Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang

Giải pháp về phát triển kinh tế: Giá cả hàng hóa trên đảo nên được điều chỉnh hợp lý và có bảng giá quy định rõ ràng như giá các mặt hàng lưu niệm, giá tàu tham quan du lịch, giá thức ăn, giá đồ uống. Chính quyền địa phương nên có chính sách hỗ trợ vốn cho người dân kinh doanh hoạt động du lịch để tạo việc làm và tăng thêm thu nhập cho kinh tế địa phương. Khuyến khích các bộ phận dân cư tham gia các hoạt động kinh doanh du lịch ở các lĩnh vực khác nhau để có sự phân chia lợi ích đồng đều trong cộng đồng địa phương. Giải pháp về tình trạng rác thải: chính quyền địa phương cần tuyên truyền, nâng cao ý thức đến người dân và du khách trong việc bảo việc môi trường quanh đảo. Xây dựng hệ thống xử lý rác thải, cơ sở tái chế rác thải và trang bị thêm nhiều thùng rác quanh đảo tạo điều kiện để người dân và du khách có nơi để rác đúng quy định; nên có biện pháp xử lý các hành vi thải nước thải trực tiếp xuống biển của các hộ kinh doanh du lịch; có chính sách phân loại rác thải và xây dựng quy trình xử lý thích hợp; có thể xử lý rác thải bằng các phương pháp như: chôn lấp hợp vệ sinh, thiêu đốt, chế biến thành phân ủ để dùng trong nông nghiệp. Giải pháp về công tác quản lý của chính quyền địa phương và cơ sở hạ tầng: đẩy mạnh các chính sách quảng bá nhằm cung cấp thông tin du lịch của địa phương tới du khách. Chính quyền kêu gọi đầu tư để xây dựng và nâng cao cơ sở hạ tầng trên đảo, đáp ứng đủ nhu cầu cho người dân và du khách. Hỗ trợ và tư vấn người dân phát triển loại hình du lịch làng nghề, nuôi trồng thủy sản để tăng thêm thu nhập và cải thiện kinh tế. Tổ chức các tuyến du lịch trên đảo trên cơ sở kết nối các sản phẩm du lịch đặc trưng, khai thác một số tour mới như: tour du lịch khám phá Hải Đăng Nam Du bằng xe đạp; tour du lịch cho du khách trải nghiệm làm ngư dân; tour du lịch nghỉ ngơi kết hợp giải trí như đánh bóng chuyền bãi biển, chèo thuyền trên cát hay chơi teambuilding, kết nối Nam Du với các trung tâm du lịch khác. Con đường quanh đảo cần được đầu tư và nâng cấp để phát triển loại hình du lịch đi quanh đảo bằng xe đạp tạo cảm giác gần gũi với thiên nhiên cho du khách. Đảo cần có một bệnh viện lớn để có thể khám chữa bệnh và kiểm soát dịch bệnh liên quan đến du lịch tại đảo. Cần đầu tư xây dựng cảng biển để phân chia nơi neo đậu giữa tàu khách du lịch và tàu đánh cá của ngư dân nhằm giảm thiểu tình trạng đông đúc du khách trên cầu cảng.

pdf13 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 383 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 97 NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG TẠI QUẦN ĐẢO NAM DU, HUYỆN KIÊN HẢI, TỈNH KIÊN GIANG Lê Thị Tố Quyên1, Lý Mỷ Tiên1, Đào Ngọc Cảnh1, Nguyễn Trọng Nhân1 1Trường Đại học Cần Thơ Thông tin chung: Ngày nhận bài: 09/03/2018 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 31/05/2018 Ngày chấp nhận đăng: 06/2018 Title: Some factors influencing on sustainable tourism development in Nam Du archipelago, Kien Hai district, Kien Giang province Keywords: Impact factors, Nam Du, sustainable tourism Từ khóa: Nhân tố ảnh hưởng, Nam Du, du lịch bền vững ABSTRACT The research aims to identify factors that affect sustainable tourism development in Nam Du archipelago. Data was collected from 123 local people households by questionnaires and then analyzed by Descriptive Statistics and EFA. The result reveals that there are ten factors influencing on the sustainable tourism development in Nam Du, including "social security and traffic accidents", "economic development", "garbage status", "management of local government", "development planning and distribution of tourism interests", "cultural value", "tourists return to Nam Du and travel time", "satisfaction", "price of goods and services" and "warning and rescue systems". TÓM TẮT Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du. Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 123 người dân địa phương bằng bảng câu hỏi và xử lý bằng phương pháp thống kê mô tả và phân tích nhân tố khám phá. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng có 10 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững đảo Nam Du là: “tình trạng an ninh xã hội và tai nạn giao thông”, “sự phát triển kinh tế”, “tình trạng rác thải”, “công tác quản lý của chính quyền địa phương”, “quy hoạch phát triển và phân chia lợi ích du lịch”, “giá trị văn hóa”, “lượng khách du lịch trở lại Nam Du và thời gian hoạt động du lịch”, “sự hài lòng”, “giá cả hàng hóa và dịch vụ”, “hệ thống cảnh báo và cứu hộ”. 1. GIỚI THIỆU Quần đảo Nam Du nằm về phía Đông Nam của đảo Phú Quốc, trong Vịnh Thái Lan, có tổng diện tích khoảng 1054 ha, được quản lý bởi hai xã là An Sơn và xã Nam Du thuộc huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang. Quần đảo bao gồm khoảng 21 đảo lớn nhỏ, trong đó những hòn có đông dân cư sinh sống là Hòn Củ Tron (Hòn Lớn), Hòn Ngang và Hòn Mấu, còn lại là những hòn còn rất hoang sơ, ít cư dân sinh sống như Hòn Nồm, Hòn Dầu.... Hòn lớn nhất và tập trung đông dân nhất là Hòn Lớn thuộc xã An Sơn, có diện tích 779,10 ha với 1404 hộ dân với 4834 nhân khẩu (Uỷ ban Nhân dân xã An Sơn [UBNDXAS], 2017). Du khách đi tàu cao tốc đến Nam Du, sẽ cập bến tại Hòn Lớn, sau đó có thể thuê tàu địa phương đi tham quan các hòn khác. Nam Du được chú ý bởi có nhiều điểm tham quan đẹp, còn hoang sơ và môi trường An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 98 trong lành. Một số bãi biển đẹp như bãi Chướng (Hòn Mấu), bãi Mến, bãi Ngự (Hòn Lớn), bãi Chệt Ngoài ra, Nam Du còn thu hút du khách bởi nguồn hải sản tươi sống và một số lễ hội truyền thống tiêu biểu như lễ hội Vía Bà Chúa Xứ, lễ hội cúng Ông Bổn, lễ hội Lăng Ông. Trong những năm gần đây, số lượng du khách ngày càng tăng nhanh. Theo số liệu thống kê của Uỷ ban Nhân dân xã An Sơn năm 2015, tổng số khách du lịch đến Nam Du tham quan là 24382 lượt khách. Đến năm 2016, số lượng khách đạt 72619 khách, tăng gấp 3 lần so với cùng kì năm trước. Số lượng khách du lịch đến Nam Du thống kê mới nhất 6 tháng đầu năm 2017 đã đạt 59794 lượt khách, gần bằng số lượng cả năm 2016 (UBNDXAS, 2017). Cùng với sự phát triển nhanh về du lịch, quần đảo Nam Du đang đứng trước những thách thức không bền vững nếu không được kiểm soát đánh giá dựa trên các tiêu chí bền vững. Do đó rất cần nghiên cứu về đánh giá các nhân tố ảnh hướng đến sự phát triển du lịch bền vững, từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục những tồn tại, đồng thời bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, bản sắc văn hoá và đem lại lợi kinh tế bền vững cho người dân địa phương tại đảo Nam Du, nhằm góp phần thiết thực vào phát triển ngành du lịch tại đây, đồng thời phát huy những tiềm năng, thế mạnh du lịch của đảo này theo hướng bền vững. Nghiên cứu dựa trên đánh giá của người dân địa phương về nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững, nhằm đưa ra giải pháp thiết thực và định hướng phù hợp để phát triển du lịch nơi đây, đáp ứng yêu cầu mang tính cấp thiết đang được đặt ra ở quần đảo Nam Du. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO, 2004) đưa ra các chỉ tiêu đánh giá chung cho phát triển du lịch bền vững gồm 10 chỉ tiêu: 1) Bảo vệ điểm du lịch; 2) Áp lực; 3) Cường độ sử dụng; 4) Tác động xã hội; 5) Mức độ kiểm soát; 6) Quản lý chất thải; 7) Quá trình lập quy hoạch; 8) Các hệ sinh thái quan trọng; 9) Sự thỏa mãn của du khách; 10) Sự thỏa mãn của địa phương. Theo nghiên cứu của Machado (2003) về “Du lịch và phát triển du lịch bền vững, khả năng cho phát triển du lịch ở Việt Nam”, tác giả đã đưa ra các yếu tố để so sánh sự phát triển du lịch bền vững và phát triển du lịch không bền vững được đề cập bao gồm 24 yếu tố: 1) Tốc độ phát triển; 2) Mức độ kiểm soát; 3) Quy mô; 4) Mục tiêu; 5) Phương pháp tiếp cận; 6) Phương thức; 7) Đối tượng tham gia kiểm soát; 8) Chiến lược; 9) Kế hoạch; 10) Mức độ quan tâm; 11) Áp lực và lợi ích; 12) Quản lý; 13) Nhân lực sử dụng; 14) Quy hoạch kiến trúc; 15) Marketing; 16) Sử dụng nguồn lực; 17) Tái sinh nguồn lực; 18) Hàng hóa; 19) Nguồn nhân lực; 20) Du khách; 21) Học tiếng địa phương; 22) Du lịch tình dục; 23) Thái độ du khách; 24) Sự trung thành của du khách. Một nhóm các chuyên gia của Ủy ban Liên minh châu Âu đã đề xuất các chỉ số so sánh để theo dõi và xác định mức độ bền vững của phát triển du lịch. Các chỉ số được phân thành năm nhóm: các chỉ số kinh tế (hiển thị các hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp du lịch tại các khu du lịch), sự hài lòng của khách du lịch (bao gồm chất lượng của sự hài lòng của khách du lịch), các chỉ số xã hội, chỉ tiêu văn hóa (thể hiện mức độ bảo vệ bản sắc văn hóa của các cộng đồng địa phương chịu ảnh hưởng của những du khách đến từ nguồn gốc với đặc điểm văn hóa khác nhau), các chỉ số môi trường cần cung cấp một hình ảnh của các tác động môi trường của ngành du lịch và hiệu quả của nó trong các khu vực khác nhau (Cooper, 2000). Kristina & Sandaa (2010) trong nghiên cứu về “Phát triển du lịch bền vững: trường hợp ở đảo Hvar” cho thấy, hoạt động du lịch đã tác động đến môi trường, cơ sở vật chất hạ tầng và cuộc sống của người dân trên đảo. Người dân bỏ các nghề truyền thống như nông nghiệp, đánh bắt chuyển sang làm du lịch, làm thay đổi lối sống truyền thống của người dân. Nghiên cứu cũng chỉ ra nếu phát triển du lịch không được tổ chức, hoạt động một cách tự phát sẽ dẫn đến nhiều hệ luỵ phát triển không cân đối trong khi một phần đảo ở phía Tây đảo An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 99 được phát triển, còn phía Đông dường như bị quên lãng, thiếu hệ thống xử lý chất thải, thiếu nước, thiếu cơ sở hạ tầng đường sá, nhiều công trình phá vỡ cấu trúc cảnh quan ở một số nơi ở đảo, giảm số lượng dân cư và các nguồn tài nguyên tự nhiên quý hiếm bị suy giảm. Nguyễn Đình Hoè và Vũ Văn Hiếu (2004) đã đưa ra hệ thống bộ chỉ tiêu để đánh giá nhanh tính bền vững của điểm du lịch gồm: đáp ứng nhu cầu của khách du lịch; tác động của du lịch lên phân hệ sinh thái tự nhiên; phân hệ kinh tế và phân hệ xã hội – nhân văn. Nhìn chung, các nghiên cứu trên thế giới về du lịch bền vững (DLBV) rất phong phú và đa dạng. Các nghiên cứu này đã đề cập đến lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn phát triển du lịch theo hướng bền vững mang lại kinh tế cho cộng đồng địa phương, bảo vệ môi trường và bảo tồn văn hoá bản địa. Đây là cơ sở quan trọng cho việc vận dụng vào mô hình nghiên cứu phát triển DLBV ở Nam Du. Người dân địa phương là đối tượng chịu tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất từ hoạt động du lịch, những biến đổi về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, chính sách quản lý đều trực tiếp tác động đến đời sống hàng ngày của người dân, từ đó hình thành nên thái độ của cộng đồng địa phương đối với hoạt động du lịch. Đánh giá các tiêu chí phát triển DLBV ở góc độ của người dân địa phương sẽ tạo cái nhìn chân thực, tổng quan nhất về tình hình phát triển DLBV ở Nam Du. Trên cơ sở tham khảo các nghiên cứu trên, cùng với việc khảo sát thực tế về hoạt động du lịch tại đảo Nam Du, nhóm nghiên cứu bước đầu đặt ra giả thuyết có 6 nhân tố tác động đến phát triển DLBV ở Nam Du, bao gồm kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường của địa phương, phân tích các thể chế phát triển du lịch của địa phương và sự hài lòng của dân địa phương đối với hoạt động du lịch. L1, L2, L3, L4, L5, L6 lần lượt là các nhân tố kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, thể chế, sự hài lòng. H1 đến H6 là các giả thuyết được đặt ra, mô hình lý thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững đảo Nam Du được khái quát như sau: Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất (Nguồn: Đề xuất của nhóm nghiên cứu, 2017) H1: Tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa L1 với phát triển DLBV ở Nam Du. H2: Tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa L2 với phát triển DLBV ở Nam Du. H3: Tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa L3 với phát triển DLBV ở Nam Du. H4: Tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa L4 với phát triển DLBV ở Nam Du. H5: Tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa L5 với phát triển DLBV ở Nam Du. H6: Tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa L6 với phát triển DLBV ở Nam Du. Nghiên cứu sử dụng thang đo 5 mức độ để đo lường sự đánh giá của du khách: 1= Hoàn toàn không đồng ý, 2= Không đồng ý, 3= Trung lập, 4= Đồng ý, 5= Rất đồng ý. Có 6 tiêu chí và 44 biến đo lường được sử dụng để đánh giá các biến quan sát trong từng nhân tố. Các tiêu chí và biến quan sát cụ thể như sau: Bảng 1. Thang đo các tiêu chí trong mô hình nghiên cứu Phát triển du lịch bền vững Kinh tế L1 L2 L3 L4 L5 L6 Văn hóa Xã hội Môi trường Thể chế Sự hài lòng H1 H2 H3 H4 H5 H6 An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 100 Tiêu chí Kí hiệu Mô tả biến 1. Kinh tế X1 Nhiều người dân địa phương cải thiện được thu nhập nhờ vào du lịch X2 Nhiều người dân địa phương có việc làm từ du lịch X3 Kinh tế địa phương được cải thiện nhờ vào hoạt động du lịch X4 Một bộ phận người dân được giảm nghèo nhờ vào du lịch X5 Giá đất và giá dịch vụ tăng nhanh từ khi có du lịch X6 Giá cả hàng hóa tiêu dùng tại địa phương tăng cao từ khi có du lịch X7 Người dân nhận được các lợi ích từ du lịch không đồng đều X8 Một phần đảo được đầu tư phát triển du lịch, phần còn lại bị lãng quên 2. Xã hội X9 Người dân địa phương được đào tạo, tập huấn kiến thức và kỹ năng X10 Nhiều người dân di cư đến các đô thị tìm việc làm X11 Từ khi có hoạt động du lịch, tệ nạn xã hội có xu hướng tăng X12 Từ khi có hoạt động du lịch, tình trạng mất an ninh trật tự có xu hướng tăng X13 Từ khi có hoạt động du lịch, tình trạng ùn tắc và tai nạn giao thông tăng X14 Tình trạng đông đúc của du khách X15 Nhà nghỉ, khách sạn xây dựng theo kiến trúc hiện đại phá vỡ cảnh quan tự nhiên X16 Thiếu hệ thống cảnh báo, cứu hộ tại các bãi biển X17 Thiếu các hoạt động vui chơi giải trí cho du khách X18 Trẻ em bỏ học sớm để tham gia vào du lịch X19 Xuất hiện các dịch bệnh mới liên quan đến du lịch X20 Có trung tâm y tế dự phòng để kiểm soát các dịch bệnh liên quan đến du lịch 3. Văn hóa X21 Từ khi có hoạt động du lịch, các điểm di tích lịch sử - văn hóa càng được trùng tu và tôn tạo X22 Người dân địa phương thay đổi văn hóa truyền thống do tiếp nhận văn hóa của khách du lịch X23 Các di tích lịch sử, văn hóa của địa phương bị thay đổi so với dạng nguyên thủy X24 Thương mại hóa các sinh hoạt truyền thống địa phương để phục vụ du lịch X25 Người dân bỏ nghề truyền thống địa phương để làm du lịch 4. Môi trường X26 Rác thải chưa được thu gom và xử lý X27 Rác thải sinh hoạt của người dân bị vứt xuống biển X28 Nhiều rác thải từ du khách X29 Nhà nghỉ, quán ăn thiếu hệ thống xử lý nước thải An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 101 (Nguồn: Đề xuất của nhóm nghiên cứu, 2017) 2.2 Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu sơ cấp Dữ liệu sơ cấp được thu thập bằng cách khảo sát thông qua bảng hỏi đối với 128 người dân, đang sinh sống tại xã An Sơn, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang. Có nhiều cách để xác định cỡ mẫu tùy thuộc vào mô hình nghiên cứu của mỗi người. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008) cho rằng, cỡ mẫu ít nhất phải bằng 4 hay 5 lần số biến trong phân tích nhân tố. Theo Nguyễn Đình Thọ (năm 2011) để sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá, kích thước mẫu tối thiểu phải là 50, cỡ mẫu (n) = 100 thì tốt hơn. Về mặt kinh nghiệm, Hoyle (1995; trích dẫn bởi Li và Uysal, trong Sirakaya-Turk et al., 2011) đề nghị cỡ mẫu cho một nghiên cứu tối thiểu phải từ 100 đến 200. Do điều kiện địa điểm nghiên cứu cách xa đất liền, việc di chuyển đi lại tốn kém và người dân địa phương chỉ tập trung sinh sống ở Hòn Củ Tron, Hòn Ngang và Hòn Mấu, các hòn khác ít người sinh sống. Nhóm tác giả đã thu thập 128 mẫu, sau khi sàng lọc, loại bỏ 5 mẫu không đạt yêu cầu, còn lại 123 mẫu, số lượng mẫu đảm bảo ý nghĩa thống kê. Cách thức chọn mẫu phi xác suất theo kiểu thuận tiện. Thời gian lấy mẫu từ tháng 6 đến tháng 7 năm 2017. Dữ liệu từ bảng câu hỏi được mã hóa và nhập trên phần mềm SPSS (Statistical Package for the Social Sciences) phiên bản 20.0. Dữ liệu được phân tích bằng phương pháp thống kê mô tả (Descriptive Statistics), đánh giá độ tin cậy thang đo (Scale Reliability Analysis), phân tích nhân tố khám phá (Exploratory Factor Analysis). 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1 Khái quát mẫu nghiên cứu Kết quả khảo sát 123 người dân có 47,2% nam và 52,8% nữ, số lượng đáp viên có sự cân bằng giữa hai giới. Về độ tuổi nghiên cứu, từ 18 đến 29 tuổi chiếm 26,8%, từ 30 đến 41 tuổi chiếm 36,6%, từ X30 Thiếu nước ngọt sử dụng X31 Người dân sử dụng nguồn năng lượng mặt trời X32 Sức chứa của các bãi biển quá tải X33 Khai thác san hô bất hợp lý X35 Rừng được bảo vệ 5. Thể chế X36 Thiếu sự phối hợp giữa chính quyền địa phương và người dân trong việc tổ chức các hoạt động du lịch X37 Chính quyền có điều tra đánh giá chất lượng môi trường X38 Chính quyền có kiểm tra tình trạng cháy nổ tại các hộ kinh doanh du lịch X39 Chính quyền địa phương có kiểm tra về tình trạng cứu hộ, phao đảm bảo an toàn cho du khách đối với các phương tiện chuyên chở khách tham quan trên biển X40 Chính quyền địa phương khuyến khích người dân phát triển du lịch theo hướng bền vững 6. Sự hài lòng X41 Người dân hài lòng với hoạt động du lịch nơi đây X42 Thái độ du khách lịch thiệp thông cảm với người dân địa phương X43 Số khách quay trở lại vào những lần tiếp theo gia tăng X44 Thời gian hoạt động du lịch kéo dài An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 102 42 đến 53 tuổi chiếm 14,6%, trên 54 tuổi chiếm 22%. Về dân tộc, có 98,3% là người Kinh, còn lại là người Hoa. Về trình độ học vấn, số người được phỏng vấn có trình độ trung học cơ sở chiếm tỉ lệ cao nhất là 49,1%; tiếp đến là tiểu học 39,3% và trung học phổ thông 11,6%. Vì điều kiện biển đảo khó khăn nên phần lớn người dân tại đây có trình độ học vấn không cao. Kết quả khảo sát mẫu nghiên cứu có 58,5% người dân không tham gia vào hoạt động du lịch và có 41,5% người dân tham gia vào hoạt động du lịch, điều này cho thấy rằng du lịch là một ngành đang tạo ra cơ hội việc làm cho người dân trên đảo. Đa số đáp viên có thu nhập trung bình trên 6 triệu chiếm tỉ lệ 41,5%, kế đến là thu nhập trung bình từ 4 đến 5,9 triệu chiếm 23,6%, thu nhập trung bình từ 2 đến 3,9 triệu chiếm 22% và thu nhập trung bình dưới 2 triệu chiếm 13% tỉ lệ. Có đến 54,9% số người tham gia du lịch có thu nhập khá cao, trên 6 triệu/tháng, trong khi đó chỉ có khoảng 32% số người không tham gia du lịch có mức thu nhập này. Khi tiến hành kiểm định mối liên hệ giữa biến có tham gia du lịch hay không với biến thu nhập của người dân, cho kết quả Sig=0.037 < 0.05, điều này chứng minh rằng có mối liên hệ giữa hai biến trên, có thể kết luận rằng việc người dân có tham gia du lịch hay không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mức thu nhập trung bình của họ. 3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển DLBV đảo Nam Du Các thang đo được đánh giá độ tin cậy thông qua hệ số Cronbach’s Alpha và tương quan biến tổng (Item – Total Correlation). Hệ số Cronbach’s Alpha được dùng để loại các biến không đáng tin cậy. Các biến có hệ số tương quan biến tổng nhỏ hơn 0,3 sẽ bị loại (Nguyễn Đình Thọ, 2011). Thang đo sẽ đạt độ tin cậy khi hệ số Cronbach’s Alpha lớn hơn 0,6. Kết quả phân tích cho thấy có 13 biến bị loại ra khỏi mô hình vì hệ số tương quan biến – tổng hiệu chỉnh nhỏ hơn 0,3, còn lại 31 biến đủ điều kiện để tiến hành phân tích nhân tố. Bảng 2. Đánh giá độ tin cậy thang đo Kết quả từ kiểm định dữ liệu cho thấy, KMO = 0,613, Sig =0,000, tổng phương sai giải thích = 71,041% thỏa mãn điều kiện để phân tích nhân tố khám phá. Bảng 3. Kiểm định KMO và Bartlett’s Test (Nguồn: Phỏng vấn người dân địa phương tại xã An Sơn năm 2017, n = 123) Stt Nhân tố Cronbach’s Alpha Item – Total Correlation N of Items 1 Chỉ tiêu về kinh tế 0,677 0,321-0,455 8 2 Chỉ tiêu về xã hội 0,719 0,301-0,591 8 3 Chỉ tiêu về văn hóa 0,613 0,324-0,570 4 4 Chỉ tiêu về môi trường 0,777 0,544-0,663 3 5 Chỉ tiêu về thể chế 0,720 0,461-0,542 4 6 Chỉ tiêu về sự hài lòng 0,683 0,354-0,586 4 (Nguồn: Phỏng vấn người dân địa phương tại xã An Sơn năm 2017, n=123) Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. .613 Bartlett's Test of Sphericity Approx. Chi-Square 1221.014 Df 378 Sig. .000 An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 103 Bảng ma trận nhân tố xoay cho thấy có 10 nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững du lịch đảo Nam Du, bao gồm: F1 chịu sự tác động của 4 biến, được đặt tên là “tình trạng an ninh xã hội và tai nạn giao thông”. F2 chịu sự tác động của 4 biến, được đặt tên là “sự phát triển kinh tế”. F3 chịu sự tác động của 3 biến, được đặt tên là “tình trạng rác thải”. F4 chịu sự tác động của 4 biến, được đặt tên là “công tác quản lý của chính quyền địa phương”. F5 chịu sự tác động của 2 biến, được đặt tên là “quy hoạch phát triển và phân chia lợi ích du lịch”. F6 chịu sự tác động của 4 biến, được đặt tên là “giá trị văn hóa”. F7 chịu sự tác động của 4 biến, được đặt tên là “thời gian lưu trú dài và quyết định quay lại của du khách”. F8 chịu sự tác động của 2 biến, được đặt tên là “sự hài lòng”. F9 chịu sự tác động của 2 biến, được đặt tên là “giá cả hàng hóa và dịch vụ”. F10 chịu sự tác động của 1 biến, được đặt tên là “hệ thống cảnh báo và cứu hộ”. Bảng 3. Ma trận nhân tố xoay Biến quan sát Nhân tố 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 X12 0,767 X11 0,741 X13 0,660 X19 0,564 X1 0,793 X2 0,779 X4 0,657 X3 0,632 X27 0,868 X26 0,850 X28 0,733 X38 0,745 X37 0,716 X39 0,709 X40 0,558 X8 0,908 X7 0,832 X23 0,839 X18 0,622 X22 0,573 X21 0,545 X33 0,832 X34 0,823 An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 104 X42 0,888 X41 0,835 X5 0,760 X6 0,651 X16 0,758 (Nguồn: Phỏng vấn người dân địa phương tại xã An Sơn năm 2017, n = 123) Kết quả cho thấy có 10 nhân tố tạo nên sự phát triển bền vững du lịch đảo Nam Du. Tổng hợp kết quả ở Bảng 4. Bảng 4. Bảng điều chỉnh qua kiểm định Cronbach’s 𝛼 và phân tích nhân tố khám phá Stt Nhân tố Biến đặc trưng Giải thích nhân tố 1 F1 X12, X11, X13, X19 Tình trạng an ninh xã hội và tai nạn giao thông 2 F2 X1, X2, X4, X3 Sự phát triển kinh tế 3 F3 X27, X26, X28 Tình trạng rác thải 4 F4 X38, X37, X39, X40 Công tác quản lý của chính quyền địa phương 5 F5 X8, X7 Quy hoạch phát triển và phân chia lợi ích du lịch 6 F6 X23, X18, X22, X21 Giá trị văn hóa 7 F7 X43, X44 Lượng khách quay trở lại và thời gian hoạt động du lịch 8 F8 X42, X41 Sự hài lòng 9 F9 X5, X6 Giá cả hàng hóa và dịch vụ 10 F10 X16 Hệ thống cảnh báo và cứu hộ (Nguồn: Phỏng vấn người dân địa phương tại xã An Sơn năm 2017, n = 123) Để tính điểm số nhân tố cho từng trường hợp quan sát một, ta có phương trình (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008): Fi = Wi1X1 + Wi2X2 + Wi3X3 + Wi4X4 + + WikXk. Trong đó: Fi: ước lượng trị số của nhân tố thứ I; Wi: trọng số nhân tố; k: số biến. Bảng 5. Ma trận điểm số nhân tố Biến quan sát Nhân tố 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 X12 0,323 X11 0,309 X13 0,320 X19 0,209 X1 0,365 X2 0,352 X4 0,292 X3 0,277 An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 105 X27 0,411 X26 0,393 X28 0,332 X38 0,391 X37 0,372 X39 0,355 X40 0,262 X8 0,453 X7 0,380 X23 0,465 X18 0,290 X22 0,300 X21 0,290 X43 0,468 X44 0,469 X42 0,557 X41 0,484 X5 0,518 X6 0,410 X16 0,630 (Nguồn: Phỏng vấn người dân địa phương tại xã An Sơn năm 2017, n = 123) Dựa vào kết quả ma trận điểm số nhân tố, ta có các phương trình điểm số nhân tố sau: F1 = 0,323 X12 + 0,309 X11 + 0,320 X13 + 0,209 X19 Nhân tố 1, “tình trạng an ninh xã hội và tai nạn giao thông”, chịu sự tác động của 4 biến: X12, X11, X13 và X19. Trong đó, biến X12 và X13 tác động mạnh nhất do có điểm số nhân tố lớn nhất. Hiện nay, tình trạng an ninh xã hội và an toàn giao thông nhìn chung vẫn được đảm bảo ở mức khá tốt. Dù lượng du khách tăng nhanh, đặc biệt vào ngày nghỉ và cuối tuần thường tăng vọt nhưng ít có tình trạng giành giật, chặt chém khách, tệ nạn ăn xin, móc túi rất ít xảy ra. Đối với các biến như X12, X11, X13 và X19 đều được đánh giá ở mức thấp (lần lượt là 2.32, 2.41, 2.54, và 2.20), điều này càng chứng minh rằng sự phát triển du lịch ở Nam Du nhìn chung vẫn chưa gây nhiều tác động tiêu cực đến tình trạng an ninh xã hội cũng như vấn đề an toàn giao thông nơi đây. Trong tương lai, tình trạng này cần được duy trì và phát huy tốt hơn nữa. F2 = 0,365 X1 + 0,352 X2 + 0,292 X4 + 0,277 X3 Nhân tố 2, “sự phát triển kinh tế” chịu sự tác động của 4 biến: X1, X2, X4 và X3. Trong đó, biến X1 và X2 tác động mạnh nhất do có điểm số nhân tố lớn nhất. Kinh tế địa phương nhìn chung có nhiều chuyển biến tốt nhờ vào hoạt động du lịch. Theo thống kê của UBNDXAN (2017), doanh thu từ ngành dịch vụ du lịch của xã đã tăng từ 240,5 tỷ vào năm 2015 lên đến 375 tỷ vào năm 2016, tăng khoảng 135 tỷ trong một năm, nguyên nhân chủ yếu là nhờ du lịch phát triển, kéo theo nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ du lịch phát triển, thu An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 106 nhập của một bộ phận người dân được cải thiện rõ rệt, một bộ phận người dân thông qua hoạt động du lịch mà cải thiện đời sống, thoát nghèo. Đối với các biến X1, X2, X4 và X3, các chỉ số trung bình đều ở mức cao (lần lượt là 3.84, 3.87, 3.67 và 3.81), càng chứng minh du lịch đang có những tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế ở Nam Du. F3 = 0,411 X27 + 0,393 X26 + 0,332 X28 Nhân tố 3, “tình trạng rác thải” chịu sự tác động của 3 biến: X27, X26 và X28. Trong đó, biến X27 và X26 tác động mạnh nhất do có điểm số nhân tố lớn nhất. Vấn đề rác thải là một trong những vấn đề nan giải đang được đặt ra ở Nam Du, do đó các biến X27, X26 và X28 đều được đánh giá ở mức cao (lần lượt là 3.91, 3.90 và 3.54). Là quần đảo cách khá xa đất liền, trên đảo lại không có hệ thống xử lý rác thải nên rác thải phải được chuyển từ đảo vào đất liền, vừa tốn kém vừa mất thời gian. Thêm vào đó, du khách đến đây đông đúc, dẫn đến lượng rác thải sinh hoạt cũng tăng nhanh, vấn đề xử lý rác thải càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Một bộ phận người dân và du khách xử lý rác thải bằng cách quăng xuống biển, đều này gây mất mỹ quan và làm ô nhiễm môi trường. Nhiều bãi biển ở Nam Du có rác trôi bồng bềnh, tạo thành những bãi rác cục bộ cạnh bãi biển, làm mất đi vẻ đẹp trong lành vốn có ở đây. F4 = 0,391 X38 + 0,372 X37 + 0,355 X39 + 0,262 X40 Nhân tố 4, “công tác quản lý của chính quyền địa phương” chịu sự tác động của 4 biến: X38, X37, X39 và X40. Trong đó, biến X38 và X37 tác động mạnh nhất do có điểm số nhân tố lớn nhất. Chính quyền địa phương có những quan tâm nhất định đến phát triển du lịch của địa phương. Từ năm 2015, UBNDXAN bắt đầu quan tâm thống kê số lượt khách đến Nam Du, tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ cho người dân địa phương có tham gia vào hoạt động du lịch. Gần đây nhất là kết hợp với Trường Cao đẳng - Kinh tế - Kĩ thuật Lâm Đồng để tổ chức lớp hướng dẫn viên du lịch trong khoảng thời gian từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 12 năm 2017 cho người dân địa phương, nhằm cấp chứng chỉ sơ cấp hướng dẫn viên du lịch cho người dân địa phương. Chính quyền địa phương cũng rất quan tâm đến tình hình an toàn tại các hộ kinh doanh du lịch, kiểm tra thiết bị phòng chống cháy nổ ở hộ kinh doanh cũng như trên tàu vận chuyển khách du lịch, ban hành bảng giá dịch vụ cho các cơ sở kinh doanh du lịch. Nhìn chung, các biến X38, X37, X39 và X40 đều được đánh giá khá cao (3.54, 3.44, 3.76 và 3.67), chứng tỏ sự quan tâm của chính quyền địa phương đến sự phát triển du lịch tại địa phương, tuy nhiên hiện nay nơi đây vẫn có những kế hoạch phát triển, quy hoạch du lịch cụ thể trong thời gian dài. F5 = 0,453 X8 + 0,380 X7 Nhân tố 5, “quy hoạch phát triển và phân chia lợi ích du lịch” chịu sự tác động của 2 biến: X8 và X7. Trong đó, biến X8 tác động mạnh nhất do có điểm số nhân tố lớn nhất. Du lịch tác động tốt đến kinh tế địa phương, tuy nhiên hiện tại việc phân bổ nguồn lợi từ du lịch trong cộng đồng địa phương vẫn chưa đồng đều, bên cạnh một bộ phận người dân tăng thu nhập từ hoạt động du lịch thì vẫn còn một bộ phận chịu tác động tiêu cực, do không tham gia vào hoạt động du lịch và chịu ảnh hưởng từ việc giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng nhanh. Thêm vào đó, phát triển du lịch chỉ tập trung ở khu vực gần bến tàu đón khách, còn lại đa số ít phát triển. Các biến X8 và X7 đều được đánh giá ở mức cao (lần lượt là 3.8 và 4.02). F6 = 0,465 X23 + 0,290 X18 + 0,300 X22 + 0,290 X21 Nhân tố 6, “giá trị văn hóa” chịu sự tác động của 4 biến: X23, X18, X22 và X21. Trong đó, biến X23 và X22 tác động mạnh nhất do có điểm số nhân tố lớn nhất. Hiện tại, ở Nam Du có ba lễ hội lớn là lễ hội Bà Chúa Xứ, lễ cúng Lăng Ông và lễ cúng Ông Bổn, vào các ngày lễ hội diễn ra có khá đông du khách tham gia, từ đó làm tăng thêm tính quy mô của lễ hội, hiện tại hoạt động du lịch chưa tác động đến văn hóa tín ngưỡng địa phương, không xuất hiện loại hình thương mại hóa các văn hóa, tín ngưỡng địa phương để phục vụ cho phát triển An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 107 du lịch. Người dân trùng tu, tôn tạo di tích vì niềm tin tín ngưỡng chứ không nhằm thu hút du lịch, các biến X22 và X21 đều được đánh giá ở mức trung bình (3.0 và 3.23). Hoạt động du lịch chỉ mới diễn ra mạnh trong vài năm gần đây nên hầu như vẫn chưa tác động mạnh đến văn hóa bản địa của địa phương, người dân vẫn lưu giữ được những giá trị văn hóa truyền thống, ở Nam Du cũng rất ít trường hợp trẻ em bỏ học để tham gia hoạt động du lịch, các biến X23, X18 được đánh giá ở mức thấp (lần lượt là 2.76 và 2.5). F7 = 0,468 X33 + 0,469 X34 Nhân tố 7, “lượng khách du lịch trở lại Nam Du và thời gian hoạt động du lịch” chịu sự tác động của 2 biến: X33 và X34. Trong đó, biến X34 tác động mạnh nhất. Hiện tại, Nam Du vẫn còn là điểm du lịch mới, đang thu hút du khách, phong cảnh còn mang vẻ hoang sơ, giá cả dịch vụ chưa quá cao, tình hình an ninh trật tự còn khá tốt nên du khách đến lần đầu thường có xu hướng mong muốn quay lại, đồng thời mong muốn sẽ kéo dài thời gian nghỉ lại, các biến X33 và X34 đều được đánh giá khá cao (3.73 và 3.72). F8 = 0,557 X42 + 0,484 X41 Nhân tố 8, “sự hài lòng” chịu sự tác động của 2 biến: X42 và X41 Trong đó, biến X42 tác động mạnh nhất. Nhìn chung, đa phần du khách cảm thấy hài lòng với hoạt động du lịch tại Nam Du bởi sự thân thiện của người dân địa phương, phong cảnh tự nhiên đẹp, giá cả dịch vụ chưa cao, các biến X42 và X41 đều được đánh giá ở mức cao (3.85 và 3.79). F9 = 0,518 X5 + 0,410 X6 Nhân tố 9, “giá cả hàng hóa và dịch vụ” chịu sự tác động của 2 biến: X5 và X6. Trong đó, biến X5 tác động mạnh nhất. Du lịch phát triển thường kéo theo giá đất, giá dịch vụ, giá cả hàng hóa tiêu dùng ở đó tăng cao hơn so với bình thường. Ở Nam Du, đối với những khu vực trung tâm, có đông du khách, giá đất tăng khá nhanh, thêm vào đó các mặt hàng hóa cũng tăng nhanh do nhu cầu tăng cao khi khách đến, vào các ngày cuối tuần khi đông khách thì giá thu mua hải sản của các thương lái cũng cao hơn, giúp ngư dân ở đây bán được giá nhưng người mua ở địa phương lại phải chi nhiều tiền hơn mới mua được sản phẩm. Các biến X5 và X6 có chỉ số trung bình cao (3.74 và 3.68) phần nào đã chứng minh được những tác động của du lịch đến giá cả ở địa phương. F10 = 0,630 X16 Nhân tố 10, “hệ thống cảnh báo và cứu hộ” chỉ chịu sự tác động của biến X16. Ở các bãi biển của Nam Du hiện nay vẫn chưa có các hệ thống cứu hộ, chủ yếu là người dân địa phương khi đảm nhận nhiệm vụ chở du khách đi tham quan sẽ có sự nhắc nhở, cảnh báo du khách những khu vực biển sâu, cần chú ý, cũng như giúp đỡ du khách khi xảy ra sự cố, biến X16 được đánh giá ở mức trung bình (3.33). 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng có 10 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển DLBV đảo Nam Du là: “tình trạng an ninh xã hội và tai nạn giao thông”, “sự phát triển kinh tế”, “tình trạng rác thải”, “công tác quản lý của chính quyền địa phương”, “quy hoạch phát triển và phân chia lợi ích du lịch”, “giá trị văn hóa”, “lượng khách du lịch trở lại Nam Du và thời gian hoạt động du lịch”, “sự hài lòng”, “giá cả hàng hóa và dịch vụ”, “hệ thống cảnh báo và cứu hộ”. Vấn đề rác thải từ sinh hoạt bị người dân vứt xuống biển mà chưa có biện pháp xử lý là cần được quan tâm. Do đó để phát triển du lịch Nam Du theo hướng bền vững, cần có sự liên kết của chính quyền địa phương, người dân, khách du lịch và công ty du lịch, từ đó nâng cao nhận thức của người dân và du khách trong việc bảo vệ môi trường biển và giữ gìn các nét văn hoá của địa phương. Tác giả xin đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch Nam Du theo hướng bền vững như sau: Giải pháp về tình trạng an ninh xã hội và an toàn du lịch: Hệ thống giao thông trên đảo cần được nâng cấp và mở rộng để du khách dễ dàng di chuyển, nên có bãi để xe tại khu vực xã An Sơn nhằm tránh ùn tắc. Chính quyền cần thành lập đội tuần tra tại các địa điểm như: Bãi Ngự, Bãi Sỏi, An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 108 Hòn Mấu, Hòn Lớn, Hòn Ngang những nơi có nhiều du khách để đảm bảo an ninh trật tự và tránh xảy ra những tệ nạn xã hội làm ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch tại đảo. Đảo cần có tàu cứu hộ để vận chuyển du khách khi gặp tình huống nguy hiểm. Các bãi biển nên có biển cấm, biển báo nguy hiểm để cảnh báo du khách và đảm bảo an toàn về người và tài sản Giải pháp về phát triển kinh tế: Giá cả hàng hóa trên đảo nên được điều chỉnh hợp lý và có bảng giá quy định rõ ràng như giá các mặt hàng lưu niệm, giá tàu tham quan du lịch, giá thức ăn, giá đồ uống. Chính quyền địa phương nên có chính sách hỗ trợ vốn cho người dân kinh doanh hoạt động du lịch để tạo việc làm và tăng thêm thu nhập cho kinh tế địa phương. Khuyến khích các bộ phận dân cư tham gia các hoạt động kinh doanh du lịch ở các lĩnh vực khác nhau để có sự phân chia lợi ích đồng đều trong cộng đồng địa phương. Giải pháp về tình trạng rác thải: chính quyền địa phương cần tuyên truyền, nâng cao ý thức đến người dân và du khách trong việc bảo việc môi trường quanh đảo. Xây dựng hệ thống xử lý rác thải, cơ sở tái chế rác thải và trang bị thêm nhiều thùng rác quanh đảo tạo điều kiện để người dân và du khách có nơi để rác đúng quy định; nên có biện pháp xử lý các hành vi thải nước thải trực tiếp xuống biển của các hộ kinh doanh du lịch; có chính sách phân loại rác thải và xây dựng quy trình xử lý thích hợp; có thể xử lý rác thải bằng các phương pháp như: chôn lấp hợp vệ sinh, thiêu đốt, chế biến thành phân ủ để dùng trong nông nghiệp. Giải pháp về công tác quản lý của chính quyền địa phương và cơ sở hạ tầng: đẩy mạnh các chính sách quảng bá nhằm cung cấp thông tin du lịch của địa phương tới du khách. Chính quyền kêu gọi đầu tư để xây dựng và nâng cao cơ sở hạ tầng trên đảo, đáp ứng đủ nhu cầu cho người dân và du khách. Hỗ trợ và tư vấn người dân phát triển loại hình du lịch làng nghề, nuôi trồng thủy sản để tăng thêm thu nhập và cải thiện kinh tế. Tổ chức các tuyến du lịch trên đảo trên cơ sở kết nối các sản phẩm du lịch đặc trưng, khai thác một số tour mới như: tour du lịch khám phá Hải Đăng Nam Du bằng xe đạp; tour du lịch cho du khách trải nghiệm làm ngư dân; tour du lịch nghỉ ngơi kết hợp giải trí như đánh bóng chuyền bãi biển, chèo thuyền trên cát hay chơi teambuilding, kết nối Nam Du với các trung tâm du lịch khác. Con đường quanh đảo cần được đầu tư và nâng cấp để phát triển loại hình du lịch đi quanh đảo bằng xe đạp tạo cảm giác gần gũi với thiên nhiên cho du khách. Đảo cần có một bệnh viện lớn để có thể khám chữa bệnh và kiểm soát dịch bệnh liên quan đến du lịch tại đảo. Cần đầu tư xây dựng cảng biển để phân chia nơi neo đậu giữa tàu khách du lịch và tàu đánh cá của ngư dân nhằm giảm thiểu tình trạng đông đúc du khách trên cầu cảng. TÀI LIỆU THAM KHẢO Cooper, C. (2000). Tourism – Principles and Practice. London: Longman publication Hardy, A., & Beeton, R. (2001). Sustainable tourism or maintainable tourism: Managing resources for more than average outcomes. Journal of Sustainable Tourism, 9(3), 168-92. https://doi.org/10.1080/09669580108667397 Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc. (2008). Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS (tập 1& 2). Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Hồng Đức. Kristina & Sandaa. (2010). Sustainable tourism development. Croatia: Faculty of Economics. Machado, A. (2003). Tourism and Sustainable Development, Capacity Building for Tourism Development in VietNam. VietNam: VNAT and FUDESO. Nguyễn Văn Dung. (2010). Phương pháp nghiên cứu trong kinh doanh (Nguyễn Văn Dung, Biên dịch). Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tài chính. (Quyển sách gốc được xuất bản năm 2000). Nguyễn Đình Hoè & Vũ Văn Hiếu. (2004). Du lịch bền vững. Hà Nội: Nhà xuất bản Quốc Gia. Nguyễn Đình Thọ. (2011). Phương pháp thống kê trong nghiên cứu xã hội. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ. An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 109 Ritchie, J. (1999). Crafting a value-driven vision for a national tourism treasure. Tourism Management, 20(3), 273-82. https://doi.org/10.1016/S0261-5177(98)00123-X Simpson, K. (2001). Strategic planning and community involvement as contributors to sustainable tourism development. Current Issues in Tourism, 4 (1), 3-41. https://doi.org/10.1080/13683500108667880 Sirakaya, E., Uysal, M., Hammitt, W., & Vaske, J. (2011). Research Methods for Leisure, Recreation and Tourism. Cambridge: Cambridge University Press. United Nations. (2003). Earth Summit Agenda 21. New York: United Nations. Uỷ ban Nhân dân xã An Sơn. (2017). Số liệu thống kê của Ủy ban Nhân dân xã An Sơn năm 2017. Welford, R, & Ytterhus, B. (2004). Sustainable development and tourism destination management: A case study of the Lillehammer region, Norway. International Journal of Sustainable Development and World Ecology, 11(4), 410-22. https://doi.org/10.1080/13504500409469843 World Tourism Organization. (1993). Sustainable Tourism Development: Guide for Local Planners, World Tourism Organization: Madrid. World Tourism Organization. (2004). Indicators of Sustainable Development for Tourism Destinations: A Guidebook, World Tourism Organization: Madrid.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhung_nhan_to_anh_huong_den_su_phat_trien_du_lich_ben_vung_t.pdf