này ...
Do đồng tiền mất giá , nền kinh tế vĩ mô không ổn định , các nguồn đầu tư nước ngoài sẽ bị giảm sút và có thể chuyển sang các khu vực khác như Trung Quốc, Mỹ la tinh...
Hệ thống tài chính đổ vỡ gây sức ép lớn tới lạm pháp, giảm thu nhập của người lao động, tác động xấu đến các mặt của đời sống kinh tế xã hội.
Cuối cùng để khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng, ổn định lại nền kinh tế mỗi quốc gia này phải tiêu tốn một lượng tài chính rất lớn, theo ước tính trên dưới 10% GDP. Đây là một khó khăn lớn nhất không thể giải quyết được trong một thời gian ngắn. Ngoài ra những quốc gia này khi nhận được những khoản vay của IMF phải chịu những điều kiện ràng buộc rất khắt khe ....
* Ngoài những tác động tiêu cực trên thì việc các đồng tiền lên giá cũng có một số mặt tích cực như :
Giảm giá các đồng tiền lại khuyến khích các hoạt động xuất khẩu, hàng xuất khẩu của nước này có thể tăng thêm sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế nhất là trong tương quan so sánh với các quốc gia có mặt hàng cùng loại nhưng có đồng tiền ổn định hơn.
Các yếu tố đầu vào tính bằng ngoại tệ bao gồm tiền lương, đất đai, dịch vụ... giảm một cách tương đối cao so với các nước khác nên khi khủng hoảng kết thúc thì chính các nước này lại có lợi thế thu hút vốn đầu tư bao gồm cả FDI và vốn đầu tư gián tiếp.
Xét về lâu dài thì đây là dịp các nước này rút ra bài học để điều chỉnh lại chính sách phát triển kinh tế hợp lý .
Đứng trên lý thuyết thì việc giảm giá các đồng tiền sẽ khuyến khích các quốc gia đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên thực tế tình hình xuất khẩu ở các nước asean trong những tháng qua lại không phải là như vậy. Việc đắt lên một cách tương đối của chi phí đầu vào từ nhập khẩu, việc các ngân hàng thắt chặt tín dụng, tình trạng thiếu ngoại tệ đã không cho phép các quốc gia này có thể đẩy mạnh xuất khẩu như ý muốn. Mặt khác với việc đồng JPY giảm giá trong những ngày gần đây đã gây một sức ép đè nặng lên xuất khẩu của các nước asean nhất là Thái Lan, Indonesia và Malaysia ...Hàng hoá Nhật Bản trở nên rẻ hơn và dễ dàng chiếm lĩnh thị phần của các nước Đông Nam á.
Theo những nhà phân tích đánh giá và dự báo thì tổng mức tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế Tây âu trong năm 1998 ước khoảng 2,4% thấp hơn mức người ta mong đợi là 1% vì các nước này có khối lượng xuất khẩu sang Châu á lớn. Tốc độ tăng trưởng của Mỹ từ 3,7 % ( 1997) xuống còn 2,4% (1998) chủ yếu là do thâm hụt mậu dịch mà theo dự đoán là sẽ vượt quá con số 153 tỷ USD.
Theo đánh giá của Ngân hàng phát triển Châu á ADB (Asian Development Bank) thì mức tăng trưởng của khu vực Châu á - Thái Bình Dương sẽ là 4% (1998) giảm so với mức 6,1% (1997) và 7,5% (1996). Các nền kinh tế của các nước như Thái Lan, Indonesia sẽ giảm 3%, Hàn Quốc giảm 1%, các nước trong tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) sẽ giảm khoảng 1% (biểu đồ 4) .
biểu đồ 4 : So sánh tốc độ tăng trưởng một số nước và khu vực (1997 - 1998)
Hàn Quốc
Thái Lan
Mỹ
CA-TBD
0
Tóm lại : Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, nền kinh tế thế giới năm 1998 sẽ có những biến động lớn và chịu hậu quả nặng nề. Việt Nam nằm ở vị trí trung tâm của khu vực Châu á - Thái Bình Dương, rất gần với vị trí của "tâm bão" là Thái Lan và Indonesia, Việt Nam cũng có mối quan hệ rất mật thiết với nền kinh tế của các nước Asean, Nhật Bản, Hàn Quốc. Vậy Việt Nam có bị ảnh hưởng không ? nếu có thì như thế nào ? nhất là trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam - mảng chính trong bài viết này, chúng ta hãy cùng phân tích trong mục 4.
4 . Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
Sau khi xảy ra khủng hoảng tiền tệ Châu á từ đầu tháng 7/1997, đến nay có hai luồng quan điểm về ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế Việt Nam như sau :
Quan điểm 1 :
Cuộc khủng hoảng tài chính không có ảnh hưởng đáng ngại đối với nền kinh tế và đồng tiền của Việt Nam bởi các lý do sau :
Đồng tiền Việt Nam chưa phải là ngoại tệ chuyển đổi trong khu vực do đó về cơ bản không chịu tác động của cuộc khủng hoảng .
Việt Nam chưa có thị trường chứng khoán thực thụ, chưa có sự "mở cửa" cho việc mua bán tự do các loại chứng khoán Nhà nước dưới dạng các tín, trái phiếu kho bạc hay một số trái phiếu doanh nghiệp, cổ phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu của các Ngân hàng thương mại do đó hạn chế việc hùn, góp vốn, mua cổ phần của người nước ngoài... Nhờ đó không có con đường "thâm nhập" hay "rút chạy" ngay lập tức một cách tự do các luồng vốn, ngoại tệ ngắn hạn ra nước ngoài trong trường hợp khủng hoảng tiền tệ bên ngoài lan truyền vào, gây ảnh hưởng xấu đến đồng tiền và nền kinh tế Việt Nam.
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Thái Lan còn hết sức nhỏ bé, chiếm chưa đầy 3% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu chung và khoảng 13% số này so với các nước Asean. Dù cho đồng Baht bị mất giá mạnh thì ảnh hưởng của nó thông qua ưu thế cạnh tranh xuất, nhập khẩu nghiêng về phía Thái Lan đối với Việt Nam là không đáng kể.
Quan điểm 2 :
Vẫn chịu ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của cuộc khủng hoảng khu vực. Dù chưa tham gia vào cơ chế chuyển đổi ngoại tệ khu vực, thị trường tài chính nội địa Việt Nam còn tương đối "đóng cửa", sự di chuyển vốn và ngoại tệ phi tập trung ra, vào trong nước được quản lý chặt (thông qua các cơ chế quản lý ngoại hối tập trung), hạn chế mua, bán ngoại tệ tự do... nhưng Việt Nam sẽ là thành viên đầy đủ của Asean với trách nhiệm phải góp phần nhanh (đồng nghĩa với chia sẻ rủi ro) về các quan hệ thương mại, đầu tư , tài chính, tiền tệ khu vực...
Trong 2 quan điểm trên quan điểm 1 có ý nghĩa tâm lý ổn định tiền tệ trước mặt nhưng lại thiếu tính thực tế ở tầm chiến lược so với quan điểm 2 mặc dù nó có những lý lẽ rất hùng hồn. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước Asean, Hàn Quốc và Nhật năm 1997 chiếm khoảng 42,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó trên 24% là sang các nước Asean (khoảng 62 - 65%) là xuất sang Singapore. Như vậy hơn 2/3 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Asean là vào Singapore mà Singapore thì không bị ảnh hưởng nhiều bởi cuộc khủng hoảng (dự trữ của Singapore là 76,8 tỷ USD). Hơn nữa quan hệ ngoại thương của Việt Nam với Thái Lan và các nước còn lại trong khu vực còn khiêm tốn, nên theo quan điểm 1 thì xuất khẩu của Việt Nam không bị ảnh hưởng lớn bởi cuộc khủng hoảng này. Tuy nhiên đứng trên quan điểm tổng thể và chiến lược thì cuộc khủng hoảng này thực sự là tác động tới nền kinh tế Việt Nam , đặc biệt là hoạt động đầu tư và xuất nhập khẩu một cách gián tiếp lẫn trực tiếp.
Cuộc hội thảo về cuộc khủng hoảng tài chính khu vực diễn ra ngay vào những ngày đầu tháng 12/1997 do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, viện quản lý kinh tế Trung ương, Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) tổ chức đã phân tích và thấy rõ được những tác động của cuộc khủng hoảng này. Trong hoạt động xuất khẩu thì nó ảnh hưởng trên những mặt sau đây :
Việc các đồng tiền của các nước khu vực đồng loạt bị phá giá đã làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá các quốc gia đó, làm cho hàng hoá của Việt Nam giảm khả năng cạnh tranh. Việc phá giá của đồng Baht, đồng Ringgit, đồng Peso, đồng Rupiah... khiến cho giá của các mặt hàng của các nước này trở nên rẻ hơn trong khi giá của các mặt hàng xuất cùng loại của Việt Nam vẫn giữ nguyên giá hay giảm không đáng kể do đồng tiền Việt Nam khá ổn định sẽ làm cho hàng hoá Việt Nam trở lên kém hấp dẫn. Điều này gây sức ép cho các doanh nghiệp Việt Nam giảm giá và đây là lý do chính mà các mặt hàng như gạo, dầu thô, hạt điều... giảm giá dẫn đến kim ngạch xuất khẩu Việt Nam giảm 100 triệu USD so với dự kiến, chỉ tăng 12,2,% mặc dù lượng hàng xuất của Việt Nam vẫn tăng.
Sự sụt giảm của thị trường Châu á : Thị trường Châu á vốn là thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam (năm 1997 chiếm 67,7% tổng kim ngạch xuất khẩu trong đó Đông Bắc á (44%), Đông nam á (22%) với các bạn hàng lâu dài như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore...Sự khủng hoảng của các nền kinh tế với những hậu quả nặng nề về kinh tế - xã hội, hàng loạt các vụ phá sản xảy ra, sản xuất kinh doanh đình đốn, bảo hộ của các chính phủ được tăng cường. Tất cả điều này cùng với sự "lên giá" của hàng Việt Nam đã làm cho sức mua của thị trường này giảm hẳn khiến cho thị trường ASEAN từ mức 25-30% giảm xuống còn dưới 15%, số đơn đặt hàng của Nhật Bản , Hàn Quốc giảm 20% so với cùng kỳ.
Khủng hoảng tài chính làm đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm sút, điều này dẫn đến sự sụt giảm về xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Khủng hoảng tài chính ảnh hưởng mạnh mẽ đến cung cầu về đồng USD ở Việt Nam, gây ra nhiều tác động tới tỷ giá hối đoái và làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu.
Do hàng hoá của các nước có đồng tiền giảm giá mạnh sẽ rẻ đi, hàng hoá của các nước này tràn vào Việt Nam kể cả qua con đường nhập lậu sẽ gia tăng cầu ngoại tệ trên thị trường. Nhu cầu ngoại tệ tăng lên còn do số hàng mua chịu và hàng nhập qua L/C trả chậm sẽ đến hạn thanh toán. Trong điều kiện đồng USD tăng giá so với các đồng tiền Châu á thì gánh nợ nói trên sẽ trở lên "nặng" hơn (phải bỏ ra nhiều Baht hoặc VND mới mua được số USD như cũ). Đồng thời nhu cầu ngoại tệ tăng sẽ gây áp lực mạnh đối với tỷ giá VND và USD nếu không chủ động đối phó VND sẽ bị ép giá.
Ngoài ra đồng tiền của các nước ASEAN bị mất giá, ai có USD sẽ được lãi nhiều và do đó thị trường ASEAN cần nhiều USD hơn. Mặt khác các mặt hàng máy móc thiết bị công nghệ của các nước ASEAN giảm giá sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam mua sắm các công nghệ, thiết bị từ đó dẫn đến xu hướng đầu cơ và chuyển dịch USD vào các nước ASEAN, điều này cũng sẽ gây áp lực đối với tỷ giá hối đoái của Việt Nam.
** **
* *
Theo số liệu vừa công bố kim ngạch xuất khẩu tháng 5 ước đạt 730 triệu USD, giảm 7,8% so với tháng trước. Như vậy tính chung cả 5 tháng đầu năm tổng kim ngạch của cả nước xuất khẩu mới đạt 3860 triệu USD tăng 13% và thấp hơn rất nhiều so với kế hoạch mà Bộ thương mại đề ra cho năm 1998. Vậy đứng trước thực trạng này chúng ta phải làm gì ? câu trả lời sẽ dành cho chương III.
Chương III
Những định hướng Chiến lược cho xuất khẩu Việt Nam
1 . Mục tiêu
Trong chương I chúng ta đã phân tích và thấy rõ tầm quan trọng chiến lược của các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Nắm được vai trò này trong những năm qua Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng và đề ra những mục tiêu, phương hướng, biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu Việt Nam. Trong kế hoạch 5 năm (1996 - 2000) Đảng đã chỉ rõ cần phải : "Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tăng tỷ trọng các mặt hàng đã qua chế biến sâu, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm là 28% (chưa kể phần xuất khẩu tại chỗ) nâng mức xuất khẩu bình quân đầu người lên trên 200 USD "(1)Trích văn kiên Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứVIII - Trang 172
.
Trong năm 1998, theo kế hoạch số 3659/TM - KH của Bộ Thương mại về việc xây dựng và tổng hợp kế hoạch Thương mại năm 1998 có đề ra những mục tiêu cho xuất khẩu Việt Nam trong đó : Dự kiến kim ngạch xuất khẩu năm 1998 là 12 tỷ USD (tăng 30% so với năm 1997), trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 1,8 tỷ USD (tăng 50% so với năm 1997) .
Về cơ cấu xuất khẩu : (Hình1)
+ Hàng công nghiệp nặng dự kiến xuất khẩu 3 tỷ USD, tăng 42,8% so với năm 1997, chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu .
+Hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp dự kiến xuất khẩu 4,5 tỷ USD, chiếm 37,5% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 28,5% so với năm 1997.
+ Hàng nông, lâm, thuỷ sản dự kiến xuất khẩu 4,5 tỷ USD tăng 28% so với năm 1997 và chiếm 37,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Hình 1 : Mục tiêu về cơ cấu xuất khẩu 1998
Về một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu :
Bảng 13 : dự kiến xuất một số mặt hàng chủ lực 1998
Mặt hàng
Dầu thô
Than đá
Điện tử
Dệt may
Giầy dép
Gạo
Cà phê
Thủy sản
Đơn vị :
Triệu (tấn)
11,2
3,5
4
0,32-0,38
Triệu (USD)
570
1.500
1.200
850
2 . Những bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á về mô hình tăng trưởng hướng về xuất khẩu
Qua cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á, chúng ta có thể rút ra được những bài học cho mô hình tăng trưởng hướng vào xuất khẩu như sau :
Bài học thứ nhất là bài học về sự kém linh động trong việc điều chỉnh chính sách xuất khẩu cho phù hợp với những biến động của thị trường thế giới. V.I.Lênin đã từng nói " Những thất bại của chúng ta ngày nay dường như là sự nối dài những ưu điểm của chúng ta ngày hôm qua", lời nhận xét này quả thật rất chính xác dành cho Chính phủ Thái Lan. Các nhà hoạch định chính sách xuất khẩu đã không nhìn thấy được những dấu hiệu sắp xảy ra. Họ vẫn giữ thái độ lạc quan cho rằng sự tốt đẹp của nền kinh tế vẫn tiếp tục phát triển mà quên mất một thực tế là những điều kiện kinh tế đã thay đổi theo hướng bất lợi, do đó đã không có một sự điều chỉnh nào đáng kể với một chính sách xuất khẩu đã không còn phù hợp nữa. Trong những năm gần đây xuất khẩu của Thái Lan sụt giảm mạnh, so với mức tăng trưởng xuất khẩu bình quân 25% thời kỳ 1985 - 1995 thì mức tăng trưởng 0,2% vào năm 1996 thật khó tưởng tượng. Thu nhập ngoại tệ giảm mạnh, cán cân thanh toán bị thâm hụt nặng nề và đây chính là một nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng ở Thái Lan .
Bài học thứ hai là bài học về chính sách tỷ giá hối đoái. Việc duy trì tỷ giá cứng cố định đồng Baht chỉ với đồng USD quá lâu (13 năm : 1984 -1997) đã làm cho hàng xuất khẩu của Thái Lan trở nên đắt hơn, khả năng cạnh tranh ngày càng yếu. Ngoài ra trong khi nền kinh tế Mỹ đang tăng trưởng và nền kinh tế Thái Lan có dấu hiệu chựng lại ( 0,6% vào năm 1997) thì chính sách tỷ giá cứng này không còn phù hợp nữa, điều này làm cho Thái Lan sống trên khả năng của mình và mầm mống của cuộc khủng hoảng cũng sinh ra từ đó .
Bài học thứ ba là bài học về mô hình tăng trưởng hướng vào xuất khẩu bền vững. Một mô hình tăng trưởng hướng vào xuất khẩu bền vững đòi hỏi phải có sự cân đối hợp lý về xuất - nhập khẩu, cán cân thanh toán, tính hiệu quả của các hoạt động tài chính ngân hàng, sự cân đối về các nguồn vốn ... Mô hình này chỉ có thể phát triển bền vững khi mà cơ cấu bên trong của nền kinh tế hoạt động có hiệu quả .
Vậy từ những bài học này Việt Nam sẽ rút ra được gì cho chiến lược phát triển hướng ngoại của mình. Một điều rõ ràng là chúng ta không thể dựa vào công thức trừu tượng hướng vào xuất khẩu để dễ dàng có được một sự tăng trưởng thần kỳ. Để chiến lược này trở thành một sức mạnh thực tế, chúng ta phải tính thật sát sao những biến đổi của tình hình để điều chỉnh kịp thời chiến lược cạnh tranh của mình. Khi đó chính sách cơ cấu và chính sách thị trường đủ linh hoạt, có năng lực, phản ứng nhanh cộng với chính sách tỷ giá đủ mềm dẻo để duy trì sức thúc đẩy xuất khẩu. Bên cạnh đó sự cân đối hợp lý giữa xuất nhập khẩu, cân đối giữa các nguồn vốn, tính hiệu quả của bộ máy ngân hàng và tài chính ... sẽ góp phần tạo ra một sức mạnh bền vững cho chính sách hướng ngoại của Việt Nam .
3. Những định hướng chiến lược cho xuất khẩu Việt Nam
Trong chương II chúng ta đã phân tích và thấy rằng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á đã gây ra cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng những ảnh hưởng tiêu cực. Hay theo như lời của ông Phó Thủ Tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao Nguyễn Mạnh Cầm khẳng định là " Chúng ta nằm ở khu vực mà nhiều nhà hàng xóm bị cháy thì không thể tránh khỏi bị ảnh hưởng, ít nhất là tro bụi cũng bay vào nhà chúng ta". Thật vậy tro bụi quả là đã bay vào "nhà chúng ta" và tác động mạnh tới xuất khẩu Việt Nam. Vấn đề đặt ra ở đây là chúng ta phải làm như thế nào để vượt qua cơn sóng dữ này, thực hiện tốt những mục tiêu mà Chính phủ đề ra cho kế hoạch 5 năm (1996 - 2000) ?
Câu trả lời là phải có một chiến lược xuất khẩu hợp lý. Điều này rất đúng, tuy nhiên vấn đề mấu chốt ở đây lại là việc hoạch định chiến lượcxuất khẩu này như thế nào ? Nó phải đáp ứng được những yêu cầu gì ?
Nhìn môt cách tổng thể thì một chiến lược xuất khẩu hợp lý là một chiến lược phải phát huy, tận dụng được thế mạnh của Việt Nam, chiến lược này không những phải phản ứng linh hoạt với những biến động của thị trường thế giới mà còn phải có một tầm nhìn dài hạn, phải dự báo được những xu hướng biến đổi của thị trường thế giới và khu vực .
Qua sơ đồ 7 chúng ta thấy rằng chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu là một tập hợp rất phức tạp bao gồm nhiều chiến lược con và mỗi chiến lược con này cũng gồm nhiều kế hoạch và chứa đựng bên trong rất nhiều vấn đề nổi cộm. Trong một tổng thể gồm nhiều vấn đề phức tạp như vậy và với giới hạn của khuôn khổ nên bài viết này chỉ có thể khái quát những nét chính nhất về những chính sách, chiến lược con và tập trung vào phân tích vấn đề mở rộng thị trường trên bình diện vĩ mô.
Chiến lược xuất khẩu bao gồm những chiến lược con và chính sách sau:
3.1.Xây dựng và hoàn thiện một chính sách cơ cấu hàng xuất khẩu hợp lý
Trong một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường việc đổi mới chính sách cơ cấu hàng xuất khẩu phải căn cứ vào : Thị trường xuất khẩu (trọng tâm là những thị trường có sức mua dồi dào và có công nghệ nguồn như Mỹ, EU, Nhât Bản...), những điều kiện, khả năng, thế mạnh của sản xuất trong nước, tính hiệu quả (bao gồm cả hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội). Trong ba yếu tố này thì hiệu quả là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc lựa chọn cơ cấu và mặt hàng xuất khẩu .
* Để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu cần chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng :
Giảm tỷ trọng hàng thô và sơ chế đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến.
Giảm tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu truyền thống đi đôi với tăng tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu mới.
Tăng tỷ trọng các mặt hàng có giá trị gia tăng cao trong giá trị kim ngạch hàng xuất khẩu .
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay với lợi thế có nguồn lao động rẻ và dồi dào, có tay nghề và trong điều kiện hạn chế về vốn và công nghệ, theo kinh nghiệm của các NIEs Châu á chúng ta nên có những bước chuyển đổi mang tính quy luật như sau :
Bước một : Xuất khẩu hàng hoá nông, lâm, hải sản, hàng thủ côngMỹ nghệ .
Bước hai : Xuất khẩu hàng chế biến như dệt may, các sản phẩm gia dụng đòi hỏi có hàm lượng vốn và trình độ lao động ở mức trung bình .
Bước ba : Xuất khẩu hàng hoá chế tạo có hàm lượng vốn và lao động ở trình độ cao .
Ngoài ra Việt Nam cần chú trọng tới việc phát triển đa dạng các hình thức dịch vụ, ngân hàng, vận tải, viễn thông, truyền hình... để thay đổi cơ cấu theo hướng xuất khẩu trong những năm tới.
Trong ba bước trên thì bước ba là bước rất quan trọng có tính định hướng cho xuất khẩu Việt Nam hiện nay. Trong một tương lai gần giá lao động của Việt Nam sẽ trở nên đắt hơn do đó việc xuất khẩu những sản phẩm sử dụng nhiều lao động sẽ không hợp lý. Điều này sẽ làm cho hàng hoá của Việt Nam trở nên đắt và kém sức cạnh tranh hơn .
Hiện nay các mặt hàng chủ lực của Việt Nam hiện nay chủ yếu là nông, lâm, hải sản như gạo, dầu, lạc... có giá trị kim ngạch thấp chủ yếu là do chúng ta xuất khẩu dưới dạng sơ chế. Mặt khác, những mặt hàng này có đặc điểm là không phát huy được kỹ thuật tiên tiến. Lịch sử của các nước công nghiệp hoá và các NIEs đã chỉ ra rằng “ Không thể có một sự phát triển cao và bền vững nếu như ta bỏ rơi khu vực nông nghiệp - nông thôn đồng thời cũng không thể làm giàu hay cất cánh được nếu chỉ dựa vào nông nghiệp và khai khoáng ". Do đó tầm quan trọng của việc xác định các mặt hàng chủ lực có hàm lượng vốn và công nghệ cao như thông tin, điện tử... là rất cần thiết.
Tóm lại trong tình hình hiện nay Việt Nam nên có những bước đi thích hợp nhằm giảm tỷ lệ thô và sơ chế các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản đồng thời có chính sách đầu tư, xác định và phát triển những mặt hàng có hàm lượng vốn và công nghệ cao cho phù hợp với xu thế và yêu cầu của thị trường thế giới .
3.2. Chính sách lãi suất và tín dụng
Chính sách lãi suất và tín dụng đóng một vai trò khá quan trọng cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu. ở Việt Nam có thời kỳ lãi suất huy động lên rất cao (22%/ năm) đã thu hút được một lượng vốn lớn trong dân vào đầu tư gián tiếp dưới hình thức gửi tiết kiệm. Trong khi đó lãi suất cho vay cũng rất cao (25% đến 26%/ năm) khiến cho các doanh nghiệp dù đói vốn vẫn không thể vay để mở rộng sản xuất kinh doanh. Kết quả là nguồn vốn ngắn hạn bị ứ đọng ở hầu hết các ngân hàng thương mại dẫn đến tình trạng thừa mà thiếu vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam .
Hiện nay nhiều chuyên gia kinh tế Việt Nam cho rằng lãi suất cho vay hiện nay vẫn còn ở mức cao khiến cho các doanh nghiệp không dám dựa vào tín dụng để mở rộng sản xuất kinh doanh. Kinh nghiệm của các NIEs Châu á là kiên trì theo đuổi chính sách lãi suất cao để vừa khuyến khích tích luỹ vừa tạo áp lực buộc các doanh nghiệp phải cải tiến kỹ thuật và quản lý tốt theo hướng bảo đảm tỷ suất lợi nhuận cao đến mức tối đa. Phải chăng Việt Nam cũng nên kiên trì theo đuổi chính sách lãi suất cao như các NIEs Châu á ?.
Rõ ràng là điều này rất có lý vì chính sách lãi suất và tín dụng không phải là yếu tố duy nhất tạo đà cho sản xuất phát triển mà việc sản xuất kinh doanh để xuất khẩu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như môi trường kinh doanh v.v. Do đó Chính phủ nên có những ưu đãi hợp lý cho sản xuất hàng xuất khẩu trong một chừng mực và theo những đối tượng khác nhau phù hợp với chính sách cơ cấu như :
Ưu đãi cho các doanh nghiệp sản xuất hàng chế biến là chủ yếu .
Ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư vào các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao và có thị trường tiềm tàng .
Ưu đãi cho những mặt hàng mà việc sản xuất nó kéo theo sự phát triển của các ngành sản xuất nội địa khác .
......
3.3. Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài
Đây là một giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nói chung và thúc đẩy xuất khẩu nói riêng biểu hiện ở các khía cạnh :
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư có hiệu quả vào lĩnh vực thay thế nhập khẩu .
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào những ngành có hàm lượng vốn và trình độ công nghệ cao .
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào những ngành hướng mạnh ra xuất khẩu .
Trong chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì việc phát triển các khu chế xuất, công nghệ cao và công nghiệp tập trung (KCX, KCNC, KCN) là hết sức quan trọng. Tháng 4/ 1997 Thủ Tướng Chính Phủ đã ban hành quy chế về KCX, KCN và khu công nghệ cao, đây là một bước đi rất quan trọng nhằm thức đẩy sự phát triển của các KCN, KCX, KCNC. Cũng trong năm 1997 các KCN đã xuất khẩu gần 850 triệu USD và dự tính trong năm 1998 sẽ xuất khẩu được 1,2 tỷ USD. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng “lạm pháp” các KCN, KCX đang rất phổ biến, hiện tượng các KCN, KCX không thu hút được các nhà đầu tư như KCN Nomura Hải phòng, KCN Biên hoà I, KCX Massda Đà nẵng .... Do đó các nhà hoạch định phải có chính sách và biện pháp giải quyết các vấn đề như thủ tục cấp giấy phép đầu tư, giải phóng mặt bằng, giá cho thuê đất, tìm kiếm đối tác, lựa chọn vị trí, thuế ... Trong đó tính kém hiệu quả của bộ máy hành chính là một hàng rào cản vô hình rất lớn cho sự thâm nhập của các nhà đầu tư nước ngoài .
3.4. Hoàn thiện chính sách quản lý Nhà nước về xuất khẩu
Nói về chính sách quản lý của Nhà nước về hoạt động xuất khẩu thì quả là còn quá nhiều việc phải làm. Theo xếp hạng của tờ Nihon Keizai Shimbun dựa vào kết quả điều tra của từ 24 công ty Nhật bản ở ASEAN thì tính hiệu quả của bộ máy hành chính Việt Nam rất kém (đứng hàng thứ 8 trong khu vực ASEAN, chỉ trên mỗi Lào và Campuchia) .
Bảng 14 : Một số chỉ tiêu về môi trường kinh doanh ở Việt nam
Quốc gia
Hệ thống thuế
Hiệu quả của bộ máy hành chính
Tính công minh của bộ máy hành chính
Singapore
4,2
4,5
4,3
Bruney
3,3
3,0
2,3
Malaisia
3,2
3,0
3,0
Thái lan
2,7
2,3
2,3
Philippin
2,7
2,4
2,2
Indonesia
2,3
1,9
1,8
Việt Nam
1,8
1,4
1,5
Myanma
1,7
1,6
1,6
Lào
1,5
1,3
1,4
Campuchia
1,4
1,1
1,1
Nguồn : Thời báo kinh tế Việt Nam số 79/1997)
Vừa qua Chính phủ đã thông qua Luật thương mại, việc này đã tạo nên những khuôn khổ pháp lý cho hoạt động xuất nhập khẩu. Nhà nước đã tập trung quản lý xuất khẩu vào một đầu mối là Bộ thương mại, Bộ thương mại thực hiện chức năng quản lý thống nhất Nhà nước và phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ để quản lý hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng .
Hiện nay Bộ thương mại đã cho phép tất cả các doanh nghiệp đã đăng kí kinh doanh trong nước đều được quyền xuất khẩu trừ 5 nhóm hàng cần có giấy phép kinh doanh (gạo, dệt may, cà phê, gỗ và lâm sản) còn lại được xuất khẩu theo ngành hàng đã đăng ký kinh doanh và chỉ cần làm thủ tục hải quan. Chính phủ Việt Nam cũng cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không những được xuất khẩu sản phẩm ghi trong giấy phép mà còn được mua nhiều loại hàng hoá để xuất khẩu hoặc chế biến xuất khẩu v.v. Tóm lại, cơ chế về thủ tục xuất khẩu của chúng ta hiện nay là khá thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu và chúng ta cần phải phát huy cơ chế này.
* Vấn đề thuế
Thuế là vấn đề rất nan giải trong chính sách quản lý của Việt Nam hiện nay. Hệ thống thuế xuất khẩu của Việt Nam hiện nay còn dàn trải, vừa phức tạp (thuế xuất khẩu có 11 mức : Từ 0% - 45% đánh vào hơn 60 nhóm hàng), vừa đơn giản (danh mục hàng chịu thuế thường chỉ có một cột và chỉ có một tỷ lệ áp dụng chung cho cả nhóm, chưa thể hiện rõ chính sách đối với từng nước, từng nhóm nước. Năm 1998 gạo đã được Chính phủ dành cho mức thuế ưu đãi là 0%, đây là một biện pháp tài chính tốt nhằm thúc đẩy xuất khẩu gạo, các mặt hàng chủ lực khác cũng vậy, chúng ta nên có một cơ chế về thuế thích hợp theo hướng :
Giảm thuế đối với các mặt hàng chủ lực như dầu thô, lạc, điều...
Giảm thuế đối với những mặt hàng mà nguyên liệu nhập từ nước ngoài và phải chịu thuế nhập khẩu .
Giảm thuế đối với những nhóm hàng được chế biến (giảm theo tỷ lệtinh chế ) .
Giảm thuế đối với những mặt hàng mà việc sản xuất nó kéo theo sự phát triển của các ngành sản xuất nội địa khác .
Theo luật thuế giá trị gia tăng được áp dụng từ ngày 01/01/1999 trong đó quy định mức thuế suất 0% đối với tất cả các loại hàng hoá xuất khẩu và các hàng hoá này còn được thoái trả thuế trị giá gia tăng ở các khâu trước. Đây thực sự là một biện pháp tài chính tốt và chúng ta hãy để thời gian trả lời tính thực thi của nó .
* Về thủ tục Hải quan
Trong những tháng đầu năm 1998, Tổng cục Hải quan đã có những cải cách nhằm đơn giản thủ tục hành chính. Theo ông Phan Văn Dĩnh - Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan thì đến nay 90% lượng hàng xuất khẩu được giải phóng trong ngày. Đây là một sự thay đổi mới của Tổng cục Hải quan. Phát huy những thành công này chúng ta tiếp tục đơn giản hoá thủ tục hành chính theo hướng :
Sắp xếp, tổ chức lại các địa điểm thông quan khép kín, đưa các điểm thông quan này đặt ngay tại từng cảng.
Phân luồng hàng hoá thành các luồng "xanh, vàng, đỏ" nhằm áp dụng chế độ ưu tiên đối với loại hàng cần được ưu tiên và hàng cần được kiểm tra chặt chẽ. Hàng qua luồng "xanh" (hàng được miễn giảm thuế) được giải phóng trong vòng 4 giờ, còn hàng qua luồng "vàng, đỏ" (hàng có thuế, thuế cao, gian lận thương mại ) sẽ được giải phóng trong vòng 8 giờ .
Công khai niêm yết tất cả các giấy tờ, thủ tục hải quan tại các cửa khẩu để hướng dẫn các doanh nghiệp .
Thành lập các dịch vụ môi giới khai thuê hải quan nhằm tránh gian lận thương mại .
Ngoài ra đối với các khu công nghiệp đòi hỏi Hải quan phải thuê đất để xây dựng địa điểm thông quan, Nhà nước phải sớm có quy chế để giải quyết tình trạng này một cách nhanh nhất. Bên cạnh đó Chính phủ phải thiết lập các đường dây "nóng" nhằm giảm tối đa sự nhũng nhiễu của Hải quan .
3.5. Chính sách tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là một vấn đề phức tạp và rất nhạy cảm. Mọi sự điều hòa hay can thiệp đến tỷ giá hối đoái đều liên quan hết sức chặt chẽ đến hoạt động kinh tế mà trước hết là hoạt động xuất nhập khẩu .
Sự phá giá của hàng loạt các đồng tiền ASEAN như đồng tiền Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines ... đã làm hàng hóa Việt Nam trở nên khó cạnh tranh hơn trên thương trường quốc tế. Vấn đề đặt ra ở đây là chúng ta có nên phá giá đồng tiền Việt Nam hay không khi mà có một thực tế là việc phá giá tiền tệ năm 1992 của Việt Nam từ 7.500 VND/USD xuống 14.000 VND/USD đã giúp cho Việt Nam lần đầu tiên đạt số dư cán cân thương mại tới 40 triệu USD ?
Chúng ta thừa nhận tác động tích cực đối với hoạt động xuất khẩuViệt Nam khi thực hiện chính sách phá giá tiền tệ, tuy nhiên nó cũng có những ảnh hưởng tiêu cực như sau :
Việc phá giá VND sẽ tạo ra một cú sốc làm mất đi độ tin cậy của dân chúng vào đồng nội tệ - cái mà chúng ta đã mất bao công sức mới có được. Việc chuyển dịch đồng loạt từ VND sang USD sẽ xảy ra , điều này sẽ làm rung rinh cả hệ thống ngân hàng, cầu về USD sẽ tăng lên cũng có nghĩa là VND sẽ càng bị giảm giá .
Để cân bằng lại thì phải tăng lãi suất tiền gửi VND để các chủ thể kinh tế không giữ USD dưới gối, mà sẵn sàng gửi tiết kiệm bằng VND. Người ta gọi đây là khoản tiền thưởng rủi ro phải trả cho một đồng tiền yếu. Nhưng các khoản tiền thưởng rủi ro càng lớn thì lãi suất tín dụng càng cao có nghĩa là tín dụng cho các doanh nghiệp càng đắt, sản xuất sẽ chững lại và lúc đó sẽ lấy gì để xuất khẩu ?
Giảm giá trị VND sẽ làm cho hàng nhập khẩu đắt lên, chúng ta biết rằng 2/3 nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu là từ nhập khẩu, điều này là cho giá của hàng xuất khẩu tăng lên. Không những thế giá của hàng hóa trong nước sẽ bị đẩy lên điều này làm gây ra ảnh hưởng tiêu cực cho sản xuất kinh doanh.
Tỷ giá tăng vọt trước mắt là cho gánh nặng nợ của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các nhà đầu tư tăng lên. Nhiều trường hợp lợi nhuận thu được từ lô hàng nhập khẩu không đủ bù đắp những thiệt hại về tỷ giá .
Hiện nay Ngân hàng nhà nước công bố tỷ giá chính thức là 11.800/USD và nới rộng biên độ tỷ giá mua bán USD cho các ngân hàng thương mại từ ± 5% lên ± 10%. Tỷ giá như vậy là thích hợp với điều kiện hiện nay, trường hợp hàng hóa Việt Nam có sức cạnh tranh yếu thì chúng ta nên phá giá nhẹ và từng bước một .
3.6. Chính sách về công nghệ
Đổi mới công nghệ có tác động tích cực tới cả việc cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu lẫn việc gia tăng khả năng cạnh tranh, gia tăng khối lượng xuất khẩu, do đó Chính phủ Việt Nam cần phảii chú ý đến chính sách công nghệ .
Chính sách này bao gồm hai phần : Phần mua bán chuyển giao công nghệ và phần tự tạo công nghệ trong nước .
* Phần mua bán chuyển và giao công nghệ :
Nhà nước cần qui định chi tiết cụ thể về việc mua bán, chuyển giao công nghệ. Những công nghệ này phải trên cơ sở phù hợp với nền kinh tế Việt Nam chứ không phải là công nghệ hiện đại nhất. Chính phủ cần tăng cường hợp tác quốc tế, tận dụng những thành quả của khoa học công nghệ thế giới, xây dựng một chiến lược công nghệ quốc gia hợp lý, duy trì mức chi cho phát triển khoa học- công nghệ không dưới 2% tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước .
* Về việc tự tạo công nghệ trong nước :
Việc cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tinh chế đòi hỏi công nghệ ngày càng cao mà việc mua bán những công nghệ này thì không dễ . Do đó Chính phủ cần phải có những biện pháp hỗ trợ cho phát triển khoa học công nghệ trong nước, có chính sách ưu đãi đối với các cán bộ khoa học, đổi mới hệ thống tổ chức quản lý hoạt động khoa học - công nghệ trong cả nước... dựa vào những công nghệ nhập chúng ta nên cải tiến, phát huy, nâng cao cho phù hợp với hoạt động sản xuất của Việt Nam .
3.7. Môi trường luật pháp
Để có thể phát triển kinh tế thì yêu cầu cần thiết là phải có một môi trường luật pháp ổn định. Hoạt động xuất khẩu cũng vậy, nó cũng cần hoạt động trong một hành lang pháp luật thông thoáng nhưng đủ chặt chẽ để cho các doanh nghiệp có thể đảm bảo được quyền lợi và nghĩa vụ của họ, có như vậy thì hoạt động xuất khẩu mới tồn tại và phát triển được. Mặc dù Chính phủ đã cố gắng trong việc tạo lập ra một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nhưng hệ thống này vẫn còn nhiều hạn chế, do đó Chính phủ cần hoàn thiện các văn bản luật và xử lý những nghiêm khắc những vi phạm trong hoạt động ngoại thương như tình trạng tranh giành bạn hàng, tình trạng vi phạm hợp đồng ...
3.8. Chiến lược thông tin * Đề cập trong mục 4
3.9. Thành lập các tổng công ty và các tập đoàn kinh doanh lớn *
3.10. Hợp tác liên Chính phủ, .tham gia vào các định chế quốc tế *
3.11. Chiến lược mở rộng thị trường *
3.12. Các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu khác
Ngoài những biện pháp hỗ trợ xuất khẩu kể trên, Chính phủ nên thực hiện các biện pháp hỗ trợ khác như giảm giá việc sử dụng các lợi íchcông cộng, ưu đãi điện năng, miễn giảm thuế đối với các yếu tố đầu vào, ưu tiên vay ngoại tệ, trợ cấp cho việc thành lập các công ty thương mại quốc tế, hiệp hội xuất khẩu, giảm dần các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch ...
3.13. Chiến lược con người
Theo sơ đồ 7 chúng ta thấy được tầm quan trọng của chiến lược con người, nó bao trùm lên cả chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu, lên toàn bộ các chiến lược và chính sách con trên cả góc độ vi mô và vĩ mô. Chiến lược con người luôn là một chiến lược quan trọng nhất bởi vì các mục tiêu được đặt ra là vì con người và chính con người là chủ thể thực hiện các mục tiêu này.
Khi chúng ta thực hiện chiến lược hướng ngoại thì trong quá trình thực hiện có rất nhiều mâu thuẫn nảy sinh trong đó có mâu thuẫn giữa yêu cầu hội nhập nhanh vào nền kinh tế thế giới , đẩy mạnh xuất khẩu và khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực trong nước. Chúng ta có 77 triệu dân, trong đó có 40 triệu lao động vào năm 2000, nhưng chúng ta vẫn thiếu lao động có trình độ cao. Trong đào tạo nguồn nhân lực đã bộc lộ những bất hợp lý, lạc hậu cả về chất lượng và cơ cấu ngành nghề đòi hỏi phải đào tạo lại một lượng lớn chuyên gia, kỹ sư và công nhân kỹ thuật. Trong giai đoạn hiện nay nhằm đáp ứng những đòi hỏi của hoạt động xuất nhập khẩu - Về yêu cầu chuyển đổi sang những mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao đòi hỏi Chính phủ phải đầu tư hơn nữa cho giáo dục, từ giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, đại học, sau đại học và các trung tâm dạy nghề cả về trí lực và thể lực... nhất là các cán bộ ngoại thương .
*
* *
Trên đây là những định hướng chiến lược nhằm đẩy mạnh xuất khẩu Việt Nam. Trong thời điểm hiện nay khi mà cơn bão tiền tệ vừa mới tàn phá các nước ASEAN, Đông á...ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, khi mà sức mua của các thị trường Châu á có nguy cơ giảm mạnh thì chiến lược thị trường lúc này trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Như vậy để thực hiện được tốt chiến lược này chúng ta cần phải làm gì ?
4. Chiến lược thị trường - Hạt nhân của chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu trong thời điểm hiện nay
Chiến lược thị trường bao gồm hai bộ phận chính : Chiến lược mở rộng và chiến lược duy trì thị trường .
4.1. Chiến lược mở rộng thị trường
ở đây chúng ta nhìn nhận và phân tích chiến lược mở rộng thị trường dưới góc độ vĩ mô tức là nghiên cứu công tác về thị trường nước ngoài.Hàng xuất khẩu Việt Nam gần đây tuy đã có những bước đi lớn song về thị trường thì còn khiêm tốn. Thị trường hàng xuất khẩu của Việt Nam không ổn định, không vững chắc, không có quan hệ lâu dài và gắn bó. Chúng ta chưa hình thành một hệ thống sách lược thị trường. Thị trường chủ yếu của Việt Nam là thị trường Châu á (chiếm 67,7% tổng kim ngạch xuất khẩu ), thị trường châu âu (21,50%), Châu úc (2,78%), châu phi (0,80%) và châu Mỹ (4,48%) (1) Số liệu năm 1997-Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 239 (1998)
.
Mục tiêu của chiến lược mở rộng thị trường hiện nay là phát triển các thị trường có sức mua dồi dào như thị trường Mỹ, EU, nối lại các thị trường truyền thống cũ như thị trường CHLB Nga, Đông Âu, Ukraina..., duy trì các thị trường truyền thống (ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc...) và tích cực tìm kiếm các thị trường mới như thị trường Châu úc , Mỹ La tinh, Trung Đông, Châu Phi..
Sơ đồ 8 : Chính sách thị trường nước ngoài
Thông tin / Chào hàng
Thị trường truyền thống : Nhật ...
Thị trường mới lạ : Phi, Mỹ la tinh
Thị trường cũ : Nga, Đông Âu
Thị trường có sức mualớn: Mỹ, EU
Chính sách với từng thị trường
Tham gia vào các
định chế
Hợp tác liên chính phủ
Các Trung tâm xúc tiến
Thương mại
Doanh nghiệp
tự tìm hiểu
Hội chợ trong
và ngoài nước
Các phương tiện
truyền thông, tư vấn ...
Phòng thương mại
và công nghiệp
Từ các đối tác
nước ngoài
Công tác thị trường
nước ngoài
Chiến lược con người
Nhìn vào Sơ đồ 8 chúng ta thấy rằng thông tin nằm ở vị trí trung tâm và giữ vai trò hạt nhân trong chính sách thị trường nước ngoài. Thật vậy nếu không có thông tin hoặc thông tin không đầy đủ chúng ta không thể nắm bắt được những nhu cầu luôn luôn thay đổi của thị trường thế giới, không thể nắm bắt được thị hiếu tiêu dùng, tập quán, thói quen, sở thích của họ, không thể có sức mạnh đàm phán, dễ bị ép cấp, ép giá, dẫn đến cạnh tranh lẫn nhau, buôn bán qua nhiều khâu trung gian ...và nhất là sẽ bỏ qua rất nhiều hợp đồng.....
Như vậy để nắm bắt được thông tin, được những nhu cầu củathị trường thế giới thì Chính phủ Việt Nam cần phải hỗ trợ gì cho công tácthị trường nước ngoài ?
Xét một cách tổng quát thì chúng ta phải làm tốt những khâu sau :
Thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại
Một kinh nghiệm quan trọng trong việc nắm bắt những thông tin về thị trường thế giới, đẩy mạnh xuất khẩu là thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại. Đây là các tổ chức phi lợi nhuận, có nhiệm vụ thu thập và nghiên cứu thông tin về thị trường ngoài nước, bố trí triển lãm, tham gia các hoạt động giao lưu quốc tế nhằm hỗ trợ phát triển cho các mặt hàng mới, ngành nghề sản xuất cụ thể, hỗ trợ việc thực hiện các chương trình nằm trong chính sách xuất khẩu của nhà nước và các tổ chức kinh tế đối ngoại .
Việt Nam nên có một tổ chức xúc tiến thương mại đủ mạnh để chuyên thực hiện các nhiệm vụ trên. Việc thành lập các tổ chức này sẽ cho phép mở rộng khả năng phối hợp giữa các Bộ, cơ quan cũng như khả năng cung cấp được thông tin và khả năng tham gia vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Kinh nghiệm thành lập và vận hành các tổ chức này Việt Nam có thể học từ người Nhật với JETRO, người Hàn Quốc với KOTRA, ngưới Đài Loan với CETRA. Có một điều cần bàn thêm là sự yếu kém trong công tác phối hợp giữa Việt Nam với các trung tâm xúc tiến này, JETRO đã có mặt ở Việt Nam với ba mục tiêu chính : Thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, đẩy mạnh đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam và tăng cường xuất khẩu các sản phẩm của Việt Nam sang Nhật Bản. Tuy nhiên sự hợp tác của Việt Nam với các tổ chức này mới chỉ dừng lại ở một số cuộc hội thảo chuyên đề. Nếu tổ chức xúc tiến thương mại của Việt Nam được thành lập thì khả năng hợp tác với các JETRO, CETRA, KOTRA là hoàn toàn khả thi .
Hiện nay có một giải pháp là thành lập một số trung tâm chào hàng tại nước ngoài . Do các doanh nghiệp thiếu kinh phí trong việc giới thiệu sản phẩm của mình nên họ có thể cùng hợp tác thành lập và phối hợp với Bộ, Sở Thương mại . Trong năm 1998, Sở Thương mại Hà nội đã xúc tiến thành lập một trung tâm chào hàng tại CHLB Nga với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp trong đó vốn ban đầu thành lập là do UBND Thành phố Hà nội cấp, nguồn vốn để duy trì trung tâm này do các doanh nghiệp cùng đóng góp. Đây là một giải pháp rất hay, tuy nhiên chúng ta cần phải có một chế độ tiền lương và hoa hồng xứng đáng cho những người làm công tác này, tránh tình trạng lương trả không đủ sống buộc họ phải tham gia các hoạt động khác ảnh hưởng tới tính hiệu quả của trung tâm .
Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào các hội chợ thương mại trong và ngoài nước
Tại nước ngoài, các hội chợ thương mại luôn được tổ chức như ở CHLB Đức hội chợ được tổ chức hàng tháng, ở từng bang với nhiều qui môkhác nhau. Tuy nhiên việc các doanh nghiệp Việt Nam sang tham gia vào hội chợ không đơn giản, chủ yếu là vấn đề kinh phí. Để tham gia một hội chợ tại CHLB Đức, chi phí trung bình cho mỗi người tham gia hội chợ là 5000USD, một chi phí mà chẳng phải doanh nghiệp nào cũng sẵn sàng đáp ứng, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ mặc dù họ cũng biết những khoản lợi nhuận sẽ mang lại từ những hợp đồng sau hội chợ. Trong thời điểm hiện nay thì các tổng công ty, các doanh nghiệp lớn phải lĩnh ấn tiên phong tham gia các hội chợ này. Chính phủ phải tạo điều kiện bằng cách kết hợp với các đại sứ quán liên hệ địa điểm, tổ chức nơi ăn, ở. ... Về thông tin, các loại phí, số liệu cụ thể, thủ tục xin triển lãm thương mại đều cần phải giải đáp qua văn phòng khu vực (văn phòng xúc tiến Thương mại quốc tế ) của Bộ Thương mại .
Với các cuộc triển lãm và hội chợ trong nước, nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đầy đủ. Từ đây họ có thể giới thiệu hàng hoá của mình với các công ty nước ngoài .
Tìm hiểu những thông tin thị trường từ các Đại sứ quán, Lãnh sự quán
Những người làm việc tại đại sứ quán, Lãnh sự quán nhất là các Tham tán thương mại hiểu khá rõ về tình hình kinh tế, tập quán, thị hiếu tiêu dùng... cũng như những thông tin về các công ty của nước sở tại. Do đó những ý kiến, kinh nghiệm của họ cho các doanh nghiệp Việt Nam rất quý. Chúng ta nên có những cuộc hội thảo giữa các tham tán thương mại, những người có kinh nghiệm với các doanh nghiệp để giúp họ nắm bắt được thông tin về thị trường và các đối tác kinh doanh. Tháng 4/1998 Sở Thương mại Hà nội đã tổ chức hai cuộc hội thảo về thị trường CHLB Nga và thị trường CHLB Đức và thực tế cho thấy là các doanh nghiệp đã có những thông tin rất hữu ích, thực tế qua hai cuộc hội thảo này .
Thông tin từ các phương tiện truyền thông
Thông tin từ các Phòng thương mại và công nghiệp
Thông tin từ các bạn hàng nước ngoài
Hỗ trợ cho các doanh nghiệp tự tìm hiểu thị trường
Ngoài những hỗ trợ về thủ tục, kinh phí, Chính phủ mà trực tiếp là Bộ Thương mại sẽ bố trí các Đại sứ quán giúp các doanh nghiệp Việt Nam đi tham quan các nước. Các doanh nghiệp hoặc đi một mình hoặc cùng với các Phái đoàn thương mại. Đại sứ quán và Lãnh sự quán cần giúp đỡ cho các doanh nghiệp gặp gỡ các nhà lãnh đạo ở từng địa phương hoặc các cuộc tiếp xúc khác, hỗ trợ cho các doanh nghiệp thực hiện các chiến dịch quảng cáo, họp báo cũng như các vấn đề về thông tin, phương tiện đi lại ...
* Ngoài những giải pháp kể trên thì chiến lược mở rộng thị trường nước ngoài còn phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ của Chính phủ Việt Nam trong việc tham gia vào các định chế, tổ chức quốc tế cũng như hợp tác với các nước và khu vực trên thế giới nhất là trong xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hóa hiện nay.
Chúng ta cần phải đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức, định chế như :
Các định chế thương mại quốc tế : WTO, APEC, Các công ước về lao động, sở hữu trí tuệ...
Các định chế và khu vực : EU, NAFTA, ASEAN.....
Các định chế về tài chính : IMF, WB, ADB, Các hiệp định ngân hàng..
Các hiệp định về hàng hoá : Cao su, cà phê, dầu mỏ ...
Các trung tâm giao dịch : Sở giao dịch hàng hoá London, NewYork, Sinhgapore ...
Các công hội vận tải biển, tổ chức hàng không quốc tế, viễn thông quốc tế, các mạng lưới và trung tâm dịch vụ tiêu thụ, các trung tâm tư vấn quốc tế ...
Việc tham gia và đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức và định chế trên sẽ giúp cho Việt Nam được hưởng những ưu đãi, tránh phân biệt, đối xử... Như việc tham gia vào WTO sẽ tranh thủ được những ưu đãi mà tổ chức này dành cho những nước kém phát triển hay việc tham gia vào APEC vào năm 1998 của Việt Nam là một bước tiến rất lớn. Là thành viên của APEC chúng ta sẽ có lợi trong việc tìm kiếm để đạt được qui chế tối huệ quốc (MFN) từ phía Mỹ, các thành viên của APEC sẽ giúp đỡ và mở rộng các loại hàng xuất khẩu của Việt Nam vào APEC, giúp Việt Nam điều chỉnh các tiêu chuẩn về việc cấp giấp phép, thủ tục hải quan, xuất xứ hàng hoá... Tháng 11/1997 việc Liên minh Châu âu (EU) nới rộng tăng thêm hạn ngạch hàng dệt may 30% cho Việt Nam cùng là thành công lớn chứng tỏ những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam cũng như những lợi ích đạt được từ việc hợp tác này.
Song song với việc tham gia và hợp tác trên, Chính phủ Việt Namcũng cần đẩy mạnh viêc hợp tác song phương với các quốc gia trên thế giới nhằm dành cho nhau những ưu đãi riêng đặc biệt là các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Đức và các nước bạn hàng cũ như CHLB Nga, Các nước Đông Âu.
4.2.Chiến lược duy trì thị trường
Cổ nhân có câu " Chiếm thành đã khó - giữ thành còn khó hơn ". Thật vậy, điều này rất đúng trong chiến lược thị trường ngay cả thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế .
Muốn duy trì được thị trường chúng ta phải tăng cường sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Chúng ta phải cạnh tranh về giá cả, chất lượng cũng như các dịch vụ sau bán hàng. Điều quan trọng là chúng ta phải biết giữ chữ tín với khách hàng. Thực tế chỉ ra rằng có nhiều doanh nghiệp Việt Nam thường thiếu chữ tín trong kinh doanh, làm ăn theo kiểu chụp giựt. Đây là những thuộc tính cố hữu có ảnh hưởng rất tiêu cực tới con mắt đánh giá Việt Nam của các bạn hàng nước ngoài. Ngoài ra chúng ta phải tính toán được những biến động của thị trường, đánh giá được các đối thủ cạnh tranh (theo quan điểm của Michel Porter) để có thể rút ra được những giải pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường quốc tế. Thực ra đây là những giải pháp chủ yếu thuộc về doanh nghiệp - không thuộc phạm vi của bài viết do đó chúng ta chỉ giới hạn trong việc nêu ra một cách khái quát .
Trong chiến lược cạnh tranh, việc thành lập các tổng công ty và các tập đoàn kinh doanh lớn để tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam cũng rất quan trọng. Trong điều kiện thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm quản lývà khả năng vươn tầm hoạt động ra thị trường thế giới của từng doanh nghiệp còn hạn chế, việc thành lập các tổng công ty sẽ giúp cho các doanh nghiệp trong cùng ngành liên kết để phát huy sức mạnh tổng hợp. Với tầm vóc (thế và lực ) đủ lớn thì khả năng cạnh tranh và xâm nhập vào thị trường nước ngoài đã và sẽ tăng lên đáng kể .
Cuối cùng bao trùm lên cả chiến lược thị trường vẫn là vấn đề con người. Việc tạo ra một đội ngũ cán bộ, chuyên gia ngoại thương giỏi có khả năng tiếp thị tốt, có chuyên môn, biết tìm ra những khe hở để lọt vào những thị trường rộng lớn hơn ... có bản lĩnh kinh doanh và chính trị vững vàng, dám nghĩ, dám làm. Đây chính là nguồn "vốn" quan trọng nhất, có khả năng sinh lời cao nhất nếu chúng ta tận dụng được nó có hiệu quả .
Kết luận
* * *
Đẩy mạnh xuất khẩu là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam đã được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định, là điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao, tăng thu nhập quốc dân, là tiền đề để thực hiện công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
Trong một thế giới mà sự phụ thuộc, gắn bó mật thiết với nhau trên tất cả các lĩnh vực ngày càng chặt chẽ. Sự ảnh hưởng của nền kinh tế này, khu vực này cũng tác động rất lớn đối với nền kinh tế của các quốc gia khác cũng như nền kinh tế thế giới. Sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan và kéo theo nó là sự khủng hoảng mang tính dây chuyền theo kiểu "Domino" tới các nước Châu á đã tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam nằm gần " tâm bão" và cũng chịu nhiều ảnh hưởng nhất là hoạt động xuất khẩu. Do đó tầm quan trọng của việc đề ra những phương hướng giải quyết, những biện pháp nhằm hỗ trợ xuất khẩu trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Một chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi phải có những nỗ lực của cả Chính phủ cũng như của các doanh nghiệp Việt nam, chiến lược này luôn phải gắn với chiến lược con người, phải phát huy nguồn tài nguyên nhân văn này thì mới có thể thành công được.
Với những định hướng nhằm đẩy mạnh xuất khẩu đã trình bày trong luận văn. Em hy vọng bài viết của mình sẽ đóng góp được phần nào trong việc đẩy mạnh xuất khẩu cũng như hoàn thiện chính sách xuất khẩu của Việt nam .
Do còn nhiều hạn chế về kinh nghiệm thực tế, về kiến thức nên chắc chắn bài viết còn nhiều sai sót. Một lần nữa em mong muốn sẽ nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo và của các bạn để bài viết có cơ hội hoàn thiện hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0496.doc