Những nghiên cứu của trường phái hệ thống thế giớiMỤC LỤC
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ .
1) Bối cảnh .
2) Nguyên nhân ra đời của trường phái .
II. THỪA KẾ LÝ THUYẾT .
1) Nền tảng lý thuyết .
2) Quan điểm .
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .
1) Trên nguyên tắc khoa học xã hội .
2) Trong lịch sử và khoa học xã hội .
3) Trên một đơn vị phân tích: Xã hội chống lại hệ thống lịch sử
4) Trên định nghĩa của chủ nghĩa tư bản
5) Trên sự tiến bộ .
IV. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC NƯỚC TRUNG GIAN .
1) Từ ngoại vi đến trung gian thế giới .
2) Từ vị trí trung gian lên vị trí trung tâm
3) Chú ý trong chiến lược xã hội hoá đất nước .
V. LỊCH SỬ CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI TBCN .
1) Trước năm 1945
2) Từ sau năm 1945 .
3) Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu .
VI. SO SÁNH TRƯỜNG PHÁI SỰ PHỤ THUỘC VÀ TRƯỜNG PHÁI HỆ THỐNG THẾ GIỚI
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ.
1. Bối cảnh:
Khi hợp chủng quốc Hoa Kỳ trở thành siêu cường quốc sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, những nhà nghiên cứu xã hội học của Mỹ được yêu cầu nghiên cứu về vấn đề phát triển của thế giới thứ 3. Đây chính là khởi điểm của trường phái hiện đại hóa - trường phái thống trị lĩnh vực phát triển trong suốt những năm 1960. Tuy nhiên sự thất bại của chương trình hiện đại hóa ở Mỹ La Tinh trong những năm 1960 đã dẫn tới sự ra đời của trường phái phụ thuộc hiện đại Marxist. Trường phái phụ thuộc này bị phê phán khắt khe, bởi trường phái hiện đại hóa luôn luôn chỉ trích vào sự hợp lý hóa của chủ nghĩa đế quốc. Từ Mỹ La Tinh trường phái Phụ Thuộc đã nhanh chóng lan rộng đến hợp chủng quốc Hoa Kỳ, bởi nó hoàn toàn phù hợp với tư tưởng chống chiến tranh của nhiều sinh viên người Mỹ.
Mặc dù trường phái Phụ Thuộc không thể phá hủy được trường phái Hiện Đại Hóa nhưng cũng không thể loại trừ quan điểm chống đối không chính đáng của mình. Sự đồng tồn tại của hai viễn cảnh trái ngược nhau trong lĩnh vực phát triển đã tạo nên trong những năm 1970 trở thành thời đại của trí tuệ.
2. Nguyên nhân ra đời của trường phái:
Vào giữa những năm 1970 cuộc chiến đấu về hệ tư tưởng giữa trường phái Hiện Đại Hóa và trường phái Phụ Thuộc bắt đầu lắng xuống. Cuộc tranh luận về sự phát triển ở thế giới thứ ba trở nên ít hệ tư tưởng và đầy ướt át. Một nhóm các nhà nghiên cứu cấp tiến dẫn đầu bởi Immanuel Wallerstein phát hiện ra rằng đã có rất nhiều hoạt động trong hệ kinh tế tư bản của thế giới không thể giải thích được trong phạm vi hạn chế của viễn cảnh phụ thuộc.
Thứ nhất, ở Đông Á (Nhật Bản, Đài Loan, Nam Triều Tiên, Hồng Kông và Singapore) vượt qua những tăng trưởng đáng kinh ngạc về kinh tế. Càng ngày việc khắc họa kỳ diệu nền kinh tế ở Đông Á càng trở nên khó khăn hơn như “chủ nghĩa đế quốc Thuộc địa” “sự phát triển Phụ thuộc” phụ thuộc mạnh mẽ bởi lẽ nền công nghiệp ở Đông Á đang thách thức nền kinh tế thượng đẳng Hoa Kỳ.
Thứ hai, có một sự khủng hoảng trong học thuyết kinh tế và chính trị giữa các nước XHCN, sự chia rẽ Trung Hoa, Xô Viết, sự thất bại của cuộc cách mạng văn hóa, sự trì trệ của nền kinh tế trong nước XHCN, sự mở cửa dần dần của các nước XHCN để đầu tư tư bản mang dấu hiệu đổ vỡ. Rất nhiều những nhà nghiên cứu cấp tiến bắt đàu cân nhắc lại liệu nền kinh tế tư bản có thực sự phù hợp để áp dụng ở các nước thế giới thứ 3.
Thứ ba, xuất hiện sự khủng hoảng trong tư bản chủ nghĩa Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam, các lệnh cấm vận dầu mỏ vào năm 1975 kết hợp với sự trì trệ, lạm phát trong cuối thập niên 70 ngày càng gia tăng. Quan điểm và chế độ bảo vệ nền công nghiệp trong nước, sồ tiền thiếu hụt chưa từng có của Chính Phủ và sự gia tăng thiếu sót trong thương mại vào nhưng năm 1980.
16 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1805 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những nghiên cứu của trường phái hệ thống thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên minh trong hệ thống giữa các tiểu bang. Liên minh mới nhất giữa OaSinhTon, DC Bắc Kinh, Tokyo không phải trong điều khoản của các dòng tư tưởng chiến tranh lạnh trong những năm 1950.
=> Với mục đích suy nghĩ lại những vấn đề quan trọng nổi lên trên toàn thế giới làm thay đổi nền kinh tế trong hai thập kỉ qua, Wallerstein và những người cộng sự đã phát triển một hệ thống triển vọng cho thế giới.
Immanuel Wallerstein được sinh ra vào năm 1930 tại New York, nơi ông đã lớn lên và đã dành tất cả thời gian của mình cho việc nghiên cứu. Ông gia nhập vào Đại học Columbia là một giảng viên đây từ 1958-1971.
Trường phái này sở hữu học thuyết “Sáng Tạo” tại trung tâm Fernarbraunrel về nghiên cứu nền kinh tế, tiến trình lịch sử và khai hóa văn minh dân tộc tại trường đại học công lập của Newyork Binghanton. Trung tâm Fernarbraunrel xuất bản lại cuốn tạp chí hằng ngày, thể hiện cho tính cứu vớt trong nghiên cứu kinh tế suốt một giai đoạn lịch sử dài, trên một không gian rộng lớn bao quát của phương pháp lịch sử xã hội và sự nhất thời tự nhiên của những học thuyết. Trung tâm cũng xuất bản những tạp chí nghiên cứu dài kỳ giống những bức thư có tin tức gửi kèm thường xuyên về các tỉnh trên các hoạt động nghiên cứu của mình. Thêm vào đó trường phái “Hệ thống thế giới” thường xuyên tổ chức các buổi gặp gỡ chuyên nghiệp hằng năm và xuất bản những cuốn tài liệu của những cuộc hội nghị này.
Theo Chirot và Hall hệ thống triển vọng thế giới này đã nắm bắt những ý tưởng của xã hội học đương đại và tác động sâu sắc một cách ấn tượng lên các điều lệ của xã hội học. Một tiêu đề nặng thành kiến kinh tế chính trị của hệ thống thế giới được xuất bản trong hiệp hội xã hội học Hoa Kỳ vào những năm 1970. Đã có một sự bắt đầu trong môn xã hội học. Bây giờ chúng đã mở rộng những ảnh hưởng của mình đến ngành nhân chủng học, lịch sử, khoa học chính trị và cả những quy hoạch đô thị. (Bergeen 1983; Bergquist 1984; Chase-Dum 1982b; Chirot 1976; Evans và cộng sự 1985; Friedman 1982; Goldfrank 1979; Hechter 1975; Henderson và Castells 1987; Hopkins và Wallerstein 1980,1982; Kaplan 1978; Moulder 1977; Nash 1981; Robinson 1981; Thompson 1983).
THỪA KẾ LÝ THUYẾT.
1. Nền tảng lý thuyết:
Trước khi trình bày các khái niệm quan trọng và lý thuyết của hệ thống thế giới; thì chúng ta xem xét hệ thống thế giới đã thừa kế lại những lý thuyết nào? Theo quan điểm của Kaye (1979), Wallerstein hệ thống quan điểm của thế giới đã rút ra trên hai nguồn chính: trí tuệ của dân chủ của tân chủ nghĩa Marxist văn học của sự phát triển và các trường phái Annales ở Pháp.
Wallerstein bắt đầu như một chuyên gia về Châu Phi. Việc nghiên cứu trước đó của ông là về vấn đề phát triển mà Châu Phi phải đối mặt sau độc lập (Wallerstein 1964,1967). Do vậy, trong giai đoạn đầu tiên của ông về xây dựng trên hệ thống quan điểm thế giới, Wallerstein đã ảnh hưởng mạnh mẽ của tân văn học của chủ nghĩa Marxist về sự phát triển.
Ông đã kết hợp nhiều khái niệm từ trường phái phụ thuộc như trao đổi bất bình đẳng, sự bóc lột của trung tâm đối với ngoại vi và trên thế giới-thị trường thế giới vào hệ thống các quan điểm. Wallerstein cũng được thông qua nhiều giáo lý cơ bản của trường phái phụ thuộc; chẳng hạn như tranh luận rằng “sự phong kiến” của các hình thức sản xuất với nhiều đặc tính của lịch sử người Mỹ không phải là kéo dài từ quá khứ mà là sản phẩm của mối quan hệ lịch sử Mỹ La Tinh với các nước trung tâm (Kaye 1979, tr.409). Trong thực tế Wallerstein (1979a, tr.53) đã bao gồm các khái niệm của Frank, Dos SanTos và Amin như là một phần thế giới của mình. Quan điểm hệ thống, trên cơ sở đó có những khái niệm chung một phê phán của cả hai trường phái hiện đại hóa và quan điểm phát triển của Marxist.
Tuy nhiên ở giai đoạn sau, khi Wallerstein đã phát triển đầy đủ quan điểm hệ thống thế giới của mình, dường như là ông đã vượt ra ngoài miền của tân chủ nghĩa Marxist. Sự phụ thuộc Marxist định hướng Wallerstein có thể được giải thích bởi ảnh hưởng mạnh mẽ của Fernand Braudel và trường phái Annales của Pháp về quan niệm của Wallerstein về hệ thống thế giới (Wallerstein 1978, 1979c, 1982, 1986, 1988a).
Trường phái Annales nổi lên như là một cuộc biểu tình chống lại sự phát triển của môn khoa học xã hội. Thông qua các tác phẩm trong thời gian dài lãnh đạo mình, Fernand Braudel, trường phái Annales tiên tiến đã có các quan điểm sau:
Trước tiên, Braudel tìm cách phát triển “tổng” lịch sử hay “toàn cầu” lịch sử. Nếu lịch sử không phụ thuộc vào ngành học khác, từ quan điểm lịch sử là tất cả. Braudel đã lập luận rằng các nhà sử học phải trực tiếp quan sát tới tổng thể của lĩnh vực xã hội. Wallerstein (1988a, tr.5) phát biểu: “Đây thực sự là tầm nhìn của lịch sử mà nổi lên trong (của ông Braudel) Địa Trung Hải, không phải nội dung để dừng lại ở bờ biển nội địa là…, bắt đầu ở vùng núi và mở rộng không chỉ cho các sa mạc nóng của châu Phi mà còn đến các sa mạc lạnh của Trung Quốc, chuỗi đảo một thế giới xa và về phía tây, nó kéo dài đến Mexico và Lima, đến Acapulco và La Mã, và trở về Trung Quốc”.
Thứ hai, Braudel lập luận “Để tổng hợp của lịch sử và khoa học xã hội thông qua một nhấn mạnh vào sự lâu dài”. Bằng cách đó lịch sử sẽ di chuyển từ tính độc đáo của các sự kiện và khoa học xã hội sẽ đạt được một quan điểm lịch sử dưới nhiều nỗ lực của mình để xây dựng lý thuyết lịch sử (Kaye 1979, tr.409). Một quá trình lịch sử diễn ra lâu dài, trong đó tất cả các thay đổi chậm, một lịch sử của sự lặp lại liên tục, thậm chí theo định kỳ các chu kỳ nó chỉ thông qua việc nghiên cứu lâu dài mà các thuộc thể, các lớp sâu nhất của đời sống xã hội và các cơ cấu liên tục của lịch sử được tiết lộ.
Thứ ba, Braudel là công cụ chuyển đổi trung tâm của mối quan tâm trong lịch sử từ các thời kì lịch sử của vấn đề theo định hướng lịch sử. Wallerstein(1988, tr.7) chỉ ra, công việc của Braudel được đặc trưng bởi “sự sẵn lòng của ông để hỏi lớn câu hỏi: Chủ nghĩa tư bản là gì? Sự thất bại của Pháp bao giờ mới hết để có thể thống trị Châu Âu? Làm thế nào Châu Âu phát triển để thống trị toàn cầu? Tại sao trung tâm của sự hấp dẫn kinh tế chuyển dịch từ vùng Địa Trung Hải đến Bắc Đại Tây Dương?... Đó là lo sợ của lịch sử, lịch sử trên quy mô lớn, trong đó có lịch sử chết”.
2. Quan điểm.
Đối với Wallerstein: “một hệ thống thế giới là một hệ thống xã hội, một trong đó có ranh giới, cấu trúc, các nhóm thành viên, các quy tắc của hợp pháp và sự gắn kết. Wallerstein cho rằng: một hệ thống thế giới là một cấu trúc đa văn hóa, có sự phân công lao động trong đó sản xuất và trao đổi hàng hóa cơ bản và nguyên vật liệu là cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của cư dân sống trong nó. Điều này nghĩa là phân công lao động đề cập đến các lực lượng và quan hệ sản xuất của nền kinh tế thế giới một cách toàn bộ và nó dẫn đến sự tồn tại của hai khu vực phụ thuộc lẫn nhau, tạm gọi là lõi và ngoại vi.
Đây là những khu vực có vị trí địa lý và văn hóa khác nhau, một tập trung vào lao động, và một tập trung trên nhiều vốn sản xuất. Cấu trúc quan trọng nhất của hệ thống hiện nay trên thế giới là một hệ thống điện giữa lõi và ngoại vi. Trong đó mạnh mẽ và giàu có "cốt lõi" thống trị xã hội và khai thác các yếu kém và sự nghèo nàn của các xã hội bị ngoại vi.
Công nghệ là một yếu tố trung tâm trong vị trí của một khu vực trong lõi hoặc ngoại vi. Nâng cao hoặc phát triển quốc gia lõi, và các nước phát triển ít là ở ngoại vi.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Đối với Wallerstein (1987, p.309). hệ thống thế giới quan điểm không chỉ là một lý thuyết nó còn là “một cuộc biểu tình chống lại các cách thức mà xã hội yêu cầu thông tin khoa học được cấu trúc cho tất cả chúng ta ngay từ đầu của nó vào giữa thế kỷ XIX”. Wallerstein chỉ trích chế độ hiện hành của các điều tra khoa học “đóng cửa nhanh hơn là mở ra” những câu hỏi, rất nhiều nghiên cứu về các vấn đề quan trọng được đặt ra nhưng không có khả năng giải thích. Để trình bày hợp lý các lựa chọn thay thế lịch sử thực sự nằm trước chúng ta. Wallerstein đã đưa ra năm giả định các yêu cầu thông tin khoa học xã hội truyền thống.
Có 5 phương pháp nghiên cứu:
+ Trên nguyên tắc khoa học xã hội.
+ Dựa trên lịch sử và khoa học xã hội.
+ Trên đơn vị phân tích: Hệ thống xã hội so với lịch sử.
+ Trên danh nghĩa của chủ nghĩa tư bản.
+ Trên sự tiến bộ.
1. Trên nguyên tắc khoa học xã hội:
Trong cuộc điều tra khoa học truyền thống, “khoa học xã hội được thành lập về số lượng các “kỷ luật”, đó là trí tuệ nhóm thống nhất của vật chất-đối tượng riêng biệt” theo Wallerstein . Các ngành học bao gồm nhân loại học, kinh tế, khoa học chính trị, xã hội học, và có thể địa lý, tâm lý học, và lịch sử. Các ngành có tổ chức với ranh giới, cấu trúc, và nhân sự để bảo vệ lợi ích tập thể của họ trong các trường đại học cũng như trong thế giới tìm kiếm lại. Dựa trên tiền đề này, những người ủng hộ các nghiên cứu liên ngành hoặc giảng dạy một số khu vực cho rằng vấn đề có thể được hưởng lợi từ một phương pháp kết hợp các quan điểm của nhiều ngành.
Nhưng câu hỏi Wallerstein liệu các môn thể tách rời khỏi nhau trong những nơi đầu tiên. Các khoa học xã hội khác nhau, Wallertein nhận xét rằng “có xuất hiện trong quá trình của thế kỷ XIX là một tập hợp các tên, và sau đó các sở, bằng cấp và các hiệp hội, năm 1945 (mặc dù thời gian trước đó) đã kết tinh thành các loại chúng ta sử dụng ngày nay”. Tất cả các bộ phận khoa học xã hội thực sự bắt nguồn tri thức từ các hệ tư tưởng tự do thống trị của thế kỷ XIX, trong đó lập luận rằng nhà nước (chính trị) và thị trường (kinh tế) được phân tích lĩnh vực riêng biệt, xã hội học mà được cho là để giải thích các hiện tượng bất hợp lý mà kinh tế và chính trị khoa học đã không thể chiếm, và rằng nhân loại học chuyên ngành trong nghiên cứu của người nguyên thủy vượt ra ngoài lĩnh vực của thế giới văn minh.
Tuy nhiên, theo Wallerstein "như thế giới thực, phát triển, đường dây liên hệ giữa nguyên thủy, văn minh, chính trị và kinh tế, mờ. Học thuật săn trộm đã trở thành phổ biến. Những kẻ săn trộm tục di chuyển hàng rào, tuy nhiên không có vi phạm chúng xuống. “Từ quan điểm hệ thống thế giới, Wallerstein (1987) bác bỏ ranh giới nhân tạo này kỷ luật vì nó là một rào cản đối với kiến thức hơn nữa chứ không phải là kích cầu để tạo ra nó.
Ba đấu trường coi là hành động của con người tập thể kinh tế, chính trị và xã hội, văn hóa xã hội không phải là đấu trường tự trị của hành động xã hội. Họ không có riêng “chuỗi lý luận”. Quan trọng hơn, các hạn chế, tùy chọn, quyết định, chỉ tiêu, và “tính hợp lý” là như vậy mà không có mô hình nghiên cứu hữu ích có thể cô lập “các yếu tố” theo các hạng mục kinh tế, chính trị và xã hội, và điều trị chỉ có một loại biến, những người khác mặc nhiên giữ không đổi. Chúng tôi đang tranh cãi rằng có một “bộ quy tắc” hay một “tập các ràng buộc” trong đó các cấu trúc khác nhau hoạt động. Trong ngắn hạn, các môn khác nhau của khoa học xã hội thực sự mà là một duy nhất.
2. Trong lịch sử và khoa học xã hội:
Trong truyền thống tìm hiểu khoa học “lịch sử là việc nghiên cứu, các giải thích, cụ thể và nó thực sự xảy ra trong quá khứ, khoa học xã hội là việc công bố về việc thiết lập các quy tắc phổ thông của con người, trên hành vi con người đã được giải thích” (Wallerstein1987, tr.313). Đây là phương thức phát triển nổi tiếng sự khác biệt giữa hệ tư tưởng và học thuyết một thần, và đó là lời kêu gọi kết hợp hai phương thức trong thế giới của nền học vấn. Sử gia đã nói để phục vụ khoa học xã hội bằng cách sản xuất sau, cùng với sự thiết lập dữ liệu rộng hơn, sâu hơn từ đó suy ra các quy tắc tổng quát. Mặt khác, các nhà khoa học đã nói để phục vụ lịch sử bằng cách cung cấp hợp lí, đã chứng minh tổng quát rằng cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự phát triển của một chuỗi các sự kiện.
Một lần nữa, Wallerstein hỏi “sự chia rẽ gọn gàng này” của người lao động trí tuệ với lịch sử tập trung vào phân tích cụ thể sự kết hợp trong khi phân tích khoa học xã hội kiểm tra sự tổng quát phổ thông. Giữa chuỗi và vũ trụ, giữa lịch sử và khoa học xã hội có ý nghĩa khác nhau phải không? Chúng là hai hoạt động hay là một? Wallerstein (1978, tr.314) giải thích rằng “Tất cả các mô tả đã có thời gian và… Chuỗi độc nhất chỉ miêu tả trong phạm trù không phải là duy nhất. Tất cả các khả năng ngôn ngữ thế giới so sánh giữa vũ trụ. Thực sự chúng ta không thể diễn tả một điểm, vì thế chúng ta không thể miêu tả một sự kiện duy nhất. Các bản vẽ mô tả có độ dày và phức tạp tổng quát”.
Để phản ứng lại sự chia rẽ giữa lịch sử và khoa học xã hội, hệ thống thế giới đã phát triển, cung cấp để tìm ra giá trị về các phương tiện truyền thông giữa các di tích lịch sử. Theo Wallerstein (1987, tr.315) các phương pháp của hệ thống thế giới thuộc viễn cảnh.
Để thực hiện phát triển trong hệ thống khung, thời gian đủ dài và không gian đủ lớn để chứa các logic chính phủ và xác định vùng lớn nhất về thực tế liên tục, trong khi đồng thời công nhận và tham gia vào các hệ thống khung có bắt đầu và kết thúc. Do đó, không được hiểu ánh sáng là vĩnh cửu. Điều ngụ ý này, sau đó có thể ở mọi góc nhìn cho cả hai khung (các nhịp điệu tuần hoàn của hệ thống), cái mà chúng tôi miêu tả muôn thuở, và cho các mô hình nội bộ chuyển đổi (các xu hướng phát triển đời thường của hệ thống) mà cuối sẽ mang tới sự chết chóc cho cả hệ thống mà chúng tôi miêu tả theo tuần tự. Điều này ngụ ý rằng nhiệm vụ là đơn lẻ không có sử gia và cũng không có nhà khoa học xã hội, nhưng chỉ là một di tích lịch sử. Nhà khoa học xã hội, người mà phân tích tổng hợp các văn bản pháp luật cụ thể của hệ thống và những sự nối tiếp đặc biệt mà hệ thống này đã đi qua.
3. Trên một đơn vị phân tích: Xã hội chống lại hệ thống lịch sử:
Trong truyền thống tìm hiểu khoa học xã hội, “loài người đã tổ chức trong sự tồn tại chúng tôi có thể gọi là xã hội, cái mà cấu thành các quy tắc xã hội cơ bản trong đó cuộc sống loài người là được sống” (Wallerstein 1987, tr.315).
Trong thế kỉ XIX, quan niệm về xã hội đã đối diện với nhà nước. Chìa khóa của trí tuệ được đưa ra, sau đó câu hỏi làm thế nào để điều khiển xã hội và nhà nước. Không như so sánh này, mặc dù nhà nước có thể quan sát và phân tích chính thực, trực tiếp thông qua các cơ sở giáo dục, xã hội được gọi tắt là phương thức. Và phong tục đại diện cho cái gì bền vững và sâu sắc hơn nhà nước.
Wallerstein trình bày rằng cũng ánh sáng thời gian trôi qua, chúng ta trở nên quen với suy nghĩ rằng các giới hạn của một xã hội và một nhà nước giống nhau và các nhà nước có chủ quyền cơ bản, cái mà cuộc sống xã hội được tiến hành. Trong truyền thống tìm hiểu khoa học xã hội, do đó nó đã thường xuyên được giả định rằng “chúng tôi sống dưới nhà nước”. Đó là một xã hội dưới nhà nước. Các nhà nước có lịch sử và truyền thống. Trên tất cả từ nhà nước là bình thường, nó là tình trạng bình thường nhà nước của phát triển chúng có nhiều ranh giới mà có yếu tố nội bộ và bên ngoài mà chúng có ở ngoài. Chúng độc lập như vậy đó, có các mục đích thống kê khác nhau, chúng có thể được so sánh (Wallerstein 1987, tr.316). Tuy nhiên, câu hỏi của Wallerstein điều trị này của xã hội nhà nước là một đơn vị phân tích. Ở đâu và khi nào các đơn vị đời sống trong xã hội này xảy ra mà còn tồn tại? Hệ thống thế giới tranh luận rằng các đơn vị cơ bản của sự phân tích nên được lịch sử hệ thống hơn là nhà nước xã hội. Theo Wallerstein, đây chỉ hơn một ngành ngữ nghĩa học thuật ngữ thay thế bởi vì hệ thống di tích lịch sử giải thoát chúng ta khỏi trung tâm rằng xã hội đã giành lại của nó liên kết với nhà nước và do đó các sự giả định trước về ở đâu và khi nào. Hệ thống lịch sử ánh sáng là một hệ thống nằm dưới một đơn vị lịch sử của khoa học xã hội. Tổ chức là hệ thống và các di tích lịch sử.
Wallerstein đã đưa tới một tập hợp các giả thuyết liên quan dẫn đến bản chất của hệ thống lịch sử này. Việc xây dựng ranh giới của một hệ thống di tích lịch sử là những cái ở trong hệ thống và con người ở trong nó thường xuyên được tái bản bằng phương tiện của một số loại tiếp tục phân chia lao động. Trong lịch sử loài người, Wallerstein tranh luận có ba hình thức của hệ thống di tích lịch sử: hệ thống nhỏ, hệ thống đế quốc và nền kinh tế thế giới.
Trong thời đại nguyên thủy đã có hệ thống nhỏ trong không gian và thời gian ngắn (cuộc đời của 6 thế hệ), các hệ thống nhỏ được đánh giá cao đồng nhất về văn hóa, cơ cấu chính phủ và họ phân ra khi họ trở nên quá lớn. Logic cơ bản là một của những trao đổi lẫn nhau.
Trong giai đoạn 800 năm trước CN tới 1500 sau CN, các đế quốc được chi phối dưới hình thức hệ thống lịch sử. Đế quốc trên thế giới được cấu trúc chính trị rộng lớn bao quanh một loạt các mô hình văn hóa logic cơ bản đã được khai thác của đồ cống từ các địa phương tự quản lý trực tiếp sản xuất thông qua để trở lên trung tâm và phân phối lại vào một mạng của các cán bộ.
Khoảng 1500 sau CN, các nhà tư bản nền kinh tế thế giới được sinh ra. Những nền kinh tế thế giới đã rộng lớn không đồng đều của chuỗi sản xuất thích hợp khảo sát tỉ mỉ cơ cấu của nhiều cơ cấu chính trị logic cơ bản đã được tích lũy bổ sung và được phân phối bất bình đẳng của những có khả năng đạt được độc quyền trên thị trường. Những lập luận nội bộ của những nhà tư bản thế giới sau sự mở ra vỏ bọc kinh tế toàn cầu đã làm cho những nền kinh tế đơn lẻ và những nền kinh tế đế quốc trên thế giới say sưa. Sau thời gian muộn màng, những năm đầu của thế kỉ XIX tồn tại một cực trên thế giới.
4. Trên định nghĩa của chủ nghĩa tư bản:
Nghiên cứu về khoa học xã hội truyền thống, “chủ nghĩa tư bản là một hệ thống dựa vào sự cạnh tranh tự do giữa những người sản xuất làm việc với nhưng mặt hàng tự do, “tự do” có nghĩa là tính săn sàng bán và mua hàng trên một thị trường” (Wallerstein1987, tr.318) định nghĩa này được thừa nhận bởi đa số những người tự do và những người theo chủ nghĩa Macxist đang làm chủ nước Anh sau cách mạng công nghiệp nổ ra và nó được coi như là một khuynh mẫu tư bản. Trong mô hình nước Anh CNTB cạnh tranh, những công nhân vô sản (nhưng công nhân thị thành không có đất, không có công cụ thực chất) nỗ lực trong các nhà máy của tư sản, những chủ nhân mua sức lao động và trả lương cho những công nhân tự do.
Tuy nhiên Walllerstein (1987, tr.319-320) lại tranh luận về điều đó “tình trạng những công nhân làm việc tự do những xí nghiệp và tiền lương giống như vị thánh trong thế giới hiện đại”. Phải chăng đây là sự thật, nếu suy diễn rằng khuôn mẫu tư bản để ở ngoài thì không phù hợp với thực tế của thế giới tư bản, tất cả những nhà nghiên cứu cũng phải ngạc nhiên về phổ biến của tất cả những khuôn mẫu tư bản. Trong những từ khác: Nếu chúng ta nhận thấy hệ thống có vẻ chứa những vực rộng của tiền lương và không có lương lao động.
Wallerstein tranh luận về: “Phải chăng các nhà nghiên cứu đã chấp nhận định nghĩa mới này của chủ nghĩa tư bản, cần phải đặt ra một câu hỏi mới, như sự tìm kiếm những điều bền vững của sự kết hợp đặc biệt cũng như kì thi của những sức mạnh nằm bên dưới mà ta có thể thấy đỏi được trong thời gian như vậy”. Những sự dị thường bây giờ không phải là những ngoại lệ. Nó sẽ được phân tích, như vậy nó đảo ngược với tâm lí học của chủ nghĩa truyền thống công thức khoa học.
5. Trên sự tiến bộ:
Trong xã hội truyền thống các nhà kinh tế chính trị đã khám phá và tìm hiểu “con người là tiến bộ lịch sử là điều chắc chắn” (Wallerstein 1987, tr.322) nó dường như có hai sự tiến hóa lớn. Các nhà lí luận và những người theo chủ nghĩa Marxist đã chia sẻ nhận định cơ bản của sự tiến bộ (Wallerstein 1987, tr.322). Tuy nhiên trên hệ thống phân tích muốn đổi mới ý tưởng tiến bộ từ các trạng thái thành một vệt dài các trạng thái. Và mở nó lên như là bước chuyển biến có thể có sự cải biến mạnh dạn trong hệ thống lịch sử (mà chúng tôi có những cuộc tranh luận đánh giá các tiêu chí) không phải cho rằng các xu hướng đều đi xuống hoặc đơn giản là không bằng phẳng và vô địch. Có thể cá sự nhận định này đã được đem ra tranh luận phân tích và ngay lập tức lịch sử hệ thống đã mở ra nhiều trường hợp về ngày tháng. Tất cả các hệ thống lịch sử đều có mở đầu và kết thúc mà trong thời gian đó đã xảy ra một quá trình liên tục (trong không gian và thời gian) đó là di tích lịch sử các quốc gia.
Cuối cùng Wallerstein kết luận rằng “Chúng ta đang sống trong lâu đài của thời đại chuyển đổi trái ngược với nền kinh tế tư bản đã làm cho nền kinh tế thế giới tiếp tục thay đổi các máy móc thiết bị”. Có như vậy ta gọi là cuộc sống trong công cuộc xây dựng xã hội. Khoa học cảm thấy thoải mái với những bất chắc của sự chuyển đổi, những thứ đó đã góp phần vào việc thay đổi xã hội. Soi sáng những lựa chọn mà không có khiếu nại đến tệ hại của niềm tin không thể tránh khỏi trong sự thắng lợi lớn.
Trang thiết bị với một phương pháp mới trên thế giới một loạt các trường học đã phát triển lên những con người mới mà từ đó giải quyết các vấn đề quan trọng trong lĩnh vực khoa học. Sự tài giỏi sáng tạo của các khái niệm về lao động, cũng như làm thế nào trên thế giới cung cấp và giải thích được lịch sử của các nền kinh tế tư bản trên thế giới qua bốn thế kỉ.
Sự phát triển của các quốc gia. Wallerstein(1979b) đã phê bình hai sự phát triển của một hệ thống. Ông tranh luận rằng trên thế giới như vậy là quá phức tạp. Để phân loại hai sự phát trển này với cốt lõi và phạm vi rộng lớn của nó. Có rất nhiều quốc gia không phù hợp về điều kiện bên trong và điều kiện bên ngoài. Wallerstein (1979b, tr.69-70) tranh luận rằng hiện tại chủ nghĩa tư bản thế giới cần có một hệ thống quản lí khu vực do hai lí do.
Thứ nhất, thế giới bị phân cực với một hệ thống nhỏ, tình trạng thiếu một khu vực rộng lớn vì vậy sẽ dẫn đến tình trạng tan vỡ có nghĩa là các cuộc khủng hoảng kinh tế chính trị được xác định sẽ tạo ra sự thay đổi giữa các ngành. Trước hết phải giảm thấp chi tiêu so với khu vực không nên phát triển theo đường tắt sẽ gây tồi tệ hơn.
Thứ hai, là để phản ứng lại sự từ chối trong so sánh chi phí các nước cốt lõi. Những cá nhân đầu tư vốn xuất phải có khả năng chuyển vốn từ một mặt hàng độc quyền trong khu vực. Nếu tăng cường tìm hiểu thị trường để tồn tại những ảnh hưởng của sự thay đổi tuần hoàn của thế giới. Như Wallerstein (1979b) giải thích có phải là lĩnh vực có khả năng có lợi nhuận trong sản lượng năng suất bị sức ép của các ngành có thế lực, các lĩnh vực đang được thu hút đầu tư. Dẫn đến cuộc tư bản hóa và hệ thống kinh tế sẽ bị khủng hoảng vì nó sẽ là cuộc khủng hoảng của nền kinh tế đi đầu trong Wallerstein đã trình bày chính xác nhất về sự thay đổi của các tiểu bang. Có hai sự khác biệt:
Đầu tiên, nếu trao đổi hàng hóa trong nước và ngoài nước giữa các nước tư bản chủ nghĩa, lượng sản phẩm lúc này sẽ nhiều lên, kết quả sau đó là “không ngang nhau về trao đổi hàng hóa” lúc này một công nhân sẽ làm việc nhiều hơn để có sản phẩm trong hệ thống này sự trao đổi sẽ không cân bằng (Wallerstein1979, tr71-72).
Sự phát triển của các quốc gia trong hoàn cảnh bế tắc thì phải xuất khẩu các loại sản phẩm từ đó sẽ tạo việc làm và lợi nhuận sẽ tăng cao. Hơn nữa cả hai hướng kinh doanh và thương mại đều liên quan đến thời đại với quy mô rộng lớn. Nó thường là một trong những lợi ích của sự phát triển kinh tế bên ngoài để giảm bớt thương mại hóa. Nếu ta biết cách cân bằng các điều kiện đó và biết cách tổng hợp những lợi ích nhỏ lẻ thì nó sẽ cho ta một tỉ lệ phần trăm ngày càng lớn của thị trường cho các nhà sản xuất. Điều này dẫn tới sự phân biệt các nền kinh tế của các quốc gia, nghĩa là nhà nước có một quyết định và ngay lập tức quan tâm kiểm soát thị trường trong nước. Kinh tế chính trị hầu hết nhìn thấy được đến tác động của thị trường đến các tiểu bang chủ yếu là tình trạng thay đổi trong nền kinh tế tư bản, đó là một sự đột phá và là sự tăng năng lực đã của một nền kinh tế nhà nước đến khi mà nó có thể bồi thường cho các thành viên nòng cốt.
ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC NƯỚC TRUNG GIAN.
1. Từ ngoại vi đến trung gian thế giới:
Quá trình di chuyển của một quốc gia từ ngoại vi đến tình trạng thu hút sự chú ý nhất định trong sự phát triển văn học, mặc dù nó thường được đối sử như là một câu hỏi của việc chu chuyển từ chu vi đến lõi. Tại sao một số nước ngoại vi có khả năng để đạt được tình trạng nửa thuộc địa trong khi những nước khác thì không có khả năng làm được như vậy. Theo như Wallerstein, thành công trong chuyển động từ chu vi đến trung gian phụ thuộc vào các quốc gia có thể áp dụng một trong những chiến lược sau đây của sự phát triển: Nắm bắt cơ hội, sự thúc đẩy của lời mời (thu hút vốn đầu tư nước ngoài), hay sự tự lực.
Bằng việc nắm bắt cơ hội Wallerstein chuyển tới hoạt động điều đó. Tạo những khoảnh khắc của sự làm giảm bớt thị trường thế giới, nơi mà thông thương mức giá mức độ chính xuất khẩu từ các quốc gia ngoại vi đưa ra thấp hơn so với mức giá của nhà công nghiệp có các khoa học kĩ thuật tiên tiến, xuất khẩu từ các nước tiên tiến, ngoại vi của các chính phủ tiểu bang đang đối mặt với sự cân bằng về vấn đề viện trợ, một quốc gia tỷ lệ thất nghiệp tăng là một quốc gia có thu nhập thấp. Một trong những giải pháp là “thay thế nhập khẩu” mà hướng tới là làm giảm nhẹ những khó khăn này. Đó là một vấn đề của việc “nắm bắt cơ hội”, bởi vì nó bao gồm hoạt động trạng thái hiếu chiến làm yếu đi vị trí chính trị những nước cố lõi và làm yếu đi vị trí địa lý, kinh tế của những đối thủ nội địa khác.
Tuy nhiên, chỉ một cách tương đối mạnh mẽ các quốc gia ngoại vi như các tiểu bang của Mỹ La Tinh với một số cơ sở công nghiệp nhỏ đã được thành lập sẽ có khả năng mở rộng các cơ sở tại thời điểm thuận lợi. Những nước ngoại vi tương đối yếu thì không thể làm như vậy. Ngoài ra, chiến lược của việc mắm bắt cơ hội có một số vấn đề trong xây dựng. Thay vì nhập khẩu hàng công nghiệp nước ngoài, tiềm năng của các quốc gia nửa thuộc địa, các quốc gia nước ngoài đang nhập khẩu máy móc và công nghệ. Như vậy, thực chất thay thế “sự phụ thuộc kỹ thuật học” cho sản xuất sự phụ thuộc. Thị trường nội bộ không thể lớn lên, phát triển lên đủ nhanh chóng để hấp thụ các sản phẩm trong nước do thực tế là những địa chủ lớn kiên quyết phản đối đối với quá trình người vô sản trong khu vực nông nghiệp.
Chiến lược thứ hai lá sự phát triển bởi lời mời (thu hút vốn đầu tư nước ngoài). Wallerstein(1979b, tr.80) quan sát: Đầu tư trực tiếp ngang qua biên giới lớn lên một phần do sự ra đời của công nghiệp non trẻ chủ nghĩa người chủ trương bảo hộ và một phần vì hạn chế chính trị tới sự tăng trưởng của các doanh nghiệp trong nước cốt lõi. Các tập đoàn đa quốc một cách nhanh chóng nhận ra rằng vận hành trong sự hợp tác với trạng thái những chế độ quan liêu không sắp đặt những vấn đề thực sự. Những chính phủ quốc dân này cho người nghèo phần nhất vừa dưới dạng cái mà họ phải đưa ra vừa trong khả năng ảnh hưởng đến tình hình tài chính của các nhà đầu tư bên ngoài của họ.
Tiềm năng của các nước cho nhà đầu tư đa quốc gia có nhưng lợi thế phân biệt trong việc có nó với sự có mặt của đầu tư nước ngoài trong Bờ Biển Ngà. Ví dụ: “Trong nhưng miền quê truyền thống, được thay đổi vào trong những người trồng cây được trở nên giàu có hơn như có những công nhân lao động nhập cư từ trên VOLTA người mà đã ra khỏi một hoàn cảnh nghèo truyền thống, ứ đọng, tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn hạn chế trong so sánh với những gì nó đã có trong các trung tâm đô thị lớn của các quốc gia châu phi già cũ”.
Wallerstain ghi chú rằng chiến lược của sự thúc đẩy bởi lời mời thì khác với chiến lược của việc mắn bắt cơ hội. Được thực hiện trong sự hợp tác thân thiện hơn với những nhà tư bản ngoài, sự thúc đẩy bởi lời mời hơn một hiện tượng nhưng khoảnh khắc của sự mở rộng so với nhưng khoảnh khắc của sự làm giảm bớt trong kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, Wallerstein (1979b, tr.81) tranh luận rằng “thực vậy phát triển cộng tác như vậy tự mình sẵn sàng hy sinh cốt lõi của đất nước khi tự mình trải qua bất kì khó khăn kinh tế nào. Thứ hai, đó là sẵn có cho nhưng nước với ít sự phát triển công nghiệp trong nước, như sau đó nó tồn tại ở một mức độ thấp hơn thay thế nhập khẩu các ngành công nghiệp nặng được biết đến ở Brazil hay Nam Phi”.
Từ vị trí trung gian lên vị trí trung tâm:
Làm thế nào mà từ một nước lạc hậu như Anh, Mỹ, Đức lại có thể trở thành những cường quốc? Theo như Wallerstein mấu chốt của vấn đề này là đất nước phải có một thị trường đủ lớn, để tiếp nhận những công nghệ tiên tiến vào sản xuất tạo ra những sản phẩm có giá thành thấp hơn những sản phẫm cùng loại đương thời. Ban đầu cần mở rộng thị trường cho những sản phẩm quốc nội theo các con đường sau:
+ Mở rộng ranh giới chính trị bằng việc thống nhất với các nước láng giềng mà thực chất là xâm lược từ đó mở rộng được thị trường tiêu thụ.
+ Tăng giá hàng nhập khẩu bằng thuế quan, hàng rào nhập khẩu, hạn ngạch, dẫn tới thu hút một sự chia rẽ rộng hơn của thị trường tiên thụ.
+ Hạ giá thành sản phẩm bằng việc giảm chi phí cho sản phẩm quốc nội, gián tiếp dẫn đến tăng giá hàng nhập khẩu, nó có liên quan tới các chế tài bao cấp. Giá của hàng hoá có thể thấp hơn bằng cách giảm lương công nhân, nhưng chính sách này làm tăng trao đổi ngoại thương, sẽ không mạo hiểm như ở trong nước.
+ Tăng mức tiêu dùng trong nước, bởi tiêu dùng mạnh hơn bằng việc tăng lương. Tuy vậy, nó sẽ tăng tiêu dùng nội địa ít mạo hiểm hơn buôn bán ngoại thương.
+ Tuỳ thuộc vào các bang hoặc các cơ quan xã hội, nắm bắt thị hiếu của thị trường tiêu thụ nội địa thông qua ý thức hộ và tuyên truyền.
Rõ ràng là có nhiều cách để đạt được một sự kết hợp chỉnh với các chính sách trên. Chẳng hạn, chiến lược mà nước Anh đã dùng trong thế kỉ XVI là chiến lược “tuyến tiền lương chung”, liên quan tới một sự kết hợp của ngành: Công nghiệp dệt nông thôn, với một quá trình của cải tiến nông nghiệp của đất trồng trọt trong các đơn vị kích cỡ trung gian. Do đó, đồng thời chia các tầng lớp cố đất canh tác cố định - hay tiểu nông và tầng lớp không đất - hay những người du mục, người di cư sẽ là nguồn lao động cho công nghiệp dệt, trừ việc một quyết định thận trọng thúc đẩy hình thành thị trường tiêu thụ mặt hàng giá rẻ (công nghiệp dệt mới). Được bán cho tầng lớp thợ thủ công trung lưu, tuy không giàu có như dân thành thị nhưng khấm khá hơn tầng lớp bần nông. Điều này sẽ làm mở rộng cách cửa kinh tế thế giới (Wallerstein 1979b, tr.85-86).
Một sự kết hợp hoàn hoả khác là mức lương công nhân cao đảm nhận bởi các cơ quan có trách nhiệm ở Mỹ, Canada, Úc, New-zeland. Trong mô hình này, mức tiền lương cao được thực hiện trước quá trình công nghiệp hoá và khoảng cách tự nhiên từ các trung tâm thế giới. Việc bảo vệ tự nhiên giá cước vận chuyển cao của việc nhập khẩu.
Việc phân phối sản phẩm của Liên Xô trước đây là một ví dụ của vấn đề này. Trở lại thế kỉ XX, Nga là một trong năm nước công nghiệp hàng đầu thế giới. Liên Xô trả lương công nhân công nghiệp ở mức trung gian và lương công nhân nông thôn ở mức thấp nên giảm chi phí cho việc dư thừa công nhân thành thị. Điều cuối cùng là Liên Xô là một nước rất rộng lớn, đã có khả năng duy trì một kỉ nguyên của chủ quyền tuyệt đối như nó đã xảy ra trong lịch sử chúng ta. Tuy nhiên, nếu Liên Bang Xô Viết với một nền công nghiệp vững mạnh. Cơ sở nó kiểm soát bền vững thông qua thương mại và tiền lương trong nước, kích cỡ khổng lồ chỉ vừa đủ làm nó trở nên trung tâm kinh tế thế giới. Wallerstein cân nhắc về điều hi vọng đó cho các nước như Brazil và Chilê để vận hành các quy luật trong kinh tế thế giới.
3. Chú ý trong chiến lược xã hội hoá đất nước:
Trong ví dụ của Liên Bang Xô Viết, điều thú vị là lưu ý rằng trước 1979 đã thực sự đề xuất một luận điểm kích thích là “Thành lập một hệ thống của tình trạng quyền sở hữu cùng kinh tế tư bản thế giới, không có nghĩa là củng cố nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Từ hệ thống tư bản chủ nghĩa là đề xuất của sở hữu mà bán kiếm lời, là việc một người sở hữu là một nhóm (cá thể/cá nhân) như các công ty huy động vốn mà sở hữu chung tất cả có nghĩa của sự sản xuất chỉ đơn thuần là một công ty tư bản chứng khoán hoặc tình trạng cao nhất, hơn một cá nhân làm những điều không cần thiết. Tình trạng miễn là nó vẫn còn là một người tham gia trong thị trường của kinh tế tư bản thế giới. Trong trích dẫn, Wallerstin phản đối tình trạng quyền sở hữu không phải là chủ nghĩa xã hội, nó chỉ đơn thuần là sự đa dạng của chủ nghĩa trọng thương cổ điển của các nước đang cố đạt được thay đổi đi lên trong thế giới Tư Bản Chủ Nghĩa. Wallerstein (1979b, tr.910) phản đối bởi tình trạng đồng nhất quyền sở hữu với Chủ Nghĩa Xã Hội, các nhà nghiên cứu đã góp phần cho một ngăn cách hệ tư tưởng mà làm mờ nhạt một sự thật là: tình trạng quyền sở hữu quốc gia có thực tế là thấp hơn chuẩn mực rằng hơn các nước khác mà có các công ty tư chủ chốt và thêm vào đó sự bất bình đẳng xã hội mà các nước Xã Hội Chủ Nghĩa vẫn còn là một vấn đề lớn.
=> Vậy chủ nghĩa xã hội là gì?
Theo như Wallerstein thì: Một chính phủ Xã Hội Chủ Nghĩa khi đến sẽ không giống bất kì điều gì như Liên Xô, Trung Quốc, Chilê hoặc Tanzania ngày hôm nay. Sản xuất cho tiêu dùng mà không cho lợi nhuận và các quyết định lí trí dựa trên giá trị có lợi của biến đổi tiêu dùng là một một phương thức khác của sản xuất, một điều mà có thể chỉ được thành lập cùng sự phân chia đơn lẻ của lao động mà đó là kinh tế thế giới mà một trong số đó yêu cầu một chính phủ đơn lập.
Từ viễn cảch hệ thống thế giới, Wallerstein từ đó đóng góp vào việc trình bày một khái niệm mới của tình trạng nửa thuộc địa và bởi nhận ra tình trạng chủ nghĩa Xã Hội đương thời hiện này như chỉ là các nước lạc hậu. “Cố gắng” trở thành giàu mạnh trong kinh tế Tư Bản Chủ Nghĩa. Rõ ràng là học thuyết mới này gọi là một lịch sử kinh tế tư bản thế giới của bốn thế kỉ qua.
LỊCH SỬ NỀN KINH TẾ TƯ BẢN THẾ GIỚI.
Wallertein có một vài bàn luận về nền kinh tế tư bản thế giới trong một vài tác phẩm của ông, những tác phẩm gần đây nhất liên quan đến vấn đề này là những quan điểm mới mẻ về một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong phát triển Lodestar hay Illusion, Wallertein phân chia sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm hai giai đoạn: từ thế kỷ XVI đến những năm 1945 và từ những năm 1945 đến nay. Trong những nghiên cứu giống nhau, ông đã đưa ra những giải pháp chống lại những cơn khủng hoảng kinh tế trong thời đại có sự biển đổi của nền kinh tế tư bản.
1. Trước năm 1945:
Theo Wallertein nền kinh tế tư bản bắt đầu vào thế kỷ thứ XVI. Nền kinh tế tư bản này chiếm lĩnh một phần trong sản xuất. Wallertein gọi đây là dây truyền sản xuất. Giá trị thặng dư đã được bòn rút từ dây truyền sản xuất này. Có sự mất cân đối giữa một số vùng, những vùng ngoại biên là những vùng mà giá trị thặng dư không được phân bổ tới.
Lời giải thích nào cho sự khác biệt về kinh tế ở những vùng khác nhau?
Wallertein giải thích những nước chủ có thể bòn rút được phần giá trị thặng dư từ các quốc gia thuộc địa vì họ độc quyền về dây truyền sản xuất đã trở thành những lợi thế của họ, những lợi thế về đột phá công nghệ hay tổ chức.
Vào những năm 1600 các vùng biên mới nổi ở trung tâm Đông Âu so với các vùng biên ở Tây Bắc Âu có các điểm sau:
- Tiêu dùng trên đầu người được ưa chuộng.
- Quá trình sản xuất trong nước chủ yếu dựa vào lao động bị bắt buộc.
- Cấu trúc nhà nước ít tập trung bên trong và yếu hơn bên ngoài.
Wallertein cho rằng sự so sánh này đặc biệt đúng vào năm 1600 nhưng không đúng vào 1450, những sự khác biệt này là kết quả của nền kinh tế TBCN. Tuy nhiên ông đi xa hơn cho rằng một vùng địa lý nào chỉ có một vai trò gì đó trong nền kinh tế thế giới là không đúng dù các nước trung tâm có lợi thế độc quyền gì đi nữa thì nó cũng dễ bị mất đi. Lợi thế có thể bị ảnh hưởng từ nội bộ trong nước hoặc giữa các nước. Một số nước qua thời gian cũng có thể bắt trước lợi thế về công nghệ tổ chức theo một cách nào đó có thể làm yếu những hạn chế thị trường do chính trị áp đặt. Về mặt này ông cho rằng mỗi khi một độc quyền mới bị mất đi hình mẫu địa lý thế giới lại thay đổi về tổ chức điều đó dẫn đến sự biến động trong nền kinh tế thế giới. Ví dụ: “sự mất đi độc quyền về công nghệ của Mỹ làm nảy sinh sự lên ngôi của Nhật Bản”.
Sát nhập là kết quả của sự sụp đổ độc quyền nguyên nhân gây ra tình trạng suy thoái kinh tế thế giới. Để khôi phục lại lợi nhuận trên pham vi toàn cầu nền kinh tế và đảm bảo sự phân phối không công bằng, cần phải:
Giảm chi phí sản xuất bằng giảm chi phí tiền lương.
Tạo sản phẩm độc quyền mới bằng cách đổi mới.
Mở rộng nhu cầu bằng cách vô sản hóa lực lượng sản xuất.
Việc mở rộng về kinh tế là phương thức sáp nhập lao động giá rẻ, bù trừ cho sự tăng lương thực tế ở các nước trung tâm và do đó giữ được mức lương trung bình thấp xuống. Tuy vậy, việc hội nhập thường không hấp dẫn do mọi người thấy ít lợi ích vật chất ngay lập tức và mất giá trị văn hóa. Do đó, chỉ có những nước trung tâm với sự bảo vệ của công nghiệp hiện đại mới có thể trinh phục được các nước khác.
Cụ thể là các công ty có liên quan đến việc chuyển đổi chủ yếu sau đây vào môi trường bên ngoài. Trước tiên có sự chuyển đổi của quy trình sản xuất, nó trở thành các chuỗi hàng hóa trên thế giới thông qua các nền kinh tế sản xuất bằng tiền mặt khoáng sản thực phẩm.
Ngoài ra, có sự xây dựng lại các cấu trúc chính trị các tiểu bang điều hành bên trong hệ thống các nước TB. Dù các trường hợp nào các tiểu bang hay còn gọi là các thuộc địa phải hoạt động theo những quy tắc chung hệ thống liên bang, nhưng quy tắc này phải đủ mạnh để chỉ đạo hoạt động của dây truyền sản suất hàng hóa, nhưng nó có thể không đủ mạnh để đối diện với sự độc quyền và lợi ích của các nước trung tâm.
Quá trình hội nhập bắt đầu vào thế kỷ XVII, đến cuối thế kỷ XIX không còn nơi nào trên thế giới nằm ngoài sự hoạt động của hệ thống liên kết này. Lịch sử nền kinh tế thế giới 1600-1945 được đặc trưng bởi sự phân cực và hội nhập có sự tăng trưởng trong lực lượng sản xuất và mức độ của cải kinh tế trong suốt thời kỳ này.
2. Từ sau năm 1945:
Wallertein cho rằng sự thay đổi của nền kinh tế thế giới TBCN từ 1945 đáng chú ý ở hai phương diện.
Đầu tiên là sự mở rộng của nền kinh tế về dân số, giá trị sản xuất ra, lực lượng sản xuất, của cải sản xuất ra bằng cả thời kỳ 1500-1945, sự phát triển trong lực lượng sản xuất giảm một lượng lớn lao động sản xuất sản phẩm đơn giản gồm thực phẩm trong quá trình này các quốc gia tiến gần đến nhau hơn. Sự khai thác lao động giá rẻ khiến cho mọi gia đình trở thành bán vô sản và sự trì trệ của kinh tế khiến cho các gia đình trở thành vô sản.
Thứ hai sức mạnh chính trị của các lực lượng chống TBCN tăng mạnh mẽ các nhánh của phong trào đã giành được thắng lợi trong đó có sự thành lập các nước XHCN, sự chiến thắng của các phong trào giải phóng dân tộc và sự nắm quyền của các đảng lao động và dân chủ phương tây. Tuy nhiên các lực lượng này bị chỉ trích vì thất bại trong hai mục tiêu đó là tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội những năm 1980 là sự vỡ mộng của các phong trào chống TBCN.
3. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu:
Năm 1945 chủ nghĩa TB cố gắng che dấu sự bất lực bên trong của nền kinh tế đang bị sa lầy, cần có ai đó tìm ra hướng đi đường lối phát triển “những điều sẽ phải làm”
Wallertein đã đưa ra những chính sách nào từ những kết quả phân tích của ông ấy? Ông ấy đã đưa ra những giả định khách quan mang “tính xác thực trong chế độ dân chủ thế giới”, Wallertein cho rằng sự phát triển của một dân tộc về khách quan cần có một chính sách tàn nhẫn với mỗi một tiểu bang đó là điều không thể thực hiện được bất cứ cái gì cũng cần phải có một phương pháp lựa chọn, với một tiểu bang cần phải tìm hiểu tường tận điều này. Điều mà làm biến đổi cơ bản vị trí quy mô của các nhân tố thế giới và bằng các chính sách liên đới các tiểu bang, các trợ cấp của họ tất yếu sẽ được chi phí đến vài nơi khác. Điều này đã đặc biệt đúng từ năm, khi nền kinh tế thế giới hoàn thiện có thể không phát triển rộng hơn. Khi một nước mới được tạo thành thì một nước cũ sẽ mất đi Wallertein đưa ra ví dụ: Nếu trước đây 30 năm Trung Quốc hoặc Ấn Độ đã có ý thức đúng khi nắm được sự liên kết giữa các vùng miền. Trong hệ thống toàn cầu có thể giảm bớt một vài trung tâm phát triển giàu có, từ khía cạnh này Wallertein nghĩ rằng thiết lập mối quan hệ từ các nước đã được tạo ra từ chính họ ngay trong tình trạng khó khăn cái mà không dễ giải quyết.
Thay vì đồng ý với sự chuyển động của đất nước cái mà đã thắng thế trong lịch sử phát triển từ thế kỷ XIX, Wallertein đã bảo vệ một chiến lược toàn cầu mới cần đến sự bổ xung của bài toán toàn cầu. Đặc biệt ông kêu gọi khắp thế giới bắt tay vào tăng trưởng. Wallertein giải thích: Trong bài toán toàn cầu phải làm thế nào cho mỗi điểm trên dây truyền hàng hóa sao cho tăng nhanh tỷ lệ % của số thặng dư, dồn ép sự sung đột nhịp độ lãi xuất.
Theo như Wallertein sự tắc nghẽn trong chiến lược con số thặng dư này bởi người sản xuất có thể sẽ có kết quả hơn vào cuối thế kỷ XX. Bởi nền kinh tế thế giới đã vươn tới đỉnh cao và chu trình sản xuất đã đi tới tận cùng sự dồn nén này sẽ làm nguy hại cho nhà TB.
Cuối cùng, Wallertein đã nhấn mạnh bài toán toàn cầu với con số thặng dư bởi người lao động khó mà chấp nhận ngay từ người làm chiến lược đó. Trong thế kỷ XIX lại có sự đấu tranh về sự mất dân chủ đã mang tới một khả năng cho khắp thế giới về chiến tranh trên toàn thế giới và trên thương trường trong nước, nhưng những nhà tư bản có thể tìm thấy những con đường khác nhau, họ có thể tuyển lựa những nhân công rộng khắp thế giới tích lũy vốn từ hộ gia đình, họ có thể kìm hãm sự phát triển của cả một quốc gia, họ có thể đổi địa điểm ở bất kỳ vùng miền nào trên quốc gia họ, trong những điều này Wallertein chắc chắn rằng thương trường không thể xóa đi mối liên kết giữa các quốc gia.
SO SÁNH GIỮA TRƯỜNG PHÁI SỰ PHỤ THUỘC VÀ TRƯỜNG PHÁI HỆ THỐNG THẾ GIỚI.
Trong sự hình thành sớm của nó, hệ thống viễn cảnh thế giới đã đào sâu vào những dây nối của những hệ thống phụ thuộc và bởi thế nó đã thường xuyên nêu gương lẫn nhau với những trường học phụ thuộc (Barrett and White 1982, Chirot and Hall 1982, Koo 1984, Moulder 1977, Petras 1982). Tuy nhiên, bởi những trường học thuộc hệ thống thế giới đã trở nên tiến bộ hơn, những sinh viên tiên tiến đã bắt đầu tìm hiểu sự khác biệt giữa hệ thống phụ thuộc và hệ thống thế giới (Bach 1982, Chase Dunn 1982a, So 1981).
Bảng: So sánh sự khác biệt của hai trường phái.
Trường phái sự phụ thuộc
Trường phái hệ thống thế giới
Đơn vị phân tích
Quốc gia – chính quyền.
Hệ thống thế giới.
Phương pháp nghiên cứu
Cấu trúc lịch sử, sự phát triển và suy thoái của các quốc gia.
Lịch sử năng động của hệ thống thế giới. Những quá trình có tính chu kì và những xu hướng phổ quát.
Cấu trúc lý thuyết
Hai cực: ngoại vi và trung tâm.
Ba cực: ngoại vi, trung gian, trung tâm.
Định hướng phát triển
Sự phụ thuộc mang tính định mệnh và nhìn chung là có hại.
Có thể tiến lên hoặc thụt lùi trong sự vận động của nền kinh tế thế giới.
Trọng tâm nghiên cứu
Về các nước ngoại vi.
Về các nước ngoại vi, các nước trung gian và các nước trung tâm.
Đầu tiên, đơn vị của sự phân tích cho hệ thống viễn cảnh của thế giới, tất nhiên là hệ thống thế giới. Không giống như những viễn cảnh phụ thuộc, thứ mà tập trung trong mức độ quốc gia, hệ thống viễn cảnh thế giới nhấn mạnh rằng thế giới hiện tại phải được coi như một đơn vị của sự phân tích khoa học xã hội. Wallerstein chỉ rõ rằng những sự giải thích mang tính lịch sử cần xuất phát từ quan điểm của hệ thống thế giới và tất cả các hiện tượng được giải thích trong giới hạn hậu quả của chúng cho toàn bộ hệ thống thế giới và những phần phụ của nó. Theo Wallerstein (1977b, tr.7) cần đến sự phân tích triết học của quá trình lịch sử xã hội trong một thời gian dài và không gian rộng lớn.
Hệ thống thế giới này có thể chỉ ra ánh sáng mới trên những quan điểm xã hội học quen thuộc, như Wallerstein (1976, p.XI ) giải thích:
Một, khi chúng ta ngộ nhận rằng đơn vị của sự phân tích là hệ thống thế giới mà không phải là chính quyền hay quốc gia hoặc người dân và sau đó sẽ thay đổi nhiều trong kết quả của sự phân tích. Hầu hết đặc trưng mà chúng ta thay thế có liên quan đến những đặc điểm thuật ngữ của một đất nước, nó lại liên quan đến những đặc điểm quan hệ của các quốc gia. Chúng ta chuyển từ tầng lớp bàng quan (và những nhóm trạng thái) như là những nhóm trong một quốc gia để xem họ như những nhóm trong nền kinh tế thế giới.
Từ hệ thống viễn cảnh thế giới, chỉ có một hệ thống thế giới trong thế kỷ XX. Mặc dù những người nghiên cứu hệ thống này nhận ra sự ảnh hưởng sâu sắc trong những cuộc cách mạng xã hội, họ chỉ ra rằng những nước xã hội vẫn đang hoạt động trong những sự hạn chế của kinh tế tư bản thế giới. Vì thế chính sách của các nước xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá dần trở nên quy mô hơn, bị thúc ép bởi động lực của kinh tế tư bản thế giới. Không giống như những nhà lý luận (phụ thuộc) cổ điển, người đã đưa ra chiến lược của người xã hội chủ nghĩa không bị ràng buộc như là một phương pháp giải quyết cho sự phát triển của thế giới thứ 3. Những nhà phân tích hệ thống thế giới nghi ngờ khả năng đứng vững của chiến lược này.
Thứ hai, ảnh hưởng bởi phương pháp học mang tính lịch sử của Pháp, Wallerstein (1984, tr.27) lĩnh hội thực tế xã hội như luôn trong trình trạng không ổn định. Ông chỉ ra rằng “Chúng ta tìm kiếm để nắm bắt một thực tế biến động trong thuật ngữ của chúng ta. Chúng ta bằng cách đó sẽ quên rằng thực tế thay đổi như chúng ta máy móc nó, và với tư cách của sự thật đó”. Để nắm bắt được thực tế luôn luôn biến động, Wallerstein (1984, tr.27) đề nghị một phiên học lâm thời dài kì, những vết vẩy trong quan niệm đều có ý nghĩa, những điều đó có quyền đòi hỏi những yêu sách trong vấn đề liên quan đến thời gian - không gian tự trị… Tôi sẽ gọi những điều trên là “Những hệ thống lịch sử”. Nó là một hệ thống có lịch sử, đó là nó có một căn nguyên, một lịch sử phát triển và một sự kết thúc (một sự phá huỷ, một sự tan rã, một sự biến đổi, một Afhebung).
Không giống như trường học phụ thuộc, tập trung bên trên sự bùng nổ của các quốc gia, trường học hệ thống thế giới nghiên cứu động lực lịch sử của nền kinh tế thế giới. Wallerstein (1984, tr.13-26) chỉ ra rằng nền kinh tế tư bản thế giới phát triển bản thân nó vượt qua những phương hướng cũ trong sự thương nghiệp hóa của nông nghiệp, công nghiệp hoá và vô sản hoá. Với những phương hướng cũ này, nền kinh tế tư bản thế giới đã phát triển sự tuần hoàn của sự mở rộng và sự trì trệ như là hậu quả của sự mất cân bằng giữa yêu sác; hiệu quả của thế giới và lượng cung cấp hàng hoá. Khi cung vượt quá cầu, khi mà có quá nhiều hàng hoá trong siêu thị mà không có đủ khách hàng để mua chúng, nhà máy phải đóng cửa và công nhân mất việc làm. Kinh tế thế giới sau đó sẽ lâm vào tình trạng trì trệ. Trong thời kì xuống dốc đó, những yếu tố làm suy yếu nó lại kiểm soát tất cả ngoại vi, mang đến cho vùng ngoại vi một cơ hội để xúc tiến sự phát triển tự trị và để đuổi kịp trọng điểm. Thời kì xuống dốc, thế nên phục vụ như một thời kỳ của sự phân phối lại sự thặng dư trong trọng điểm của vùng ngoại biên. Tuy nhiên sau một thời kì dài của sự khủng hoảng, những sản phẩm trọng điểm đã hồi sinh như một kết quả của những yêu sách gia tăng từ vùng ngoại biên đang phát triển và sự đột phá trong công nghệ. Khi cầu vượt cung, điều đó đã bắt đầu một thời kì đi lên của kinh tế mở rộng. Trong suốt quả bom kinh tế này, nhân tố trọng điểm cố gắng để lấy lại sức mạnh của nó và để giữ chặt sự kiểm soát của nó trong vùng ngoại biên để thống trị thị trường thế giới. Sự bùng nổ kinh tế này, tuy nhiên không thể tồn tại vĩnh viễn và cuối cùng sẽ dẫn tới dư thừa sản phẩm. Tuy nhiên sau giai đoạn suy thoái nền sản xuất phục hồi lại là kết quả của sự phát triển cầu hàng hoá và những đột phá về công nghệ. Khi cầu thế giới bắt đầu vươn tới cung của thế giới, những sự bắt đầu này tạo đà cho những sự mở rộng nền kinh tế. Suốt sự bùng nổ kinh tế cốt lõi là lấy lại được sức mạnh của chính nó và sự thắt chặt nền kinh tế kìm hãm thị trường thế giới. Sự bùng nổ kinh tế này không phải là mãi mãi cũng sẽ không là cuối cùng dẫn đến sự khủng hoảng thừa. Ở mọi sự tăng trưởng và tụt hậu của nền kinh tế thế giới, có cơ hội lớn nắm lấy và đằng sau những sự sụp đổ. Đây là một động lực từ khi hệ thống các quốc gia luôn phải đối mặt với thử thách và luôn trong quá trình biến đổi với chu kì phát triển dài.
Thứ ba, không giống với hệ thống quốc gia thuộc địa có một cấu trúc lý thuyết đơn nhất. Thay vì một bề ngoài giản đơn. Kinh tế tư bản thế giới của Wallerstein có ba tầng lớp đó là: ngoại vị, trung gian, trung tâm. Đứng giữa nhân tố và ngoại tố những nét đặc trưng của cả hai. Đưa vào công thức của tư tưởng trung gian là một lý thuyết suông. Bởi vì những nghiên cứu về sự thay đổi tự nhiên của những nhà nghiên cứu trở nên phức tạp. Ba kiểu mẫu này cho phép Wallerstein ấp ủ những biến đổi làm cho nền kinh tế thế giới đi lên giống như những biến động của nền kinh tế thế giới đi xuống. Với kiểu mẫu trung gian, viễn cảnh thế giới theo cách đó là sự nghiên cứu những biến động của xã hội, những mỗi quan hệ mâu thuẫn và những sự khủng hoảng xây dựng nên hệ thống công việc của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Bốn, về khía cạnh của hướng phát triển, ba giải pháp mà Wallerstein đưa ra đó là tránh tình trạng như những lúc trường phái phụ thuộc vấp phải, cụ thể hoá, sự nhảy vọt về tăng trưởng kinh tế phải nằm dưới sự phát triển hoặc phụ thuộc vào sự phát triển, bởi vì luôn có sự bóc lột giữa những người cầm quyền và những người lao động. Với ý niệm chung của những người nửa ngoài, viễn cảnh của hệ thống thế giới không cần có những người nửa ngoài, viễn cảnh của hệ thống thế giới không cần có những vấn đề về quyền tự trị và quyền độc lập phát triển trong thế giới thứ 3. Vì vậy, những nhà khoa học có thể tìm ra những câu hỏi thông minh hơn giống như tại sao một vài nước ở Đông Nam Á lại có thể vượt qua những tình trạng khủng hoảng ở cuối thế kỷ XX.
Cuối cùng, không giống với những quốc gia thuộc địa chỉ tập trung vào nghiên cứu những yếu tố bên ngoài, hệ thống viễn cảnh thế giới có một nghiên cứu sâu rộng hơn. Hệ thống viễn cảnh thế giới không chỉ nghiên cứu những sự lạc hậu của thế giới thứ 3, hơn thế là những vượt trội của những hạt nhân tư bản, những xã hội chủ nghĩa mới và tăng thêm về lý thuyết phát triển (xu hướng lâu dài và những chu kì nhịp điệu của chúng) và những sự kế thừa nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
THE END!!!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH7918NG NGHIN C7912U C7910A TR4317900NG PHI H7878 TH7888NG THamp.doc