Bảo hiểm bắt buộc
Không khó để tranh luận rằng việc đưa ra một
nghĩa vụ đối với chủ tàu phải chịu trách nhiệm tìm
kiếm nguồn tài chính sẵn có để bảo đảm cho các
nghĩa vụ của mình là phù hợp. Nguồn tài chính sẵn
có đó có thể thông qua “bảo hiểm bắt buộc”, hay
hệ thống ngân hàng [7]. Hệ thống CLC đã quy định
rằng: bảo đảm tài chính không nhất thiết phải được
cung cấp thông qua bảo hiểm. Điều VII (1) đề cập
rõ ràng đến bảo hiểm và bảo đảm tài chính khác,
chẳng hạn như bảo lãnh của ngân hàng hoặc của
một quỹ bồi thường quốc tế [1]. Như vậy, bảo
hiểm chỉ là một trong những cách mà chủ tàu
chứng minh rằng anh ta có thể đáp ứng các khoản
bồi thường của mình, chứ không phải “bắt buộc”.
Tuy nhiên, trong hội nghị năm 1969, lý do chính
được đưa ra để biện minh cho cho việc áp dụng “bảo
hiểm bắt buộc” là bảo vệ cho lợi ích của các nạn nhân,
và nó đặc biệt quan trọng như là một biện pháp khắc
phục trong các trường hợp chủ tàu thiếu khả năng tài
chính. Tất nhiên những lời chỉ trích có thể được đưa
ra liên quan đến cách thức thực hiện nghĩa vụ bảo
hiểm. Cụ thể: bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng cho tàu
dầu chở hơn 2.000 tấn dầu hàng, trong khi các tàu nhỏ
cũng có thể gây ô nhiễm dầu lớn và đối mặt với vấn
đề mất khả năng thanh toán từ chủ tàu. Do vậy, phạm
vi áp dụng bảo hiểm bắt buộc cho cỡ tàu là vấn đề
đáng được thảo luận. Một vấn đề khác là trong hội
nghị năm 1969, đã đề nghị trao cho các quốc gia thành
viên quyền từ chối cho tàu được vào cảng nếu tàu
không thể xuất trình được giấy chứng nhận bảo hiểm
bắt buộc, hay chứng minh sự sẵn có của bảo hiểm.
Trải qua quá trình phát triển, bảo hiểm bắt buộc vẫn
được áp dụng cho tàu dầu chở hơn 2.000 tấn dầu hàng,
và nó đã thể hiện được vai trò của mình trong bồi
thường thiệt hại là: luôn đảm bảo có một nguồn tài
chính sẵn sàng để bồi thường cho các nạn nhân bị thiệt
hại do ô nhiễm dầu tàu.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 228 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những nguyên tắc bất biến trong quá trình phát triển của chế độ trách nhiệm pháp lý dân sự đối với thiệt hại ô nhiễm dầu từ tàu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
95 SỐ 64 (11-2020)
NHỮNG NGUYÊN TẮC BẤT BIẾN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
CỦA CHẾ ĐỘ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ DÂN SỰ ĐỐI VỚI THIỆT HẠI
Ô NHIỄM DẦU TỪ TÀU
IMMUTABLE PRINCIPLES IN THE DEVELOPMENT OF CIVIL LIABILITY
REGIME FOR OIL POLLUTION DAMAGE CAUSED BY SHIPS
PHẠM VĂN TÂN1*, ĐỖ DUY CHỈNH2, LÊ VĂN HOÀNG2, ĐINH THỊ MỸ LINH3
1Trung tâm Huấn luyện thuyền viên, Trường Đại học Hàng hải Việt Nam
2Trung tâm Phối hợp tìm kiếm, cứu nạn hàng hải Việt Nam
3Peoples’ Friendship University of Russia
*Email liên hệ: phamvantan@vimaru.edu.vn
Tóm tắt
Chế độ trách nhiệm pháp lý dân sự đối với thiệt hại
ô nhiễm dầu từ tàu được hình thành từ sự cố tràn
dầu tàu Torrey Canyon năm 1967, nó được thể hiện
thông qua hai công ước quốc tế là CLC 1969 và
Quỹ năm 1971. Tuy nhiên, các công ước này được
coi là không thỏa đáng do bị giới hạn tài chính đối
với trách nhiệm pháp lý, nên các sửa đổi bổ sung
đã được tiến hành vào các năm 1992 (CLC 1992,
Quỹ 1992), năm 2000 và 2003 (Quỹ bổ sung 2003).
Trong quá trình thay đổi, phát triển của chế độ
trách nhiệm pháp lý dân sự đối với thiệt hại ô nhiễm
dầu quốc tế trong thời gian qua, một số nguyên tắc
vẫn không đổi kể từ khi hình thành cho đến ngày
nay. Chúng bao gồm các nguyên tắc “trách nhiệm
pháp lý nghiêm ngặt”, “giới hạn trách nhiệm” và
“bảo hiểm bắt buộc”. Và mục tiêu của bài báo là
phân tích làm rõ vai trò của các nguyên tắc bất biến
này đối với chế độ trách nhiệm pháp lý đối với thiệt
hại ô nhiễm dầu tàu.
Từ khóa: Ô nhiễm dầu tàu, CLC, FUND.
Abstract
The Civil liability regime for oil pollution damage
caused by ships was formed from the Torrey
Canyon incident in 1967 and was expressed by
CLC 1969 and FUND 1971. However, two
conventions were considered inadequate due to
financial limitations, therefore additional
amendments were made in 1992 (CLC 1992, Fund
1992), in 2000 and in 2003 (Supplementary Fund
2003). In the process of changing and developing
of international civil liability regime for oil
pollution damage caused by ships, many
principles have remained unchanged since their
created until this day. These include the principles
of “strict liability”, “limitation of liability” and
“compulsory insurance”. And the aim of this
article is analyzing and classifying of role of these
principles in international civil liability regime for
oil pollution damage caused by ships.
Keywords: Ship’s oil pollution, CLC, FUND.
1. Đặt vấn đề
Chế độ quốc tế về trách nhiệm dân sự và bồi
thường ô nhiễm dầu ban đầu được thiết lập thông qua
hai Công ước quốc tế: “Công ước quốc tế về trách
nhiệm dân sự đối với thiệt hại ô nhiễm dầu năm 1969
(Công ước CLC 1969)” [1] và “Công ước quốc tế
thành lập Quỹ quốc tế về bồi thường thiệt hại ô nhiễm
dầu năm 1971 (Công ước Quỹ năm 1971)” [2]. Nguồn
gốc của Công ước quốc tế CLC 1969 là sự phản ứng
của cộng đồng quốc tế với sự cố tràn dầu Torrey
Canyon năm 1967, làm tràn 117.000 tấn dầu thô gây
ô nhiễm kéo dài từ bờ biển phía tây nam của Anh tới
bờ biển Brittany của Pháp, với tổng thiệt hại ở hai
quốc gia vượt quá 6 triệu bảng (nhưng cuối cùng nó
đã được giải quyết với giá 3,8 triệu bảng). Sự cố tràn
dầu Torrey Canyon đã cho thấy rằng: sự cần thiết của
một hệ thống quốc tế về trách nhiệm dân sự và bồi
thường cho ô nhiễm dầu. Do đó, Tổ chức Tư vấn Hàng
hải Liên Chính phủ (IMCO, sau đó vào năm 1982, đã
được đổi tên thành Tổ chức Hàng hải Quốc tế - IMO)
triệu tập Hội nghị Ngoại giao thông qua CLC 1969.
Trong Công ước này, một số nguyên tắc để bồi thường
ô nhiễm dầu đã được thông qua, chủ yếu là “trách
nhiệm pháp lý nghiêm ngặt” đối với chủ tàu, “giới hạn
trách nhiệm pháp lý”, “bảo hiểm bắt buộc”.
Tuy nhiên, CLC 1969 được coi là không thỏa đáng,
do giới hạn tài chính đối với trách nhiệm pháp lý, nên
nó không đủ khả năng để bồi thường thỏa đáng các
thiệt hại, đặc biệt đối với những sự cố tràn dầu lớn.
Ngành vận tải cũng cảm thấy phải chịu gánh nặng tài
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
96 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
chính nặng nề do hệ thống trách nhiệm pháp lý
nghiêm ngặt và bảo hiểm bắt buộc. Trong tình huống
này, Công ước Quỹ năm 1971 đã được thông qua như
một giải pháp thỏa hiệp nhằm cung cấp bồi thường
thỏa đáng cho các nạn nhân ô nhiễm, và nhằm giảm
bớt gánh nặng tài chính cho chủ tàu theo CLC 1969.
Theo đó, Công ước Quỹ năm 1971 đã thành lập một
Quỹ bồi thường ô nhiễm dầu quốc tế, được đóng góp
bởi các nhà xuất, nhập khẩu dầu. Công ước Quỹ sẽ áp
dụng khi chủ tàu chịu trách nhiệm về thiệt hại theo
CLC 1969 nhưng không có khả năng tài chính để đáp
ứng các nghĩa vụ của mình, hoặc khi thiệt hại ô nhiễm
dầu vượt quá giới hạn trách nhiệm của chủ tàu.
Khi CLC 1969 có hiệu lực vào năm 1975 và Công
ước Quỹ có hiệu lực vào năm 1978, các tình huống đã
thay đổi kể từ đó. Nó được coi là cần thiết cho chế độ
bồi thường ô nhiễm dầu quốc tế, nhằm đáp ứng và
thích ứng với hoàn cảnh thay đổi mới. Tuy nhiên, một
sự cố tràn dầu Amoco Cadiz - (Amoco Cadiz là một
siêu tàu thuộc sở hữu của Amoco Transport Corp và
vận chuyển dầu thô cho Shell Oil. Nó bị mắc cạn vào
ngày 16/3/1978 trên bãi biển Barsall Rocks, cách bờ
biển Brittany của Pháp 5 km, sau đó nó bị vỡ làm ba
và chìm xuống biển, dẫn đến sự cố tràn dầu lớn nhất
trong lịch sử cho đến thời điểm đó, lượng dầu tràn ra
biển khoảng 220.880 tấn dầu) [3] - đã chứng minh sự
thiếu sót của hệ thống bồi thường ô nhiễn dầu quốc tế
hiện có. Do đó, các Công ước quốc tế này cần phải
cập nhật, bổ sung để hoàn thiện hơn nữa.
Những sửa đổi lớn đầu tiên diễn ra vào năm 1992,
các Nghị định thư năm 1992 đã được thông qua (CLC
1992, Quỹ 1992) [4]. Trong CLC 1992, Quỹ 1992 thì
giới hạn trách nhiệm pháp lý đã tăng lên, phạm vi áp
dụng của Công ước được mở rộng đến vùng đặc quyền
kinh tế (EEC). Những thay đổi lớn thứ hai đối với chế
độ quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với ô nhiễm dầu
trên biển được diễn ra vào năm 2000, đó là số tiền bồi
thường được tăng lên gấp đôi. Thay đổi gần đây nhất
là vào năm 2003, khi Nghị định thư về Quỹ bổ sung
được thông qua (Quỹ bổ sung 2003) [5]. Trong cùng
năm đó, một thỏa thuận tự nguyện để tăng mức giới
hạn cho tàu chở dầu nhỏ cũng đã được thông qua.
Trong những năm 90 khi có cả hai Quỹ cùng tồn
tại (Quỹ 1971 và Quỹ 1992), do ngày càng nhiều quốc
gia tham gia Quỹ 1992, nên Quỹ 1971 đã gặp rất nhiều
khó khăn. Tổ chức Quỹ quốc tế đã quyết định chấm
dứt Quỹ 1971 vào năm 2002. Tuy nhiên, vẫn có hai
chế độ CLC hoạt động cùng một lúc (CLC 1969 và
CLC 1992). Mặc dù CLC 1969 đang mất quyền lực,
nhưng nó vẫn có khoảng 40 quốc gia thành viên, chủ
yếu là các nước từ Châu Phi, Nam Mỹ và Trung Đông.
Bất chấp tất cả sự phát triển, những thay đổi về chế
độ bồi thường thiệt hại ô nhiễm dầu quốc tế trong
những năm qua, nhưng một số nguyên tắc vẫn không
thay đổi kể từ khi hình thành cho đến ngày này. Chúng
bao gồm các nguyên tắc “trách nhiệm pháp lý nghiêm
ngặt”, “giới hạn trách nhiệm” và “bảo hiểm bắt buộc”.
2. Trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt
Cả CLC 1969 và CLC 1992 đều áp dụng quy tắc
“trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt” đối với thiệt hại
do ô nhiễm dầu cho chủ tàu. Nghĩa là chủ tàu là người
chịu trách nhiệm về thiệt hại ô nhiễm do dầu từ tàu
của mình gây ra và không phụ thuộc vào nguyên nhân
do lỗi của chủ tàu hay không. Tuy nhiên trách nhiệm
nghiêm ngặt chứ không phải tuyệt đối, chủ tàu được
miễn trách nhiệm trong ba trường hợp. Về mặt này,
trong quá trình xây dựng CLC ban đầu đã có nhiều lập
luận khác nhau về trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt.
Đặc biệt là phái đoàn Pháp đã ủng hộ mạnh mẽ chế độ
trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt. Trách nhiệm đầy đủ
đối với thiệt hại ô nhiễm dầu là cần thiết để ngăn chặn
hành vi nguy hiểm hoặc cẩu thả không cần thiết; và để
khuyến khích mức độ phòng ngừa tối ưu cho ngành
dầu khí. Ngoài ra, cần nói thêm rằng Điều III (2) của
CLC quy định rằng: không có trách nhiệm đối với
thiệt hại ô nhiễm trong trường hợp bất khả kháng hoặc
có hành động cố ý của bên thứ ba [1]. Việc loại trừ
trách nhiệm pháp lý trong trường hợp bất khả kháng
là hợp lý, vì nó nằm ngoài phạm vi kiểm soát của bên
có trách nhiệm.
Điều quan trọng không kém là Điều III (3) của
CLC quy định rằng nếu ô nhiễm do toàn bộ hoặc một
phần hành động (cẩu thả hoặc cố ý) hoặc thiếu sót của
nạn nhân, chủ tàu sẽ được miễn trách nhiệm hoàn toàn
hoặc một phần trách nhiệm pháp lý [1]. Quy định này
là sự bảo vệ cần thiết cho chủ tàu trước quy tắc trách
nhiệm pháp lý nghiêm ngặt. Ngoài ra, điều này tương
ứng với các nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải bồi
thường” trong trách nhiệm pháp lý đối với thiệt hại ô
nhiễm dầu.
Theo quy định của công ước CLC, trách nhiệm
pháp lý đối với thiệt hại ô nhiễm dầu được chuyển cho
chủ sở hữu đăng ký tàu. Điều III (4) quy định rằng
không có yêu cầu bồi thường nào có thể được đưa ra
đối với bất kỳ người nào khác ngoài chủ tàu chở dầu
[1]. Trong hội nghị ban đầu năm 1969 xây dựng công
ước CLC, đã có nhiều lập luận khác nhau về điều
chuyển trách nhiệm cho chủ tàu. Một số cho rằng: điều
này có vẻ không hiệu quả, vì nhiều bên khác ngoài chủ
tàu (chủ hàng, người thuê tàu,) cũng có thể ảnh
hưởng đến nguy cơ ô nhiễm. Mặc dù chủ tàu tất nhiên
có thể là người chủ yếu thực hiện các biện pháp an
toàn để ngăn ngừa ô nhiễm dầu, nhưng các bên khác
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
97 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
cũng có thể ảnh hưởng đến rủi ro và do đó họ cũng
phải chịu trách nhiệm pháp lý. Còn phái đoàn Đức lại
lập luận rằng: chính nhà khai thác, sử dụng con tàu
mới là người có thể đảm bảo rằng con tàu được trang
bị và quản lý đúng cách. Lập luận được đưa ra bởi
phái đoàn Anh rằng: chủ sở hữu hàng hóa không thể
kiểm soát hàng hóa khi đang ở trên biển và hãng tàu
sẽ là người duy nhất có khả năng ngăn ngừa sự cố trên
biển. Nhưng một số quan điểm khác nêu rằng: các chủ
hàng cũng ảnh hưởng đến biện pháp phòng ngừa, như
một chủ sở hữu hàng hóa có thể lựa chọn hãng tàu an
toàn hơn trong vận chuyển để tránh sự cố ô nhiễm.
Hoa Kỳ cho rằng: trách nhiệm pháp lý phải thuộc về
mỗi bên có thể thực hiện các biện pháp phòng ngừa
đáng kể để ngăn chặn ô nhiễm, vì chủ tàu không có
quyền kiểm soát đáng kể đối với hoạt động hàng hải,
điều khiển con tàu. Chủ sở hữu đã đăng ký tàu có thể
là một tập đoàn tại một quốc gia có cờ thuận tiện (tàu
mang cờ thuận tiện). Các chủ tàu thường giao toàn bộ
quyền kiểm soát tàu cho những người thuê tàu hoặc
khai thác tàu, thường là các công ty con của các công
ty dầu mỏ.
Do đó, quyết định trong CLC loại trừ trách nhiệm
pháp lý của tất cả những người khác ngoài chủ tàu có
thể ảnh hưởng đến rủi ro tai nạn. Tuy nhiên, chủ tàu
vẫn không bị mất các quyền của mình. Điều III (5)
quy định rằng: công ước không làm phương hại đến
bất kỳ quyền truy đòi nào của chủ sở hữu tàu đối với
bên thứ ba [1]. Ngoài ra, chủ hàng cũng đã đóng góp
vào chi phí khắc phục các sự cố ô nhiễm dầu thông
qua việc đóng góp quỹ bồi thường ô nhiễm dầu quốc
tế. Nhưng, có những nghi ngờ nghiêm trọng về việc
quỹ có cung cấp các khuyến khích thích hợp để phòng
ngừa ô nhiễm không? Hay chỉ cung cấp tài chính sau
khi sự cố ô nhiễm đã xảy ra?
Điều thú vị là các tài liệu ban đầu tại hội nghị
xây dựng công ước CLC năm 1969 cũng đề cập đến
thực tế rằng một chủ tàu có thể chuyển các chi phí
của trách nhiệm bổ sung (phần trách nhiệm vượt
quá theo CLC) cho các công ty dầu mỏ, và cho
người dùng cuối. Phái đoàn Hà Lan lập luận rằng:
mặc dù trách nhiệm bảo hiểm thuộc về hãng tàu,
nhưng nó sẽ được chuyển sang hàng hóa dưới hình
thức tăng cước. Cũng có ý kiến cho rằng trách
nhiệm bổ sung sẽ được chuyển cho người dùng cuối.
Tuy nhiên, các công ty dầu mỏ cho rằng: không
chuyển hoàn toàn chi phí cho người dùng cuối, mà
sẽ chịu chi phí đó dưới dạng giảm lợi nhuận.
Ngoài ra, vấn đề cũng được đưa ra, cả tại hội nghị
1969 và trong tài liệu ban đầu, người ta có thể tự hỏi
liệu việc loại trừ trách nhiệm của chủ tàu có tạo ra sự
khác biệt lớn trong việc chống ô nhiễm hay không? Vì
nhiều công ty dầu mỏ lớn đều là chủ tàu. Điều này có
thể đúng với các công ty dầu mỏ có đội tàu chở dầu
của riêng họ. Nhưng cũng có những công ty dầu sử
dụng tàu chở dầu mà họ không có mối quan hệ nào cả.
Những hạn chế về mặt pháp lý và thực tế có thể ngăn
cản việc chuyển trách nhiệm đối với lợi ích hàng hóa.
Như, trong một vụ kiện, nạn nhân có thể phải đối mặt
với ranh giới khả năng thanh toán của chủ tàu và công
ty bảo hiểm của anh ta. Hơn nữa, một vụ kiện bổ sung
chống lại các bên chịu trách nhiệm khác như người
thuê tàu lại bị CLC cấm. Tóm lại: trách nhiệm của chủ
tàu không thể chuyển cho người thuê tàu một cách đơn
giản; và sẽ không có tác động tiêu cực nào trong việc
loại trừ trách nhiệm của các bên khác ngoài chủ tàu.
Một cuộc tranh luận cuối cùng có lợi cho việc phân
chia trách nhiệm của chủ tàu cũng được đề cập đến
rằng: chủ tàu có thể dễ dàng mua được bảo hiểm hơn
các bên khác. Tuy nhiên, lập luận đó cũng bị bác bỏ
rằng: các bên khác có ảnh hưởng đến nguy cơ xảy ra
sự cố ô nhiễm dầu cũng có thể dễ dàng mua bảo hiểm
trách nhiệm. Do đó, đối số bảo hiểm khó có thể đưa ra
bất kỳ lời biện minh nào cho việc phân chia trách
nhiệm pháp lý dẫn đến việc loại trừ không hiệu quả
các bên khác ngoài chủ tàu.
Như vậy, đã có rất nhiều ý kiến, lập luận khác nhau
về việc áp dụng “trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt”
cho chủ tàu đối với thiệt hại ô nhiễm dầu. Tuy nhiên,
trải qua nhiều hội nghị từ khi xây dựng công ước CLC
đến những lần sửa đổi bổ sung sau này, trách nhiệm
nghiêm ngặt vẫn được áp dụng cho chủ tàu, và nó vẫn
thể hiện được sự hiệu quả trong việc khắc phục các sự
cố tràn dầu trên thế giới.
3. Giới hạn trách nhiệm
Trong thiệt hại ô nhiễm dầu, giới hạn tài chính đối
với trách nhiệm (nghiêm ngặt) của chủ tàu sẽ có tác
động tới khả năng thanh toán của chủ tàu. Tức là, chủ
tàu sẽ được giới hạn trách nhiệm của mình bằng một
khoản tiền cụ thể. Do đó, giới hạn tài chính đối với
trách nhiệm pháp lý có thể được coi là không hiệu quả.
Tuy nhiên, người ta lập luận rằng, bồi thường thiệt
hại ở mức trần cũng chưa chắc làm giảm các sự cố ô
nhiễm dầu. Đầu tiên, đối với nhiều sự cố ô nhiễm dầu
nhỏ, thiệt hại có thể thấp hơn mức giới hạn trách
nhiệm. Nguy cơ thiếu khoản bồi thường chỉ có thể đến
từ những sự cố tràn dầu lớn (thảm khốc), trong đó mức
độ thiệt hại cao hơn mức giới hạn. Thứ hai, việc ngăn
ngừa sự cố ô nhiễm dầu ngày nay chủ yếu phụ thuộc
vào quy định nhằm vào thiết kế, kỹ thuật của tàu chở
dầu để ngăn ngừa ô nhiễm. Nên, các quy tắc trách
nhiệm pháp lý có tác dụng răn đe bổ sung cho các quy
định kỹ thuật này. Do đó, mức trần bồi thường ảnh
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
98 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
hưởng đến hiệu ứng khuyến khích răn đe bổ sung này
của chế độ trách nhiệm pháp lý, nhưng không nhất
thiết sẽ làm giảm sự gia tăng các sự cố ô nhiễm. Hiệu
quả của biện pháp phòng ngừa sẽ phụ thuộc nhiều vào
hệ thống quy định kỹ thuật và mức độ răn đe bổ sung
mà các quy tắc trách nhiệm pháp lý đem lại.
Giới hạn trách nhiệm pháp lý là một nguyên tắc
hầu như không được thảo luận trong hội nghị CLC
1969. Trong hệ thống luật hàng hải, trách nhiệm luôn
bị giới hạn và do đó nguyên tắc này hầu như không
cần thảo luận nhiều. Tuy nhiên, trong luật hàng hải
truyền thống, giới hạn được áp dụng đối với người
thuê tàu. Và giới hạn cũng không đặt ra một mức cụ
thể. Do đó, phái đoàn Vương quốc Anh nêu quan
điểm rằng: hệ thống giới hạn trách nhiệm pháp lý đã
được chứng minh bằng cơ chế bảo hiểm bắt buộc.
Tuy nhiên, lập luận đó không thuyết phục vì nghĩa
vụ bảo hiểm có thể bị giới hạn (không thể bảo hiểm),
trong khi trách nhiệm pháp lý luôn tồn tại [6]. Hầu
hết các cuộc thảo luận trong hội nghị năm 1969 chỉ
tập trung vào mức giới hạn. Và sự thống nhất cao là
số tiền giới hạn này đã được tính trên cơ sở trọng tải
của con tàu, nhưng câu hỏi hầu như không được đưa
ra là: số tiền bồi thường giới hạn đó có đủ để chi trả
cho các chi phí thực tế của sự cố ô nhiễm dầu hay
không? Từ khi hình thành, phát triển chế độ trách
nhiệm pháp lý dân sự đối với thiệt hại ô nhiễm dầu
cho đến nay, quy định giới hạn trách nhiệm dân sự
đã được áp dụng và thể hiện được vai trò của nó là:
giữ ổn định cho các công ty vận tải đường biển trên
toàn thế giới (tránh những trường hợp công ty vận
tải biển bị phá sản sau một sự cố tràn dầu với khoản
bồi thường lớn).
4. Bảo hiểm bắt buộc
Không khó để tranh luận rằng việc đưa ra một
nghĩa vụ đối với chủ tàu phải chịu trách nhiệm tìm
kiếm nguồn tài chính sẵn có để bảo đảm cho các
nghĩa vụ của mình là phù hợp. Nguồn tài chính sẵn
có đó có thể thông qua “bảo hiểm bắt buộc”, hay
hệ thống ngân hàng [7]. Hệ thống CLC đã quy định
rằng: bảo đảm tài chính không nhất thiết phải được
cung cấp thông qua bảo hiểm. Điều VII (1) đề cập
rõ ràng đến bảo hiểm và bảo đảm tài chính khác,
chẳng hạn như bảo lãnh của ngân hàng hoặc của
một quỹ bồi thường quốc tế [1]. Như vậy, bảo
hiểm chỉ là một trong những cách mà chủ tàu
chứng minh rằng anh ta có thể đáp ứng các khoản
bồi thường của mình, chứ không phải “bắt buộc”.
Tuy nhiên, trong hội nghị năm 1969, lý do chính
được đưa ra để biện minh cho cho việc áp dụng “bảo
hiểm bắt buộc” là bảo vệ cho lợi ích của các nạn nhân,
và nó đặc biệt quan trọng như là một biện pháp khắc
phục trong các trường hợp chủ tàu thiếu khả năng tài
chính. Tất nhiên những lời chỉ trích có thể được đưa
ra liên quan đến cách thức thực hiện nghĩa vụ bảo
hiểm. Cụ thể: bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng cho tàu
dầu chở hơn 2.000 tấn dầu hàng, trong khi các tàu nhỏ
cũng có thể gây ô nhiễm dầu lớn và đối mặt với vấn
đề mất khả năng thanh toán từ chủ tàu. Do vậy, phạm
vi áp dụng bảo hiểm bắt buộc cho cỡ tàu là vấn đề
đáng được thảo luận. Một vấn đề khác là trong hội
nghị năm 1969, đã đề nghị trao cho các quốc gia thành
viên quyền từ chối cho tàu được vào cảng nếu tàu
không thể xuất trình được giấy chứng nhận bảo hiểm
bắt buộc, hay chứng minh sự sẵn có của bảo hiểm.
Trải qua quá trình phát triển, bảo hiểm bắt buộc vẫn
được áp dụng cho tàu dầu chở hơn 2.000 tấn dầu hàng,
và nó đã thể hiện được vai trò của mình trong bồi
thường thiệt hại là: luôn đảm bảo có một nguồn tài
chính sẵn sàng để bồi thường cho các nạn nhân bị thiệt
hại do ô nhiễm dầu tàu.
5. Kết luận
Từ khi hình thành và phát triển, chế độ trách
nhiệm pháp lý dân sự đối với thiệt hại ô nhiễm dầu
quốc tế tuân theo một mô hình dự toán kinh tế thống
nhất, như: liên quan đến việc áp dụng một “trách
nhiệm pháp lý nghiêm ngặt”. Những có đặc điểm
riêng là: trách nhiệm pháp lý được chuyển cho chủ
tàu, đã loại trừ trách nhiệm của những người khác có
thể góp phần tạo ra rủi ro ô nhiễm (chủ hàng, người
thuê tàu). Tuy nhiên, trách nhiệm pháp lý này được
giới hạn về mặt tài chính với cái gọi là “giới hạn
trách nhiệm”. Ngoài ra, với một quan điểm lợi ích
cộng đồng, chế độ trách nhiệm pháp lý đối với thiệt
hại ô nhiễm dầu quốc tế đã duy trì quy định “bảo
hiểm bắt buộc” để bảo vệ cho các nạn nhân của ô
nhiễm dầu. Như vậy, với các quy định không thay
đổi được áp dụng từ khi hình thành đến nay: “trách
nhiệm pháp lý nghiêm ngặt”, “giới hạn trách nhiệm”
và “bảo hiểm bắt buộc” đã góp phần cải thiện chế độ
pháp lý, giảm thiểu sự cố ô nhiễm cũng như tăng
cường, duy trì nguồn tài chính sẵn có để khắc phục
sự cố ô nhiễm dầu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] IMO, International Convention on Civil Liability
for Oil Pollution Damage of 29 November 1969
(CLC 1969),
[2] IMO, International Convention on the
Establishment of an International Fund
Compensation for Oil Pollution Damage 1971,
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
99 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
[3] Nguyễn Kim Phương, Phạm Văn Tân, Nguyễn
Thành Lê, Nguyễn Thanh Sơn, Ô nhiễm môi
trường biển và các vấn đề liên quan, NXB Hàng
hải, Hải Phòng, 2018.
[4] IMO, Protocol of 1992 to amend the International
Convention on the Establishment of an
International Fund Compensation for Oil
Pollution Damage 1971,
[5] IMO, Protocol of 2003 to the International
Convention on the Establishment of an
International Fund for Compensation for Oil
Pollution Damage, 1992,
[6] W. Hui, Civil Liability for Marine Oil Pollution
Damage- A comparative and economic study of
the International: US and Chinese compensation
regime, Ph.D. dissertation Erasmus Universiteit,
Rotterdam, 2011.
[7] Pham Van Tan, Bui Dang Khoa, Nguyen Thanh Le,
Nguyen Van Truong, Basic elements of
compensation for oil pollution damage caused by
ships, Journal of Marine Science and Technology,
No.56, pp. 47 - 50, 2018.
[8] www.iopcfunds.org.
Ngày nhận bài: 14/7/2020
Ngày nhận bản sửa lần 01: 21/8/2020
Ngày nhận bản sửa lần 02: 17/9/2020
Ngày duyệt đăng: 22/9/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_nguyen_tac_bat_bien_trong_qua_trinh_phat_trien_cua_che.pdf