Công nhận giống cây trồng mới
Thứ nhất, cần bổ sung điều kiện về
việc đánh giá sâu bệnh nhân tạo đối với một
số loại bệnh hại chính, các thí nghiệm đánh
giá về tính thích ứng và phản ứng với điều
kiện bất lợi trước khi công nhận chính thức
giống cây trồng mới, đặc biệt đối với cây
lúa
Thứ hai, sửa đổi một số nội dung về
công tác khảo nghiệm và công nhận giống
cây trồng mới cho phù hợp với điều kiện
thực tế như: khảo nghiệm cơ bản, khảo
nghiệm sản xuất, khảo nghiệm DUS, sản
xuất thử, thời gian, diện tích quy định công
nhận giống cây trồng mới.
Thứ ba, yếu tố quan trọng trong việc
công nhận cây trồng mới là đơn vị có chức
năng tham gia quá trình sản xuất giống cây
trồng mới được thể hiện trong Điều 36 Pháp
lệnh 2004. Tuy nhiên, pháp luật chưa làm rõ
những điều kiện đối với các loại doanh
nghiệp tham gia lĩnh vực sản xuất giống cây
trồng như: mặt bằng, đất đai, nhà xưởng,
kho tàng và trang thiết bị, nguồn nhân lực
mang tính định lượng cụ thể từng tiêu chuẩn
đối với từng loại giống cây trồng, nhằm
giảm thiểu tình trạng các cơ quan quản lý
cấp giấy phép kinh doanh đối với các đơn vị
chưa đủ điều kiện cả về nguồn nhân lực lẫn
cơ sở vật chất, dẫn đến giống cây trồng mới
không đảm bảo chất lượng, làm thiệt hại đến
sản xuất nông nghiệp
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 222 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những nội dung cần sửa đổi, bổ sung pháp luật giống cây trồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
51
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(333) T3/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
1. Một số bất cập trong các quy định của
pháp luật về giống cây trồng
1.1 Về công bố chất lượng giống cây
trồng
Việc công bố chất lượng giống cây
trồng được quy định tại Điều 45 Pháp lệnh
2004. Theo đó, tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh giống cây trồng khi công bố chất
lượng phù hợp tiêu chuẩn phải dựa vào một
trong các căn cứ sau đây:
NHÛÄNG NÖÅI DUNG CÊÌN SÛÃA ÀÖÍI, BÖÍ SUNG
PHAÁP LUÊÅT GIÖËNG CÊY TRÖÌNG
Lê Ngọc Thạnh*
Lê Thị Hằng**
* ThS. Trường Đại học Lao động - Xã hội (CS. II, TP. Hồ Chí Minh).
** KS. Phó phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk.
Thông tin bài viết:
Từ khoá:
Pháp lệnh giống cây trồng,
công bố, thanh tra, công nhận
giống cây trồng mới.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 17/04/2016
Biên tập: 19/07/2016
Duyệt bài: 15/12/2016
Article Infomation:
Keywords:
The Ordinance on Varieties,
publication, inspection, new
plant variety certification.
Article History:
Received: 14 Apr. 2016
Edited: 19 Jul. 2016
Approved: 15 Dec. 2016
Tóm tắt:
Sau khi Pháp lệnh Giống cây trồng được Ủy ban thường vụ Quốc hội ban
hành năm 2004 (Pháp lệnh 2004), nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được
Chính phủ, Bộ chuyên ngành xây dựng nhằm hướng dẫn thi hành, đáp ứng
yêu cầu quản lý nhà nước và tổ chức, triển khai thực hiện việc sản xuất, kinh
doanh giống cây trồng. Tuy nhiên vẫn còn một số điểm bất cập, chưa tương
thích trong hệ thống pháp luật như công bố chất lượng giống cây trồng, thanh
tra giống cây trồng và công nhận giống cây trồng mới. Bài viết phân tích,
đánh giá và đề xuất một số nội dung cần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh 2004
nhằm góp phần hoàn thiện một số quy định pháp luật có liên quan trong lĩnh
vực này.
Abstract:
Since the Ordinance on Varieties approved by the Standing Committee of the
National Assembly in 2004 (The Ordinance of 2004), several legal regula-
tions have been developed by the Government, the specialized ministries as
implementation guidelines for the government administration and organiza-
tion and implementation of the production, business of varieties. However
there are still some shortcomings, inconsistencies in the legal regulation sys-
tem, such as publication of the seed quality, seed inspection, new plant variety
certification. The article provides analysis, evaluation and suggestion of
amendments and supplements to The Ordinance of 2004 to complete some
legal provisions relevant in this field.
52
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
Thứ nhất, kết quả chứng nhận chất
lượng của cơ sở kiểm định, kiểm nghiệm đối
với giống cây trồng có trong danh mục
giống cây trồng phải được chứng nhận chất
lượng phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam của Bộ
Khoa học và Công nghệ hoặc tiêu chuẩn
ngành do Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Bộ Thuỷ sản (nay là Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn) ban hành.
Thứ hai, kết quả tự đánh giá của tổ
chức, cá nhân hoặc kết quả đánh giá của cơ
sở kiểm định, kiểm nghiệm đối với giống
cây trồng không có trong danh mục giống
cây trồng phải được chứng nhận chất lượng
phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn
ngành như đã nêu trên.
Thứ ba, trình tự và thủ tục công bố
chất lượng giống cây trồng phù hợp tiêu
chuẩn phải thực hiện theo quy định của pháp
luật về chất lượng hàng hoá.
Như vậy, pháp luật hiện hành chưa
quy định về thời gian và hiệu lực của giống
cây trồng đã được công bố để các tổ chức,
cá nhân sản xuất, kinh doanh giống cây
trồng, cũng như cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và người sử dụng tiện trong việc áp
dụng.
1.2. Thanh tra giống cây trồng và
thẩm quyền quản lý có liên quan đến giống
cây trồng
1.2.1. Thanh tra giống cây trồng
Về thanh tra giống cây trồng, Điều 48
Pháp lệnh 2004 quy định:
- Thanh tra giống cây trồng là thanh
tra chuyên ngành.
- Tổ chức và hoạt động của thanh tra
chuyên ngành giống cây trồng theo quy định
của pháp luật về thanh tra.
Bên cạnh đó, pháp luật về thanh tra
chuyên ngành có một số nội dung liên quan:
Thứ nhất, các đơn vị được giao chức
năng thực hiện thanh tra chuyên ngành của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là:
Tổng cục Thủy lợi; Tổng cục Lâm nghiệp;
Tổng cục Thủy sản; Cục Thú y; Cục Bảo vệ
thực vật; Cục Trồng trọt; Cục Chăn nuôi;
Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và
thủy sản; Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển
nông thôn; Cục Chế biến, Thương mại nông
lâm thủy sản và nghề muối.
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định một
số Chi cục thuộc Sở, Chi cục thuộc Cục và
tương đương được giao thực hiện chức năng
thanh tra chuyên ngành như: Chi cục về bảo
vệ thực vật, thú y, thủy sản, quản lý chất
lượng nông lâm sản và thủy sản, thủy lợi, đê
điều, lâm nghiệp, phát triển nông thôn thuộc
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn1.
Thứ hai, thời hạn thanh tra của Đoàn
thanh tra chuyên ngành được quy định như
sau:
Một là, cuộc thanh tra chuyên ngành
do Thanh tra bộ, Tổng cục, Cục thuộc Bộ
tiến hành không quá 45 ngày; trường hợp
phức tạp có thể kéo dài hơn, nhưng không
quá 70 ngày;
Hai là, cuộc thanh tra chuyên ngành
do Thanh tra sở, Chi cục thuộc Sở tiến hành
không quá 30 ngày; trường hợp phức tạp có
thể kéo dài hơn, nhưng không quá 45 ngày.
Ba là, thời hạn của cuộc thanh tra
được tính từ ngày công bố quyết định thanh
tra đến ngày kết thúc việc thanh tra tại nơi
được thanh tra.
Bốn là, việc kéo dài thời hạn thanh tra
do người ra quyết định thanh tra chuyên
ngành quyết định2.
1 Chính phủ (2012), Nghị định 07/2012/NĐ-CP Quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành; Khoản 6 Điều 6, Khoản 6 Điều 8.
2 Chính phủ (2012), Tlđd, Điều 16.
53
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(333) T3/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
Tất nhiên, pháp luật chỉ khống chế
thời hạn tối đa của một cuộc thanh tra
chuyên ngành, không quy định thời gian tối
thiểu. Như vậy việc kết thúc sớm hay đến
ngưỡng tối đa của thời hạn thanh tra chuyên
ngành hoàn toàn phụ thuộc vào đối tượng
thanh tra, diễn biến của sự việc thanh tra và
cả ý chí của những người làm công tác thanh
tra nữa. Tuy nhiên, với hàng loạt thủ tục
như: ra quyết định thành lập Đoàn Thanh tra
chuyên ngành; đoàn Thanh tra xây dựng và
phê duyệt kế hoạch tiến hành thanh tra của
Đoàn thanh tra; Trưởng đoàn Thanh tra phổ
biến kế hoạch tiến hành thanh tra; Trưởng
đoàn Thanh tra xây dựng đề cương yêu cầu
đối tượng thanh tra báo cáo; Trưởng đoàn
Thanh tra thông báo việc công bố quyết định
thanh tra chuyên ngành; Trưởng đoàn Thanh
tra công bố quyết định thanh tra chuyên
ngành; Đoàn Thanh tra thu thập thông tin tài
liệu, đánh giá việc chấp hành chính sách,
pháp luật; Trưởng đoàn Thanh tra báo cáo
tiến độ thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên
ngành; Trưởng đoàn Thanh tra báo cáo kết
quả thanh tra chuyên ngành; Trưởng đoàn
Thanh tra xây dựng kết luận thanh tra
chuyên ngành; Người có thẩm quyền ra
quyết định thanh tra ban hành Kết luận
thanh tra chuyên ngành; Người ra kết luận
thanh tra có trách nhiệm thực hiện việc công
khai kết luận thanh tra chuyên ngành3; thì rõ
ràng là, khó có thể kết thúc nhanh chóng
cuộc thanh tra chuyên ngành được.
1.2.2. Thẩm quyền quản lý có liên
quan đến giống cây trồng
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đã quy định một số nội dung về phân
công và thẩm quyền quản lý vật tư nông
nghiệp; trong đó có nội dung phân công cơ
quan đầu mối quản lý chuyên ngành việc
khảo nghiệm, thử nghiệm, kiểm nghiệm,
công nhận, đăng ký lưu hành vật tư nông
nghiệp như sau: (i) Tổng cục Thủy sản tiếp
nhận, thẩm định, xử lý hồ sơ về giống thủy
sản, thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý, cải
tạo môi trường dùng trong nuôi trồng thủy
sản; (ii) Tổng cục Lâm nghiệp tiếp nhận,
thẩm định, xử lý hồ sơ về giống cây lâm
nghiệp; (iii) Cục Chăn nuôi tiếp nhận, thẩm
định, xử lý hồ sơ về giống vật nuôi, thức ăn
chăn nuôi, bao gồm cả chất kích thích sinh
trưởng dùng trong chăn nuôi; (iv) Cục Trồng
trọt tiếp nhận, thẩm định, xử lý hồ sơ về
giống cây trồng nông nghiệp chính; (v) Cục
Bảo vệ thực vật tiếp nhận, thẩm định, xử lý
hồ sơ về thuốc bảo vệ thực vật, bao gồm cả
chất điều hòa sinh trưởng đối với cây trồng;
(vi) Cục Thú y tiếp nhận, thẩm định, xử lý
hồ sơ về thuốc thú y 4.
Như vậy, chỉ có hai cơ quan thuộc Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được
Bộ trưởng ủy quyền quản lý nhà nước trên
lĩnh vực giống cây trồng là Tổng cục Lâm
nghiệp và Cục Trồng trọt. Về mặt lý luận,
các cơ quan trên đã có quyền quản lý nhà
nước trên lĩnh vực giống cây trồng thì
đương nhiên cũng chính họ có quyền triển
khai các hoạt động quản lý và thanh tra việc
chấp hành các quy định pháp luật có liên
quan đến công tác giống cây trồng, nhằm
đảm bảo tính pháp chế trong việc chấp hành
pháp luật của các đối tượng bị điều chỉnh.
Như chúng ta đã biết, giống cây trồng
là hàng hóa sinh học đặc biệt, không phải ai
cũng có đầy đủ kiến thức chuyên ngành để
tiến hành kiểm tra và thời gian kiểm tra kéo
dài sẽ không đảm bảo cho quá trình sinh
trưởng, phát triển được. Thiết nghĩ nội dung
này cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
3 Chính phủ (2012), Tlđd, Điều 17 đến Điều 28.
4 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2014), Thông tư 20/2014/TT-BNNPTNT Quy định một số nội dung về
phân công và thẩm quyền quản lý vật tư nông nghiệp, Điều 4.
54
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
1.3 Công nhận giống cây trồng mới
Về công nhận giống cây trồng mới,
Pháp lệnh 2004 đã quy định quy trình chặt
chẽ các bước để sản phẩm cuối cùng là công
nhận giống cây trồng mới: nghiên cứu,
chọn, tạo giống cây trồng mới; khảo nghiệm
giống cây trồng mới; cơ sở khảo nghiệm
giống cây trồng mới; đặt tên giống cây trồng
mới; công nhận giống cây trồng mới5.
Theo Điều 18 Pháp lệnh 2004, giống
cây trồng mới sử dụng trong nông nghiệp,
lâm nghiệp được công nhận khi đáp ứng
được các yêu cầu sau đây: (i) Có kết quả
khảo nghiệm của cơ sở khảo nghiệm giống
cây trồng mới; (ii) Có kết quả sản xuất thử
và được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn nơi sản xuất thử chấp nhận đưa vào sản
xuất đại trà; (iii) Có tên phù hợp theo quy
định về đặt tên giống cây trồng mới; (iv)
Được Hội đồng khoa học chuyên ngành do
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn thành lập đánh giá kết quả khảo
nghiệm, kết quả sản xuất thử và đề nghị
công nhận; (v) Căn cứ vào đề nghị của Hội
đồng khoa học chuyên ngành, Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ
trưởng Bộ Thuỷ sản (nay là Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) xem
xét, quyết định công nhận giống cây trồng
mới. Giống cây trồng mới có thể được đề
nghị công nhận đặc cách, không phải qua
sản xuất thử nếu kết quả khảo nghiệm cho
thấy giống đó đặc biệt xuất sắc; (vi) Giống
cây trồng mới đã được công nhận được đưa
vào Danh mục giống cây trồng được phép
sản xuất, kinh doanh.
Trên cơ sở đó, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn đã quy định về điều
kiện, thủ tục công nhận chính thức giống cây
trồng mới như sau:
Thứ nhất, về điều kiện công nhận bao
gồm: (i) Giống đã qua sản xuất thử ít nhất
hai vụ đối với cây ngắn ngày, hai năm thu
hoạch đối với cây dài ngày và đạt diện tích
tối thiểu theo quy định; (ii) Kết quả sản xuất
thử cho thấy giống vẫn giữ được các đặc
tính tốt như trong khảo nghiệm và đáp ứng
được yêu cầu của sản xuất; (iii) Giống có
tính khác biệt, tính đồng nhất và tính ổn
định; (iii) Giống mới có tên gọi phù hợp
theo quy định; (iv) Có ý kiến đánh giá giống
của địa phương, nơi sản xuất thử.
Thứ hai, về thủ tục công nhận phải
đảm bảo các yêu cầu sau:
(i) Tổ chức, cá nhân có giống mới đề
nghị công nhận lập hồ sơ gửi về Cục Trồng
trọt, hồ sơ gồm:
- Đơn đề nghị công nhận giống cây
trồng mới;
- Báo cáo kết quả sản xuất thử;
- Quy trình kỹ thuật trồng trọt của
giống đề nghị công nhận;
- Báo cáo kết quả khảo nghiệm DUS
(DUS: Distinctness, Uniformity, Stabilit, là
quá trình đánh giá tính khác biệt, tính đồng
nhất, tính ổn định của giống cây trồng mới
theo Quy phạm khảo nghiệm DUS đối với
từng loài cây trồng) (bắt buộc đối với cây
trồng chính);
- Biên bản họp của Hội đồng khoa học
cơ sở đề nghị công nhận chính thức;
- Ý kiến đánh giá giống bằng văn bản
của địa phương, nơi sản xuất thử.
(ii) Trong thời hạn 30 ngày (ba mươi
ngày) kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ hợp lệ, Cục
Trồng trọt thẩm định và trình Bộ thành lập
Hội đồng khoa học chuyên ngành đánh giá
kết quả sản xuất thử. Căn cứ vào đề nghị của
Hội đồng khoa học chuyên ngành, Cục
Trồng trọt trình Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp
5 Pháp lệnh 2004, Điều 14 đến Điều 18.
55
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(333) T3/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
và Phát triển nông thôn công nhận chính
thức giống cây trồng nông nghiệp mới6.
Như vậy, bên cạnh những điều kiện
như đã nêu thì tính khác biệt, tính đồng nhất
và tính ổn định là những yêu cầu đặt ra của
giống cây trồng mới được công nhận. Tính
khác biệt ấy phải thể hiện qua các đặc điểm
sinh trưởng phát triển theo hướng tích cực.
Tuy nhiên theo đánh giá của Cục Trồng trọt
thì trên thực tế, nhiều giống cây trồng mới
đã được công nhận nhưng tính thích ứng còn
hạn chế. Hầu hết các giống khi công nhận
đều chưa được đánh giá mức độ nhiễm một
số loại sâu bệnh hại chính trong điều kiện
nhân tạo. Trên thực tế sản xuất sâu bệnh phát
sinh gây hại ngày càng tăng7.
2. Một số kiến nghị
2.1 Về công bố chất lượng giống cây
trồng
Đề nghị bổ sung khoản 2 Điều 45 và
sửa số thứ tự Khoản 2 và Khoản 3 của Điều
45 Pháp lệnh 2004 thành Khoản 3, Khoản 4.
Nội dung bổ sung như sau:
“Điều 45. Công bố chất lượng giống
cây trồng phù hợp tiêu chuẩn
1. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh giống cây trồng khi công bố chất
lượng phù hợp tiêu chuẩn phải dựa vào một
trong các căn cứ sau đây:
2. Thời gian và hiệu lực của giống cây
trồng được công bố”.
2.2 Về nội dung có liên quan đến
thanh tra giống cây trồng
Thứ nhất, cần quy định về thời gian,
trình tự thủ tục thanh tra chuyên ngành trong
lĩnh vực giống cây trồng đảm bảo ngắn, gọn
về thủ tục hành chính nhằm không ảnh
hưởng đến chất lượng giống cây trồng có
đặc thù là hàng hóa sinh học, hàng hóa sống.
Thứ hai, cần quy định rõ thẩm quyền
thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giống
cây trồng thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn là Tổng cục Lâm nghiệp và
Cục Trồng trọt để thuận tiện trong việc áp
dụng pháp luật.
2.3 Công nhận giống cây trồng mới
Thứ nhất, cần bổ sung điều kiện về
việc đánh giá sâu bệnh nhân tạo đối với một
số loại bệnh hại chính, các thí nghiệm đánh
giá về tính thích ứng và phản ứng với điều
kiện bất lợi trước khi công nhận chính thức
giống cây trồng mới, đặc biệt đối với cây
lúa
Thứ hai, sửa đổi một số nội dung về
công tác khảo nghiệm và công nhận giống
cây trồng mới cho phù hợp với điều kiện
thực tế như: khảo nghiệm cơ bản, khảo
nghiệm sản xuất, khảo nghiệm DUS, sản
xuất thử, thời gian, diện tích quy định công
nhận giống cây trồng mới.
Thứ ba, yếu tố quan trọng trong việc
công nhận cây trồng mới là đơn vị có chức
năng tham gia quá trình sản xuất giống cây
trồng mới được thể hiện trong Điều 36 Pháp
lệnh 2004. Tuy nhiên, pháp luật chưa làm rõ
những điều kiện đối với các loại doanh
nghiệp tham gia lĩnh vực sản xuất giống cây
trồng như: mặt bằng, đất đai, nhà xưởng,
kho tàng và trang thiết bị, nguồn nhân lực
mang tính định lượng cụ thể từng tiêu chuẩn
đối với từng loại giống cây trồng, nhằm
giảm thiểu tình trạng các cơ quan quản lý
cấp giấy phép kinh doanh đối với các đơn vị
chưa đủ điều kiện cả về nguồn nhân lực lẫn
cơ sở vật chất, dẫn đến giống cây trồng mới
không đảm bảo chất lượng, làm thiệt hại đến
sản xuất nông nghiệp n
6 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2007), Quyết định 95/2007/QĐ-BNN Ban hành Quy định về công nhận
giống cây trồng nông nghiệp mới, Điều 10.
7 Cục Trồng trọt thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2015), Tài liệu Hội nghị Tổng kết đánh giá mười năm
thực hiện Pháp lệnh Giống cây trồng năm 2004, Hà Nội, tr. 19.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_noi_dung_can_sua_doi_bo_sung_phap_luat_giong_cay_trong.pdf