Quy định quản lý nhà nước về công tác
hoà giải
Có quan điểm cho rằng, Dự án Luật Hòa giải
ở cơ sở chỉ quy định những nội dung chủ yếu
về QLNN đối với công tác hòa giải ở cơ sở mà
không quy định chi tiết nhiệm vụ, trách nhiệm
QLNN về công tác hòa giải của các ngành, các
cấp và giao cho Chính phủ ban hành Nghị định
quy định chi tiết các vấn đề này. Quan điểm thứ
hai cho rằng, Dự án Luật cần quy định cụ thể
nội dung QLNN và phân cấp, quy định chi tiết
nhiệm vụ, trách nhiệm QLNN của các ngành,
các cấp để ngay sau khi Luật có hiệu lực thi
hành thì triển khai thực hiện được ngay, khắc
phục tình trạng Luật muốn thi hành được phải
chờ Nghị định hướng dẫn. Theo chúng tôi, Dự
án Luật Hòa giải ở cơ sở nên quy định chi tiết
ngay những nội dung cần điều chỉnh. Cụ thể, Dự
án Luật Hòa giải ở cơ sở cần dành một chương
quy định về QLNN công tác hòa giải ở cơ sở,
gồm các nội dung sau đây:
- Nội dung QLNN về công tác hoà giải: ban
hành cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp
luật về tổ chức và hoạt động hoà giải; tổ chức và
theo dõi việc thực hiện các chính sách và pháp
luật đó; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc xây
dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức và nghiệp vụ
hoạt động hoà giải ở cơ sở; tổ chức bồi dưỡng
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, nâng cao nghiệp vụ và kỹ năng hoà
giải cho người thực hiện hoà giải; tạo điều kiện
về cơ sở vật chất, kinh phí hỗ trợ hoạt động hòa
giải và cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật
phục vụ công tác hòa giải ở cơ sở; sơ kết, tổng
kết công tác hoà giải ở cơ sở và báo cáo về công
tác hoà giải với cơ quan có thẩm quyền; tổ chức
thi đua, khen thưởng công tác hoà giải của Tổ
hoà giải.
- Cơ quan QLNN về công tác hòa giải ở cơ
sở: Chính phủ thống nhất QLNN về công tác
hoà giải trong phạm vi cả nước; Bộ Tư pháp
giúp Chính phủ thực hiện QLNN về công tác
hoà giải ở cơ sở; chỉ đạo và hướng dẫn UBND
các cấp thực hiện QLNN về công tác hoà giải
ở địa phương; UBND các cấp thực hiện QLNN
về công tác hoà giải theo sự chỉ đạo và hướng
dẫn của Bộ Tư pháp. Các cơ quan tư pháp địa
phương giúp UBND cùng cấp QLNN về công
tác hoà giải ở địa phương.
Căn cứ tình hình cụ thể và khả năng ngân
sách của địa phương, UBND các cấp tạo điều
kiện, hỗ trợ về kinh phí cho việc kiện toàn tổ
chức, bồi dưỡng nghiệp vụ, sơ kết, tổng kết, thi
đua, khen thưởng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động hoà giải ở địa phương.
Ngoài ra, cần có quy định Ủy ban Trung
ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam động viên,
khuyến khích các tổ chức thành viên phối hợp
với các cơ quan nhà nước tham gia quản lý và
thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 204 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những nội dung cần điều chỉnh của dự án luật hòa giải ở cơ sở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
30 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 16(201) 82011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
1. Xác định khái niệm hòa giải ở cơ sở
Trên thế giới có nhiều quan niệm về hoà
giải. Theo Hiệp hội hoà giải Hoa Kỳ thì “hoà
giải là một quá trình, trong đó bên thứ ba giúp
hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng
giải quyết vấn đề của họ”1. Theo quan niệm
này, người hoà giải không tham gia sâu vào
việc thoả thuận giải quyết tranh chấp của các
bên. Vai trò chủ yếu của người hoà giải là làm
trung gian, giúp cho hai bên tranh chấp tự
nguyện ngồi lại với nhau, tạo điều kiện cho họ
duy trì đối thoại và thương lượng giải quyết
mâu thuẫn, bất đồng.
Từ điển thuật ngữ của ILO/EASMAT về
quan hệ lao động và các vấn đề liên quan coi
“Hoà giải là sự tiếp nối của quá trình thương
lượng trong đó các bên cố gắng làm điều hoà
những ý kiến bất đồng. Bên thứ ba đóng vai
trò người trung gian hoàn toàn độc lập với hai
bên..., không có quyền áp đặt..., hành động như
một người môi giới, giúp hai bên ngồi lại với
nhau và tìm cách đưa các bên tranh chấp tới
những điểm mà họ có thể thoả thuận được”2.
Theo Từ điển tiếng Việt, hoà giải được
hiểu là “hành vi thuyết phục các bên đồng ý
chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách
ổn thoả”3. Quan niệm này nêu lên phương thức
và mục đích của hoà giải nhưng chưa khái quát
được bản chất, nội dung và các yếu tố cấu thành
các loại hình hoà giải. Trong lý luận cũng như
Sau 12 năm tổ chức thực hiện Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở năm 1998 (Pháp lệnh
năm 1998), tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở đã ngày càng phát triển và khẳng định được vị trí, vai trò của
mình trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, Pháp lệnh năm 1998 có một số quy định còn mang tính chất khái quát
và chưa điều chỉnh toàn diện các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hòa giải, cần được nghiên cứu, quy
định cụ thể làm cơ sở pháp lý cho việc củng cố, kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ
sở trong Luật Hòa giải ở cơ sở đang được xây dựng.
(*) TS. Bộ Tư pháp.
(**) ThS. Sở Nội vụ TP. Hà Nội.
(1) Tài liệu hướng dẫn Tập huấn Trọng tài lao động, Bộ Lao động, Thương binh và xã hội, tháng 5/1997.
(2) Tlđd
(3) Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.
NHỮNG NỘI DUNG CầN ĐIỀU CHỈNH
CỦA DỰ ÁN LUẬT HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
TRầN HUY LIỆU*
LƯU TIẾN MINH**
Số 16(201) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 318
2011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
trong thực tiễn, các luật gia cho rằng, khó có
thể đưa ra một khái niệm hoà giải chung cho
tất cả các loại hình hoà giải trong đời sống xã
hội, vì mỗi một loại hình hoà giải đều có đối
tượng, trình tự, thủ tục hoà giải, chủ thể tham
gia quan hệ hoà giải khác nhau.
Điều 1 Pháp lệnh năm 1998 quy định: Hòa
giải ở cơ sở được thực hiện thông qua hoạt
động của Tổ hòa giải hoặc các tổ chức thích
hợp khác của nhân dân ở thôn, xóm, bản, ấp,
tổ dân phố và các cụm dân cư khác để hướng
dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp
đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với
nhau những vi phạm pháp luật và tranh chấp
nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân
dân, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật,
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng
đồng dân cư. Xét về mặt bản chất, quy định
này chưa thật chuẩn xác, bởi hoạt động hòa
giải do con người cụ thể là tổ viên Tổ hòa giải
thực hiện chứ không phải là Tổ hòa giải thực
hiện. Để đưa ra khái niệm về hòa giải ở cơ sở
một cách khái quát, mang tính khoa học, phù
hợp với thực tiễn, cần nghiên cứu một cách
toàn diện bản chất của quan hệ hòa giải, cơ sở
pháp lý và đặc điểm tổ chức và hoạt động hoà
giải ở cơ sở trong thời gian qua.
- Hoạt động hoà giải của Tổ hoà giải là một
hình thức “giải quyết những vi phạm pháp luật
và tranh chấp nhỏ trong nhân dân”. Tổ hoà
giải hiện nay không phải là một tổ chức chính
quyền mà là một tổ chức quần chúng của nhân
dân, do nhân dân cử ra và được thành lập theo
đơn vị dân cư ở cơ sở: xóm, thôn, làng, bản,
ấp, tổ dân phố, cụm dân cư v.v..
- Xuất phát từ vị trí, vai trò của Tổ hoà
giải là tổ chức quần chúng của nhân dân, do
nhân dân lập nên ở cơ sở, nên số lượng, cơ cấu
thành viên của các Tổ hoà giải thường có từ
3 đến 8 tổ viên tùy theo đặc điểm cụ thể của
từng cụm dân cư. Cơ cấu tổ viên của Tổ hoà
giải rất phong phú cả về giới tính và cơ cấu
xã hội: có nam, có nữ; có già, có trẻ; có Đảng
viên, Đoàn viên; có đại diện của tất cả các tổ
chức chính trị - xã hội trong cộng đồng dân cư
ở địa phương.
- Việc hoà giải, giải quyết những vi phạm
pháp luật (VPPL) và tranh chấp nhỏ trong nhân
dân do Tổ viên Tổ hoà giải thực hiện. Trong
hoạt động hoà giải, các bên tranh chấp cần đến
một bên thứ ba (sau đây gọi là Hoà giải viên)
làm trung gian, giúp họ đạt được một thỏa
thuận, giải quyết được những bất đồng. Trong
quá trình hoà giải, Hoà giải viên có vai trò
trung lập, khách quan, vận dụng pháp luật, đạo
đức xã hội và phong tục tập quán tốt đẹp của
nhân dân ta, để giải thích, hướng dẫn, giúp đỡ
và thuyết phục các bên tranh chấp tự nguyện
giải quyết với nhau những VPPL và tranh chấp
nhỏ, xoá bỏ mâu thuẫn, bất đồng và đạt được
thoả thuận phù hợp với pháp luật và đạo đức
xã hội, nhằm giữ gìn sự đoàn kết trong nội bộ
nhân dân, góp phần phòng ngừa và hạn chế
VPPL, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn
xã hội trong cộng đồng dân cư.
- Hoà giải viên không phải là công chức
nhà nước, là người được nhân dân ở cơ sở lựa
chọn cử ra, đại diện cho các giới, các tổ chức,
đoàn thể của nhân dân ở cơ sở và được chính
quyền phường, xã, thị trấn công nhận. Đó là
những người có phẩm chất đạo đức tốt, có uy
tín trong nhân dân; có tinh thần trách nhiệm,
nhiệt tình và tự nguyện tham gia công tác hoà
giải; có hiểu biết nhất định về kiến thức xã hội
và kinh nghiệm sống; có khả năng thuyết phục,
vận động quần chúng thực hiện chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước và được bồi
dưỡng một số kiến thức pháp luật nhất định
phục vụ cho công tác hoà giải ở cơ sở.
- Thẩm quyền của Tổ hoà giải là hoà giải
những VPPL và những tranh chấp nhỏ trong
nhân dân. Thông qua hoạt động hoà giải mà
Tổ hoà giải tuyên truyền, phổ biến, giáo dục,
nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, đồng
thời thuyết phục, vận động nhân dân chấp
hành các chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước.
- Về trình tự, thủ tục hoà giải không quy
định bắt buộc và không có một khuôn mẫu
thống nhất. Tuỳ thuộc đối tượng, tính chất
vụ việc, điều kiện mâu thuẫn và quan hệ gia
đình, xã hội... của các bên tranh chấp mà Hoà
32 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 16(201) 82011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
giải viên lựa chọn phương pháp, cách thức, kỹ
năng hoà giải phù hợp.
- Phương pháp tiến hành hoà giải của phần
lớn các Tổ hoà giải vẫn thường áp dụng là dùng
uy tín của Hoà giải viên, trên cơ sở pháp luật và
đạo đức xã hội để giải thích, thuyết phục, giáo
dục, cảm hoá, động viên các bên tranh chấp
tự hoà giải, đi đến thoả thuận giải quyết tranh
chấp, mâu thuẫn và những bất đồng với phương
châm kiên trì và bền bỉ không có giới hạn.
Từ những đặc điểm về tổ chức và hoạt động
hoà giải của Tổ hoà giải đã phân tích trên đây,
kế thừa những điểm hợp lý của hòa giải ở cơ
sở quy định tại Điều 1 Pháp lệnh năm 1998,
có thể xác định khái niệm: Hoà giải ở cơ sở
là việc Hoà giải viên vận dụng pháp luật, đạo
đức xã hội để giải thích, hướng dẫn, giúp đỡ,
thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thoả
thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những
VPPL và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn
kết trong nội bộ nhân dân, phòng ngừa, hạn
chế VPPL, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự,
an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.
2. Quy định nguyên tắc hoà giải
Nguyên tắc hòa giải là những quan điểm, tư
tưởng chủ đạo được áp dụng xuyên suốt trong
quá trình tiến hành hòa giải. Pháp lệnh năm
1998 đã quy định một số nguyên tắc tiến hành
hòa giải có thể kế thừa nhưng cần cụ thể hóa
thêm cho dễ thực hiện. Cụ thể, trong hoạt động
hoà giải phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
- Tuân thủ pháp luật, đạo đức xã hội và
phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân.
Nguyên tắc này đòi hỏi người tiến hành hòa
giải đưa ra lời khuyên, giải thích, hướng dẫn
các bên tranh chấp tự giải quyết tranh chấp và
các bên thỏa thuận với nhau về cách giải quyết
phải phù hợp với đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội
và phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân.
- Tôn trọng sự tự nguyện của các bên, không
áp đặt, bắt buộc các bên tranh chấp phải tiến
hành hoà giải. Bản chất của hoà giải ở cơ sở là
việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên
tranh chấp tự nguyện tham gia thương lượng
và giải quyết với nhau những tranh chấp, bất
đồng. Sự tự nguyện (tự do ý chí) của các bên
thể hiện ở việc các bên tự nguyện thoả thuận
về lựa chọn phương pháp giải quyết, lựa chọn
người tham gia hoà giải, tự do thảo luận, đề
xuất giải pháp, thoả thuận chấp nhận ý kiến tư
vấn, giải quyết của Hoà giải viên. Vì vậy, mọi
tác động đến sự tự do ý chí của các bên như
cưỡng ép, làm cho một trong hai bên bị lừa dối
hay nhầm lẫn đều không thể hiện đầy đủ tính
tự nguyện của các bên.
- Khách quan, công minh, có lý, có tình.
Nguyên tắc này đòi hỏi Hoà giải viên phải
khách quan, vô tư, công minh bảo đảm giải
quyết tranh chấp một cách công bằng, bình
đẳng, quan tâm đến lợi ích của các bên tranh
chấp, không thiên vị vì lợi ích của bên này mà
bỏ qua lợi ích của bên kia, nhằm xây dựng
niềm tin, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau để các
bên biết kiềm chế, nhường nhịn nhau, đạt được
thoả thuận, đi đến hoà giải thành.
Hoạt động hoà giải ở cơ sở đòi hỏi phải
tuân thủ nguyên tắc có lý, có tình, nghĩa là hoà
giải phải dựa trên cơ sở pháp luật và đạo đức
xã hội. Trước hết cần đề cao yếu tố tình cảm,
dựa vào đạo đức xã hội để phân tích, khuyên
nhủ các bên ứng xử phù hợp với chuẩn mực
đạo đức: như con cái phải có hiếu với cha mẹ;
anh chị em phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn
nhau; vợ chồng sống với nhau phải có tình, có
nghĩa; đối với xóm giềng thì “tối lửa tắt đèn có
nhau” Cùng với việc giải thích, thuyết phục
các bên ứng xử phù hợp với các quy tắc đạo đức
xã hội, Hoà giải viên phải dựa vào pháp luật để
phân tích, tư vấn pháp luật, đưa ra những lời
khuyên và hướng dẫn các bên thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ
nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm
và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình
và cộng đồng, phòng ngừa, hạn chế VPPL, bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng
dân cư.
- Giữ bí mật thông tin đời tư của các bên
tranh chấp. Trong quá trình thực hiện hoà giải,
Hoà giải viên phải giữ bí mật thông tin về đời
Số 16(201) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 338
2011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
tư của các bên tranh chấp. Khi đã được các bên
tranh chấp tin tưởng và thổ lộ bí mật thông tin
về đời tư có tính nhạy cảm của mình cho Hoà
giải viên, thì Hoà giải viên không được tiết lộ
thông tin đó cho người khác. Điều đáng lưu ý
ở đây là cần phân biệt giữa bí mật thông tin
đời tư với thông tin bí mật của cá nhân các bên
tranh chấp về hành vi bất hợp pháp mà họ đã
thực hiện và thổ lộ với người làm công tác hoà
giải trong tình huống đặc biệt nào đó.
- Tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác, không xâm phạm lợi ích của Nhà
nước và lợi ích công cộng. Trong mọi trường
hợp, Hoà giải viên không chỉ giúp các bên giải
quyết tranh chấp mà còn góp phần giáo dục
ý thức tôn trọng pháp luật của công dân. Khi
hướng dẫn các bên thoả thuận giải quyết tranh
chấp không được trái với quy định của pháp
luật và không lợi dụng hoà giải để làm thiệt hại
đến lợi ích của người thứ ba, lợi ích của Nhà
nước, lợi ích công cộng.
Các tranh chấp, xích mích trong đời sống
sinh hoạt hàng ngày của cộng đồng dân cư như
sử dụng lối đi chung, sử dụng điện, nước sinh
hoạt, đổ rác thải làm mất vệ sinh môi trường,...
thường liên quan đến nhiều người khác ngoài
các bên tranh chấp. Hoà giải viên không thể vì
mục đích đạt được hoà giải thành của các bên
tranh chấp mà hướng dẫn các bên hoặc đồng
tình với thỏa thuận của các bên xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của bất kỳ người nào
khác hoặc xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi
ích công cộng.
- Kịp thời, chủ động, kiên trì nhằm ngăn
chặn VPPL, hạn chế những hậu quả xấu khác
có thể xảy ra và đạt được kết quả hoà giải.
Khác với các loại hình hoà giải khác, pháp
luật không quy định thời hạn tiến hành hoà
giải. Thực tiễn hoạt động hoà giải cho thấy,
có nhiều việc tranh chấp trong cộng đồng dân
cư diễn ra trong một thời gian dài, đòi hỏi Hoà
giải viên phải chủ động, kiên trì, tranh thủ từng
thời điểm thích hợp để gặp gỡ các bên, dần dần
mới thuyết phục được các bên tranh chấp ngồi
lại với nhau để tự giải quyết.
Việc hoà giải chỉ kết thúc khi các bên đã đạt
được thoả thuận và tự nguyện thực hiện thoả
thuận đó hoặc các bên không đạt được thoả
thuận. Đối với tranh chấp phức tạp, mâu thuẫn
giữa các bên gay gắt, có thể gây hậu quả xấu,
ảnh hưởng tới an ninh, trật tự trong địa bàn dân
cư thì Hoà giải viên phải kịp thời báo cáo cho
Tổ trưởng Tổ hoà giải để kiến nghị cơ quan có
thẩm quyền có biện pháp giải quyết.
- Để bảo đảm cho hoạt động hòa giải được
thực hiện theo đúng nguyên tắc và tránh sai
phạm trong quá trình hòa giải, Dự án Luật
Hòa giải ở cơ sở cần có quy định cấm Hoà
giải viên và các bên tranh chấp thực hiện
hành vi sau đây: thực hiện hoà giải không phù
hợp với pháp luật và đạo đức xã hội; xúi giục
các bên khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo trái pháp
luật; lợi dụng hoạt động hoà giải để trục lợi
hoặc hoạt động trái pháp luật, trái đạo đức xã
hội, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người thứ ba hoặc xâm phạm lợi ích của
Nhà nước và lợi ích của cộng đồng; lợi dụng
hoạt động hoà giải để trốn tránh trách nhiệm
hình sự hoặc xử phạt vi phạm hành chính mà
theo quy định của pháp luật vụ việc phải bị
xử lý về mặt hình sự hoặc xử phạt vi phạm
hành chính; tiết lộ thông tin về đời tư của các
bên tranh chấp mà Hoà giải viên hoặc các bên
biết được trong quá trình thực hiện hoà giải,
trừ trường hợp các bên đồng ý hoặc pháp luật
có quy định khác; hòa giải các loại vụ việc
không được hòa giải.
3. Quy định phạm vi hoà giải
3.1. Hoà giải được tiến hành đối với việc
VPPL và tranh chấp nhỏ trong cộng đồng
dân cư, bao gồm:
- Mâu thuẫn, xích mích giữa các cá nhân
với nhau (mâu thuẫn, xích mích giữa các
thành viên trong gia đình hoặc xích mích giữa
các cá nhân trong quan hệ xóm giềng như sử
dụng lối đi chung, sử dụng điện, nước, công
trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh
chung v.v..);
- Tranh chấp về quyền, lợi ích phát sinh từ
quan hệ dân sự như tranh chấp phát sinh từ
các quan hệ về tài sản, quan hệ hợp đồng dân
34 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 16(201) 82011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
sự, nghĩa vụ dân sự, thừa kế, quyền sử dụng
đất v.v..;
- Tranh chấp về quyền, lợi ích phát sinh từ
quan hệ hôn nhân và gia đình như: thực hiện
quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng; quyền và
nghĩa vụ của cha mẹ và con; nhận nuôi con
nuôi; ly hôn; yêu cầu cấp dưỡng v.v..;
- Tranh chấp phát sinh từ những việc VPPL
mà theo quy định của pháp luật, những việc
vi phạm đó chưa đến mức bị xử lý bằng biện
pháp hình sự hoặc biện pháp hành chính như
trộm cắp vặt, đánh chửi nhau gây mất trật tự
công cộng, đánh nhau gây thương tích nhẹ, va
quệt xe cộ gây thương tích nhẹ.
- Các hành vi VPPL hình sự mà người bị
hại đã không yêu cầu hoặc rút yêu cầu khởi
tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự, Viện Kiểm sát hoặc Toà
án không tiếp tục tiến hành việc tố tụng và
không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử
lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật đối với các hành vi như cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác.
3.2. Quy định các loại vụ, việc không được
hoà giải:
- Tội phạm hình sự phải xử lý về hình sự
hoặc bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử
lý hành chính theo quy định của pháp luật;
- Hành vi VPPL bị xử lý hành chính: hành
vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản
lý nhà nước (QLNN) mà chưa đến mức truy
cứu trách nhiệm hình sự và bị xử lý vi phạm
hành chính; hành vi VPPL về an ninh, trật tự,
an toàn xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự và bị áp dụng các biện
pháp xử lý vi phạm hành chính như giáo dục
tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo
dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở
chữa bệnh; quản chế hành chính.
- VPPL và các tranh chấp mà theo quy
định của pháp luật thì không được hoà giải
như: kết hôn trái pháp luật; tranh chấp gây
thiệt hại đến tài sản nhà nước; tranh chấp phát
sinh từ giao dịch trái pháp luật và tranh chấp
về lao động.
4. Quy định về Tổ hoà giải ở cơ sở
Pháp lệnh năm 1998 chỉ quy định thành lập
Tổ hòa giải ở thôn, xóm, bản, ấp..., và chưa
quy định rõ quyền và nghĩa vụ của Tổ hòa giải
ở cơ sở. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động
hòa giải ở cơ sở, một số địa phương ở các tỉnh
phía Nam hình thành hòa giải ở 2 cấp, đó là
Tổ hòa giải ở thôn, xóm, bản, ấp... và Ban hòa
giải ở cấp xã. Nếu Tổ hòa giải thực hiện hòa
giải không thành thì chuyển lên Ban hòa giải
xã tiếp tục hòa giải. Chính vì vậy có quan điểm
cho rằng, tổ chức hòa giải ở cơ sở nên thành
lập theo mô hình này. Theo chúng tôi, cơ cấu
Ban hòa giải cấp xã gồm có các thành viên
là công chức, viên chức của chính quyền cấp
xã, nên không phù hợp với tính chất xã hội,
tự quản của Tổ hòa giải, vì vậy chúng tôi cho
rằng, ở cơ sở chỉ thành lập Tổ hòa giải ở thôn,
xóm bản ấp là phù hợp với tính chất xã hội, tự
quản của quần chúng nhân dân đã trở thành
truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Theo hướng này, Dự án Luật Hòa giải cơ sở
cần dành cả một chương quy định về Tổ hòa
giải ở cơ sở, trong đó có những quy định rõ vị
trí pháp lý, cơ cấu, quyền và nghĩa vụ của Tổ
hòa giải, cụ thể như sau:
- Về vị trí, cơ cấu của tổ hòa giải: Tổ hòa
giải ở cơ sở do Ủy ban nhân dân (UBND) xã,
phường, thị trấn quyết định thành lập trên cơ
sở đề nghị của Ban Tư pháp và Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc (UBMTTQ) cùng cấp; Tổ hoà
giải ở cơ sở là tổ chức tự quản của nhân dân
được thành lập ở thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố
và các cụm dân cư khác để tổ chức thực hiện
việc hoà giải những việc VPPL và tranh chấp
nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp
luật; Tổ hoà giải có ít nhất từ 3 Hòa giải viên
trở lên, trong đó có Tổ trưởng và các Hòa giải
viên do UBMTTQ xã, phường, thị trấn phối
hợp với các tổ chức thành viên của UBMTTQ
lựa chọn, giới thiệu để nhân dân bầu và đề nghị
UBND cùng cấp công nhận.
- Tổ hòa giải có các quyền và nghĩa vụ sau
đây: Tổ chức thực hiện hòa giải các tranh chấp
nhỏ trong cộng đồng dân cư theo quy định của
Số 16(201) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 358
2011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
pháp luật; tổ chức sinh hoạt để cập nhật kiến
thức pháp luật, trao đổi kinh nghiệm và bàn
giải pháp hòa giải những vụ việc phức tạp,
hoặc tranh chấp có các bên ở các cụm dân cư
khác nhau; được kiến nghị với cấp ủy và chính
quyền cơ sở về những vấn đề liên quan đến thi
hành pháp luật và giải pháp giữ gìn trật tự, an
toàn xã hội ở cơ sở; được đề nghị chính quyền,
tổ chức đoàn thể xã hội bố trí địa điểm sinh
hoạt, hỗ trợ tủ sách, tài liệu pháp luật và kinh
phí phục vụ sinh hoạt và thực hiện hòa giải;
phối hợp với tổ chức thực hiện trợ giúp pháp
lý để thực hiện trợ giúp pháp lý bằng hình thức
hòa giải và tư vấn pháp luật cho người được
trợ giúp pháp lý và trợ giúp pháp lý lưu động
ngay ở cơ sở; sơ kết, tổng kết và thực hiện chế
độ thống kê, báo cáo về tổ chức và hoạt động
hòa giải cho UBND và UBMTTQ cấp xã.
5. Quy định về người thực hiện hòa giải
(Hòa giải viên)
Pháp lệnh năm 1998 quy định người thực
hiện hòa giải là Tổ viên tổ hòa giải và người
khác được Tổ hòa giải mời tham gia nếu nhận
thấy người được mời tham gia hòa giải sẽ mang
lại hiệu quả. Đây là quy định hợp lý và được
kiểm nghiệm trong thực tiễn cần được kế thừa.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, cần đổi tên Tổ viên
Tổ hòa giải thành Hòa giải viên cho phù hợp
với tính chất hoạt động của người thực hiện
hòa giải và bổ sung thêm các quy định về vị trí
pháp lý, tiêu chuẩn, quyền, nghĩa vụ của Hòa
giải viên. Theo hướng này, Dự án Luật Hòa
giải cơ sở cần dành một chương quy định về
người thực hiện hòa giải, cụ thể như sau:
- Người thực hiện hòa giải gồm có: Hòa
giải viên và người khác được Tổ hòa giải mời
tham gia hòa giải
- Tiêu chuẩn của Hoà giải viên cần quy
định một cách mềm dẻo, tạo môi trường thu
hút được những người có uy tín, tâm huyết tự
nguyện tham gia công tác hòa giải, cụ thể Hoà
giải viên cần có các tiêu chuẩn sau đây: công
dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức
tốt và có uy tín trong cộng đồng dân cư; có
hiểu biết pháp luật và khả năng thuyết phục,
vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp
luật; tự nguyện tham gia tổ chức hoà giải, có
tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình trong công tác
hoà giải.
- Hoà giải viên có các quyền và nghĩa vụ
sau: Hoà giải các các tranh chấp nhỏ trong cộng
đồng dân cư theo quy định của pháp luật; được
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng
hòa giải ở cơ sở; được hưởng tiền bồi dưỡng
thực hiện hòa giải theo quy định của pháp luật;
được tham gia sinh hoạt Tổ hòa giải và đề xuất
những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
hòa giải ở cơ sở; thông qua hoạt động hoà giải,
tuyên truyền, vận động nhân dân nghiêm chỉnh
chấp hành chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước; tuân thủ pháp luật, đạo đức xã
hội và nguyên tắc hoạt động hòa giải; kịp thời
báo cáo với Tổ hòa giải những vấn đề phát sinh
làm ảnh hưởng đến kết quả hòa giải để có biện
pháp giải quyết.
Ngoài ra, có thể quy định cơ chế, thủ tục
bầu, công nhận và miễn nhiệm Hòa giải viên
ngay trong Dự án Luật Hòa giải ở cơ sở để
sau khi Luật có hiệu lực, có thể thực hiện
được ngay mà không phải ban hành Nghị định
hướng dẫn thi hành.
6. Quy định về hoạt động hòa giải ở cơ sở
Dự án Luật Hòa giải ở cơ sở cần dành một
chương quy định về hoạt động hòa giải, trong
đó có các quy định về căn cứ tiến hành hòa
giải; người thực hiện hòa giải; thời gian, địa
điểm tiến hành hòa giải; thực hiện hòa giải;
phương thức tiến hành hòa giải; thực hiện hòa
giải và kết thúc hòa giải.
- Về căn cứ để tiến hành hòa giải. Việc
hoà giải được tiến hành trong các trường hợp
sau đây: hoà giải viên chủ động hoà giải theo
sáng kiến của mình trong trường hợp trực tiếp
chứng kiến hoặc biết về việc tranh chấp để kịp
thời ngăn chặn “chuyện bé xé ra to” hoặc gây
hậu quả nghiêm trọng; hoà giải viên thực hiện
hoà giải theo sự phân công của Tổ trưởng Tổ
hoà giải; theo yêu cầu của một bên hoặc các
bên tranh chấp; theo đề nghị của cơ quan, tổ
36 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 16(201) 82011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
chức hoặc cá nhân khác.
- Người tiến hành hoà giải. Việc hoà giải
có thể do một hoặc một số Hoà giải viên phối
hợp thực hiện. Trong trường hợp cần thiết, Tổ
hoà giải có thể mời người không phải là Hòa
giải viên thực hiện hòa giải hoặc cùng tham
gia hoà giải với Hòa giải viên. Người được
mời có thể là người có kiến thức pháp luật,
có kinh nghiệm cuộc sống và có uy tín, có sức
thuyết phục đối với các bên tranh chấp. Trong
từng trường hợp cụ thể, người được mời có
thể là người thân thích, người cao tuổi, bạn bè,
người hàng xóm của một hoặc các bên và biết
rõ nguyên nhân tranh chấp. Người thực hiện
hòa giải không tiến hành việc hoà giải nếu họ
là người có quyền lợi liên quan đến vụ việc
hoà giải hoặc vì những lý do cá nhân khác mà
không thể bảo đảm hoà giải được khách quan
hoặc không đem lại kết quả. Trong trường hợp
không thể tiếp tục tiến hành hoà giải, người
hòa giải có trách nhiệm báo cáo kịp thời cho
Tổ trưởng Tổ hòa giải và bàn giao công việc
cho người hòa giải khác theo sự phân công của
Tổ trưởng Tổ hòa giải.
- Thời gian, địa điểm tiến hành việc hoà giải.
Việc hoà giải được tiến hành vào thời gian mà
các đương sự yêu cầu hoặc theo sáng kiến của
Hoà giải viên và được các bên tranh chấp đồng
ý. Việc hoà giải có thể được tiến hành theo sáng
kiến của Hoà giải viên ngay tại thời điểm xảy
ra tranh chấp, nếu Hoà giải viên là người chứng
kiến và xét thấy cần thiết phải hoà giải ngay.
Hoà giải viên lựa chọn địa điểm thuận lợi cho
việc hoà giải, phù hợp với nguyện vọng của các
bên hoặc hòa giải tại địa điểm mà các bên lựa
chọn.
- Phương thức hoà giải. Theo quy định tại
Pháp lệnh năm 1998 thì việc hoà giải được tiến
hành bằng lời nói và chỉ lập biên bản hòa giải
trong trường hợp được các bên yêu cầu hoặc
được các bên đồng ý. Quy định này mang tính
mềm dẻo, linh hoạt và không hành chính hóa
quan hệ hòa giải. Tuy nhiên, trong thực tiễn giải
quyết các tranh chấp dân sự, đặc biệt các tranh
chấp trong quan hệ hôn nhân và gia đình, quan
hệ thừa kế..., quy định này chưa phù hợp với
cơ chế giải quyết của cơ quan tư pháp, bởi Tòa
án chỉ thụ lý vụ việc khi đã qua hòa giải nhưng
không thành hoặc chưa phù hợp với việc hòa
giải, giải quyết tranh chấp đất đai (Điều 135
Luật Đất đai quy định: kết quả hoà giải tranh
chấp đất đai phải được lập thành biên bản có
chữ ký của các bên tranh chấp và xác nhận
của UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất. Do
không có biên bản hòa giải nên thiếu chứng cứ
chứng minh là vụ việc đã được hòa giải nhưng
không thành). Vì vậy, để đồng bộ với cơ chế
giải quyết tranh chấp của Tòa án và tạo điều
kiện thuận lợi cho các bên tranh chấp khi không
còn cách nào khác phải khiếu kiện yêu cầu Tòa
án giải quyết, chúng tôi cho rằng, cần quy định
hòa giải được thực hiện bằng lời nói và lập biên
bản hòa giải. Việc lập biên bản hòa giải có nhiều
ưu điểm: nếu hòa giải thành thì biên bản ghi lại
các thỏa thuận làm căn cứ để các bên tự nguyện
thực hiện các thỏa thuận đó. Trong trường hợp
các bên không đạt được thoả thuận và việc tiếp
tục hoà giải không thể đạt kết quả, thì biên bản
hòa giải là căn cứ để các bên khiếu kiện yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định
của pháp luật.
- Thực hiện hòa giải: tuỳ từng trường hợp cụ
thể, Hoà giải viên có thể tiến hành việc hoà giải
bằng cách gặp gỡ từng bên hoặc các bên; sau
khi tìm hiểu sự việc, nguyên nhân phát sinh mâu
thuẫn, tham khảo ý kiến của cá nhân, cơ quan,
tổ chức hữu quan, lắng nghe ý kiến của các bên,
Hoà giải viên phân tích, thuyết phục các bên
đạt được thoả thuận phù hợp với pháp luật, đạo
đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của
nhân dân và tự nguyện thực hiện thoả thuận đó;
trong trường hợp các bên không thể đạt được
thoả thuận và việc tiếp tục hoà giải không thể
đạt kết quả, thì Hoà giải viên hướng dẫn cho các
bên làm thủ tục cần thiết để đề nghị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giải quyết. Đối với tranh
chấp phức tạp, mâu thuẫn giữa các bên gay gắt,
có thể gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng
đến an ninh, trật tự trong địa bàn dân cư, thì Hoà
giải viên kịp thời báo cáo cho Tổ trưởng Tổ hoà
giải để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải
quyết theo quy định của pháp luật.
Số 16(201) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 378
2011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
- Kết thúc việc hoà giải. Vụ, việc hoà giải
được kết thúc trong hai trường hợp sau đây: (i)
khi tranh chấp được giải quyết (hòa giải thành)
trên cơ sở các bên đã đạt được thoả thuận và
cam kết tự nguyện thực hiện thoả thuận đó. (ii)
các bên không đạt được thoả thuận, việc tiếp tục
hoà giải không thể đạt kết quả (hòa giải không
thành) và tiếp tục khiếu kiện cơ quan nhà nước
có thẩm quyền giải quyết.
Trong trường hợp hòa giải không thành, Hoà
giải viên có trách nhiệm hướng dẫn cho các bên
làm các thủ tục cần thiết để đề nghị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giải quyết.
7. Quy định quản lý nhà nước về công tác
hoà giải
Có quan điểm cho rằng, Dự án Luật Hòa giải
ở cơ sở chỉ quy định những nội dung chủ yếu
về QLNN đối với công tác hòa giải ở cơ sở mà
không quy định chi tiết nhiệm vụ, trách nhiệm
QLNN về công tác hòa giải của các ngành, các
cấp và giao cho Chính phủ ban hành Nghị định
quy định chi tiết các vấn đề này. Quan điểm thứ
hai cho rằng, Dự án Luật cần quy định cụ thể
nội dung QLNN và phân cấp, quy định chi tiết
nhiệm vụ, trách nhiệm QLNN của các ngành,
các cấp để ngay sau khi Luật có hiệu lực thi
hành thì triển khai thực hiện được ngay, khắc
phục tình trạng Luật muốn thi hành được phải
chờ Nghị định hướng dẫn. Theo chúng tôi, Dự
án Luật Hòa giải ở cơ sở nên quy định chi tiết
ngay những nội dung cần điều chỉnh. Cụ thể, Dự
án Luật Hòa giải ở cơ sở cần dành một chương
quy định về QLNN công tác hòa giải ở cơ sở,
gồm các nội dung sau đây:
- Nội dung QLNN về công tác hoà giải: ban
hành cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp
luật về tổ chức và hoạt động hoà giải; tổ chức và
theo dõi việc thực hiện các chính sách và pháp
luật đó; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc xây
dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức và nghiệp vụ
hoạt động hoà giải ở cơ sở; tổ chức bồi dưỡng
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, nâng cao nghiệp vụ và kỹ năng hoà
giải cho người thực hiện hoà giải; tạo điều kiện
về cơ sở vật chất, kinh phí hỗ trợ hoạt động hòa
giải và cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật
phục vụ công tác hòa giải ở cơ sở; sơ kết, tổng
kết công tác hoà giải ở cơ sở và báo cáo về công
tác hoà giải với cơ quan có thẩm quyền; tổ chức
thi đua, khen thưởng công tác hoà giải của Tổ
hoà giải.
- Cơ quan QLNN về công tác hòa giải ở cơ
sở: Chính phủ thống nhất QLNN về công tác
hoà giải trong phạm vi cả nước; Bộ Tư pháp
giúp Chính phủ thực hiện QLNN về công tác
hoà giải ở cơ sở; chỉ đạo và hướng dẫn UBND
các cấp thực hiện QLNN về công tác hoà giải
ở địa phương; UBND các cấp thực hiện QLNN
về công tác hoà giải theo sự chỉ đạo và hướng
dẫn của Bộ Tư pháp. Các cơ quan tư pháp địa
phương giúp UBND cùng cấp QLNN về công
tác hoà giải ở địa phương.
Căn cứ tình hình cụ thể và khả năng ngân
sách của địa phương, UBND các cấp tạo điều
kiện, hỗ trợ về kinh phí cho việc kiện toàn tổ
chức, bồi dưỡng nghiệp vụ, sơ kết, tổng kết, thi
đua, khen thưởng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động hoà giải ở địa phương.
Ngoài ra, cần có quy định Ủy ban Trung
ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam động viên,
khuyến khích các tổ chức thành viên phối hợp
với các cơ quan nhà nước tham gia quản lý và
thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở.
8. Quy định chuyển tiếp
Để bảo đảm tính kế thừa và liên tục của tổ
chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở, Dự án Luật
Hòa giải ở cơ sở cần có quy định chuyển tiếp tổ
chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở được thành
lập theo Pháp lệnh năm 1998 và có quy định
mở để khuyến khích các loại hình hòa giải khác
cùng tham gia hòa giải theo Hiến pháp, cụ thể
cần quy định chuyển tiếp như sau:
- Các Tổ hoà giải thành lập theo Pháp lệnh
năm 1998 được tiếp tục hoạt động và được củng
cố, kiện toàn và triển khai hoạt động theo Luật
Hòa giải ở cơ sở.
- Các quy định của Luật này này được áp
dụng đối với hoạt động hoà giải của các tổ chức
thích hợp khác của nhân dân trong cộng đồng
dân cư ở cơ sở.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_noi_dung_can_dieu_chinh_cua_du_an_luat_hoa_giai_o_co_s.pdf