Thứ bảy, rút ngắn thời hạn tạm giam
người dưới 18 tuổi (thời hạn tạm giam đối
với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi
bằng 2/3 thời hạn tạm giam đối với người
đủ 18 tuổi trở lên) nhằm đẩy nhanh quá
trình giải quyết vụ án, tránh những hậu
quả tiêu cực có thể ảnh hưởng đến các em
do phải tách khỏi môi trường gia đình,
gián đoạn việc học hành, cũng như nguy
cơ tái phạm do phải tiếp xúc với những
ảnh hưởng xấu từ những người bị giam,
giữ khác.
Thứ tám, quy định đầy đủ, rõ ràng,
chặt chẽ thủ tục lấy lời khai người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt,
người bị tạm giữ, người bị hại, người làm
chứng; hỏi cung bị can; đối chất, bảo đảm
việc thực hiện các thủ tục tố tụng này phù
hợp với thể trạng và tâm sinh lý của người
dưới 18 tuổi, nhằm tránh gây tâm lý căng
thẳng cho các em, đáp ứng yêu cầu của
Công ước quốc tế về quyền trẻ như quy
định: chỉ được phép lấy lời khai, hỏi cung
không quá hai lần trong một ngày và mỗi
lần không quá hai giờ; chỉ tiến hành đối
chất giữa bị hại là người dưới 18 tuổi với
bị can, bị cáo để làm sáng tỏ tình tiết của
vụ án trong trường hợp nếu không đối
chất thì không thể giải quyết được vụ án;
bắt buộc phải có người bào chữa, người
đại diện, người bảo vệ quyền lợi tham gia
khi cơ quan tố tụng tiến hành lấy lời khai,
hỏi cung, tạo tâm lý an tâm cho người
dưới 18 tuổi (Điều 421).
Thứ chín, quy định việc xét hỏi,
tranh luận tại phiên tòa phải được tiến
hành phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát
triển của người dưới 18 tuổi; phòng xử
án được bố trí thân thiện, phù hợp với
người dưới 18 tuổi; trường hợp đặc biệt
cần bảo vệ bị cáo, bị hại là người dưới
18 tuổi thì Tòa án có thể quyết định xét
xử kín, để bảo đảm sự khách quan, công
khai, minh bạch, tạo điều kiện trợ giúp
tốt hơn về mặt tâm lý cho người dưới 18
tuổi tại phiên tòa (Điều 423).
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 326 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những nội dung mới của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về bảo vệ quyền con người và quyền công dân trong tố tụng hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
H iến pháp năm 2013 khẳng định nguyên tắc: Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền
con người, quyền công dân; Quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn
chế theo quy định của luật trong trường
hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng (Điều 14).
Do vậy, yêu cầu của Hiến pháp về bảo
đảm quyền con người, quyền công dân
cần phải được cụ thể trong các đạo luật,
nhất là trong BLTTHS.
BLTTHS năm 2015 đã thể chế hóa chủ
trương cải cách tư pháp của Đảng và cụ
thể hóa Hiến pháp năm 2013, bảo đảm
mọi hành vi phạm tội đều phải được phát
hiện và xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp
thời, chống bỏ lọt tội phạm, chống làm
oan người vô tội, đồng thời tôn trọng và
bảo đảm quyền con người, quyền công
dân trong tố tụng hình sự. Cụ thể như sau:
1. Bảo vệ quyền con người, quyền
công dân thông qua việc ghi nhận các
nguyên tắc tiến bộ và đổi mới của tố tụng
hình sự
Nhằm bảo đảm các quy định về
nguyên tắc cơ bản đúng nghĩa là những
tư tưởng chỉ đạo đối với việc xây dựng
và thực hiện BLTTHS, tạo cơ sở cho việc
hình thành những chuẩn mực pháp lý về
cách ứng xử của các chủ thể trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, bảo đảm
tốt hơn quyền con người, quyền công dân
theo quy định của Hiến pháp năm 2013,
BLTTHS năm 2015 đã bổ sung 05 nguyên
tắc mới gồm: Công dân Việt Nam không
* Tiến sĩ, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế và Quản lý
khoa học, VKSNDTC
NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM
2015 VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUYỀN CÔNG DÂN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HOÀNG ANH TUYÊN *
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân, vấn đề quyền con người và bảo đảm quyền con người trong
thực tiễn được xác định là vấn đề cơ bản. Tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền
con người, quyền công dân là tư tưởng xuyên suốt trong Hiến pháp năm 2013.
Bài viết nghiên cứu những nội dung mới của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)
năm 2015 về bảo vệ quyền con người và quyền công dân trong tố tụng hình sự.
Từ khóa: Quyền con người, quyền công dân, tố tụng hình sự.
In the context of building the socialist rule-of-law nation of the people,
by the people and for the people, the human rights and its protection in the
practice are considered as the fundamental issue. Respecting, protecting
and ensuring the human rights as well as the citizen rights are the main
thoughts throughout the Constitution of 2013. The paper studies some
new contents of the Criminal Procedure Code of 2015 on the protection of
human rights and citizen rights in terms of criminal proceedings.
Keywords: Human rights, citizen rights, criminal proceedings.
NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ...
4 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước
khác (Điều 11); suy đoán vô tội (Điều 13);
không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm
(Điều 14); tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm (Điều 26); bảo đảm sự kiểm tra,
giám sát trong hệ thống từng cơ quan tố
tụng và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng (Điều 33).
1.1. Về nguyên tắc suy đoán vô tội
Suy đoán vô tội là nguyên tắc quan
trọng, có tính chất nền tảng, chi phối nhiều
nguyên tắc khác của tố tụng hình sự. Do
vậy, khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013
đã bổ sung và quy định đầy đủ nội dung
của nguyên tắc suy đoán vô tội: “Người bị
buộc tội được coi là không có tội cho đến khi
được chứng minh theo trình tự luật định và có
bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật”. Trên tinh thần đó, Điều 13 BLTTHS
năm 2015 quy định cụ thể hơn về nguyên
tắc này, theo đó “Khi không đủ và không thể
làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình
tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
kết luận người bị buộc tội không có tội”. Đồng
thời, trong các điều luật cụ thể được sửa
đổi, bổ sung đều quán triệt nguyên tắc này
như: (1) Toàn bộ quá trình chứng minh tội
phạm được Bộ luật quy định rất chặt chẽ,
đầy đủ, cụ thể về trình tự, thủ tục, nhất
là quá trình thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ, theo đó bổ sung quy định những
gì có thật nhưng không được thu thập theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định
thì không có giá trị pháp lý và không được
dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình
sự (Điều 87); mỗi chứng cứ phải được kiểm
tra để xác định tính hợp pháp, xác thực và
liên quan đến vụ án. Người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình phải kiểm tra, đánh giá
đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng
cứ đã thu thập được về vụ án (Điều 108).
Trường hợp đã áp dụng đầy đủ các biện
pháp cần thiết mà vẫn không đủ căn cứ
để chứng minh tội phạm thì phải kết luận
họ không có tội, khôi phục và bảo đảm các
quyền và lợi ích hợp pháp của họ. (2) Bộ
luật thay cụm từ “người phạm tội” bằng các
cụm từ “người thực hiện hành vi mà Bộ luật
hình sự quy định là tội phạm” (Điều 179, 180,
280) nhằm nhấn mạnh, tạo sự nhận thức
rõ ràng cho người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng là chừng nào chưa có bản án đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án thì người bị
buộc tội vẫn chưa bị coi là có tội; những
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
không được đối xử với người bị buộc tội
như người có tội.
Nguyên tắc suy đoán vô tội có mối
quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa, nguyên tắc trách nhiệm
chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị
buộc tội có quyền nhưng không buộc phải
chứng minh là mình vô tội cũng như bảo
đảm quyền của người bị bắt, bị tạm giữ,
bị can, bị cáo được trình bày lời khai, trình
bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai
chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận
là mình có tội. Sẽ là “sự suy đoán có tội” nếu
các nguyên tắc và bảo đảm các quyền nêu
trên của người bị buộc tội còn bị vi phạm
trên thực tế; tương tự như vậy, nếu trách
nhiệm chứng minh, quyền bào chữa và các
quyền khác của người bị buộc tội được bảo
đảm tức là đã bảo đảm trên thực tế yêu cầu
của “nguyên tắc suy đoán vô tội”.
1.2. Về nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa
Một trong những nhiệm vụ của
BLTTHS là góp phần bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân. Khẳng định quyền
bào chữa là một trong những quyền con
người, quyền công dân quan trọng nhất
HOÀNG ANH TUYÊN
5Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
của người bị buộc tội, khoản 4 Điều 31
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người
bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ
luật sư hoặc người khác bào chữa”; Điều
16 BLTTHS năm 2015 tiếp tục quy định
nguyên tắc này, trong đó nhấn mạnh trách
nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm cho
người bị buộc tội thực hiện đầy đủ quyền
bào chữa. Đồng thời, trong các điều luật
cụ thể của Bộ luật có nhiều nội dung sửa
đổi, bổ sung quan trọng nhằm cụ thể hóa
nguyên tắc này.
Thứ nhất, để bảo đảm tính hệ thống,
tính đầy đủ, chặt chẽ, Bộ luật thiết kế một
chương riêng (Chương V) quy định đầy
đủ các nội dung liên quan đến bào chữa
như diện người bào chữa, quyền và nghĩa
vụ của người bào chữa, thời điểm người
bào chữa tham gia tố tụng, việc lựa chọn,
chỉ định người bào chữa và các trình tự,
thủ tục người bào chữa tham gia tố tụng,
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình. Thứ hai, để bảo đảm tốt hơn quyền
của người bị buộc tội, phù hợp với Luật
trợ giúp pháp lý, ngoài luật sư, người đại
diện của người bị buộc tội, bào chữa viên
nhân dân như BLTTHS năm 2003, Bộ luật
mới mở rộng diện người bào chữa gồm
cả Trợ giúp viên pháp lý nhằm bào chữa
miễn phí cho các đối tượng thuộc diện
chính sách được hưởng quyền trợ giúp
pháp lý, đồng thời mở rộng diện người
có quyền lựa chọn người bào chữa gồm
cả người thân thích của người bị buộc tội
(các điều 72, 75). Thứ ba, để tháo gỡ những
khúc mắc thời gian qua liên quan đến việc
bào chữa cho người đang bị tạm giữ, tạm
giam, bảo đảm tính minh bạch của hoạt
động tố tụng hình sự, Bộ luật bổ sung quy
định cơ quan có thẩm quyền đang quản lý
người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam
có trách nhiệm chuyển đơn yêu cầu người
bào chữa cho người bào chữa, người đại
diện hoặc người thân thích của họ theo
yêu cầu ghi trong đơn của người bị bắt,
bị tạm giữ, tạm giam (Điều 75). Thứ tư,
để người bào chữa thực hiện tốt việc bào
chữa, gỡ tội, Bộ luật bổ sung một số quyền
của người bào chữa như: Quyền thu thập
chứng cứ; quyền có mặt khi lấy lời khai
của người bị bắt; quyền sau mỗi lần lấy lời
khai, hỏi cung của người có thẩm quyền
kết thúc thì có thể hỏi người bị bắt, bị tạm
giữ, bị can thay vì chỉ được hỏi khi cơ quan
tiến hành tố tụng đồng ý như hiện nay;
quyền có mặt trong hoạt động đối chất,
nhận dạng, nhận biết giọng nói (Điều
73); quy định rõ trách nhiệm của các cơ
quan tố tụng phải phải báo trước một thời
gian hợp lý cho người bào chữa về thời
gian, địa điểm tiến hành các hoạt động tố
tụng mà họ có quyền tham gia (Điều 79).
Thứ năm, để cụ thể hóa quy định của Hiến
pháp năm 2013, bảo đảm quyền bào chữa
của người bị buộc tội theo khung hình
phạt có quy định các loại, mức hình phạt
nghiêm khắc và phù hợp với điều kiện cụ
thể nước ta, BLTTHS năm 2015 mở rộng
trường hợp phải chỉ định người bào chữa
cho bị can, bị cáo về tội theo khung hình
phạt có mức cao nhất là 20 năm tù, chung
thân hoặc tử hình thay cho mức cao nhất
là tử hình như hiện nay. Thứ sáu, nhằm
tạo điều kiện cho người bào chữa nhanh
chóng tham gia bào chữa, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị buộc
tội, Bộ luật thay quy định cấp giấy chứng
nhận người bào chữa bằng quy định vào
sổ đăng ký bào chữa và ra văn bản thông
báo người bào chữa khi người bào chữa
có đủ giấy tờ. Văn bản thông báo người
bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá
trình tố tụng (Điều 78).
Việc quy định và cụ thể hóa nguyên
tắc bảo đảm quyền bào chữa thông qua
các trình tự, thủ tục minh bạch, rõ ràng, cụ
NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ...
6 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
thể, có tính khả thi nhằm bảo đảm tốt hơn
quyền bào chữa của người bị buộc tội,
nhất là người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam.
1.3. Về nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử được bảo đảm
Tranh tụng là thành tựu của nền văn
minh nhân loại, không chỉ thể hiện bản
chất nhân đạo mà còn phản ánh xu hướng
phát triển dân chủ và tiến bộ của tố tụng
hình sự. Yêu cầu tranh tụng trong xét xử
đã được đề ra trong nhiều Nghị quyết của
Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt khoản
5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã bổ
sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
được bảo đảm. Với yêu cầu đó, BLTTHS
năm 2015 đã quy định chi tiết nội dung
của nguyên tắc quan trọng này tại Điều
26, giữ vai trò chi phối và định hướng cho
toàn bộ hoạt động và hành vi tố tụng của
tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình
giải quyết các vụ án hình sự, tạo cơ hội mở
rộng và tăng cường hơn nữa môi trường
dân chủ, tính công khai, công bằng của
quá trình giải quyết vụ án hình sự; thiết
lập các cơ chế để bảo vệ ngày càng tốt hơn
quyền con người, bảo đảm quyền dân
chủ cho bị can, bị cáo và người đại diện
của họ, mở ra các khả năng và điều kiện
tốt nhất để người bào chữa tham gia vào
quá trình giải quyết vụ án được khách
quan, toàn diện, triệt để, vô tư; bảo đảm
việc giải quyết vụ án được đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Trên cơ sở bổ
sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử,
BLTTHS năm 2015 có nhiều nội dung sửa
đổi, bổ sung để cụ thể hóa nguyên tắc này,
bảo đảm nguyên tắc này được thực hiện
trên thực tế.
Bộ luật quy định trách nhiệm của
Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu, đề
nghị của Kiểm sát viên, người tham gia
tố tụng về việc cung cấp, bổ sung chứng
cứ; triệu tập người làm chứng, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng khác đến phiên tòa; về
việc thay đổi thành viên Hội đồng xét
xử, Thư ký Tòa án; đề nghị của bị cáo
hoặc người đại diện của bị cáo, người
bào chữa về việc thay đổi, hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
(Điều 279).
Nhằm khắc phục tình trạng chất
lượng tranh tụng còn hạn chế ở một số
phiên tòa có đông bị cáo, có nhiều luật sư
tham gia, do chỉ cho phép tối đa hai Kiểm
sát viên tham gia như BLTTHS năm 2003,
Bộ luật mới sửa đổi theo hướng không
hạn chế số lượng Kiểm sát viên tham
gia phiên tòa. Số lượng cụ thể Kiểm sát
viên do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng
cấp quyết định, trên cơ sở căn cứ vào tính
chất, đặc điểm của từng vụ án (Điều 289).
Nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử, bảo đảm việc tranh
tụng không chỉ thể hiện ở phần tranh luận
mà còn được thể hiện ngay trong phần xét
hỏi, BLTTHS năm 2015 đã nhập thủ tục
xét hỏi tại phiên tòa với thủ tục tranh luận
tại phiên tòa (Chương XX và Chương XXI
của BLTTHS năm 2003) thành “Thủ tục
tranh tụng tại phiên tòa” (Mục V Chương
XXI – Xét xử sơ thẩm BLTTHS năm 2015).
Quy định của BLTTHS năm 2003 về
trình tự xét hỏi còn đặt nặng trách nhiệm
chứng minh tội phạm thuộc về Hội đồng
xét xử, cụ thể Điều 207 BLTTHS năm 2003
quy định: “Khi xét hỏi từng người, Chủ tọa
phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau
đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa”.
Khắc phục hạn chế này, để thể hiện việc
tranh tụng được thể hiện ngay trong phần
xét hỏi tại phiên tòa, BLTTHS năm 2015
sửa đổi, bổ sung theo hướng Chủ tọa phiên
tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi
trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. Khi xét
hỏi từng người, Chủ tọa phiên tòa hỏi trước
sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm,
Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo
HOÀNG ANH TUYÊN
7Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
thực hiện việc hỏi (Điều 307); bổ sung quy
định khi được Chủ tọa phiên tòa đồng ý,
bị cáo được đặt câu hỏi với bị cáo khác,
hỏi người làm chứng, hỏi bị hại, đương sự
hoặc người đại diện của họ về các vấn đề
có liên quan đến bị cáo (các điều 309, 310
và 311). Sửa đổi theo hướng này để tạo ra
một cơ chế thực sự dân chủ và bình đẳng
tại phiên tòa, tạo điều kiện để thực hiện
một cách có hiệu quả nhất quyền buộc tội
và gỡ tội tại phiên tòa.
Để có cơ sở tranh luận dân chủ tại
phiên tòa, Bộ luật bổ sung quy định nội
dung luận tội của Kiểm sát viên (Điều
321) và nhấn mạnh trách nhiệm của Kiểm
sát viên là phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và
lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến
của bị cáo, người bào chữa, người tham
gia tố tụng khác tại phiên tòa. Đồng thời,
bổ sung trách nhiệm của Hội đồng xét
xử là phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến
của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa,
người tham gia tranh luận tại phiên tòa để
đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ
án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của
những người tham gia phiên tòa thì Hội đồng
xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản
án (Điều 322).
Tóm lại, việc bổ sung nguyên tranh
tụng trong xét xử được bảo đảm nhằm
mở rộng và tăng cường tính dân chủ,
công khai, công bằng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự; bảo đảm ngày càng
tốt hơn quyền con người, quyền dân chủ
cho người bị buộc tội và người đại diện
của họ, tạo ra các khả năng và điều kiện
tốt nhất để họ thực hiện quyền bào chữa,
tranh tụng; bảo đảm quá trình giải quyết
vụ án được khách quan, toàn diện, triệt
để, vô tư, việc đấu tranh phòng, chống
tội phạm có hiệu quả và việc giải quyết
vụ án được đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật.
2. Bảo vệ quyền con người, quyền
công dân thông qua việc bổ sung diện
người tham gia tố tụng và quy định đầy
đủ các quyền và cơ chế bảo đảm quyền
của người tham gia tố tụng
Thứ nhất, nhằm xác định rõ tư cách
tham gia tố tụng, tạo cơ sở pháp lý cho
những người tham gia vào hoạt động tố
tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, bên cạnh việc tiếp tục quy định 11
diện người tham gia tố tụng như hiện nay,
BLTTHS năm 2015 bổ sung 09 diện người
tham gia tố tụng (gồm: Người tố giác, báo
tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố; người bị
tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; người
chứng kiến; người dịch thuật; người định
giá tài sản; người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị
khởi tố; người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân phạm tội)
Thứ hai, Bộ luật bổ sung quyền của
những người tham gia tố tụng như: Đối
với người bị buộc tội, đã bổ sung các quyền
nhằm bảo đảm cho họ thực hiện tốt quyền
bào chữa và bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp khác của họ, gồm: Quyền được
nhận các quyết định tố tụng liên quan
đến mình; đưa ra chứng cứ thay vì chỉ
có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật như hiện
nay; trình bày lời khai, trình bày ý kiến,
không buộc phải đưa ra lời khai chống
lại chính mình hoặc buộc phải nhận
mình có tội; bị can có quyền đọc, ghi
chép bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa
liên quan đến việc buộc tội họ trong hồ
sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra; bị cáo
có quyền trực tiếp hỏi những người tham
gia tố tụng nếu được Chủ tọa phiên tòa
đồng ý... (các điều 58, 59, 60, 61). Đối với
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án, được bổ sung các quyền nhằm
giúp họ bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp
NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ...
8 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
pháp của mình như: được cơ quan tố tụng
thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ
của họ; đưa ra chứng cứ; trình bày ý kiến
về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và
yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng kiểm tra, đánh giá; đề nghị giám
định, định giá tài sản; được thông báo kết
quả giải quyết vụ án (các điều 62, 63,
64, 65).
Thứ ba, quy định trách nhiệm của
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng trong việc bảo vệ, bảo đảm các
quyền con người của người tham gia tố
tụng. Theo đó, Bộ luật bổ sung quy định
về trách nhiệm thông báo, giải thích các
quyền và nghĩa vụ của người tham gia
tố tụng như người bị buộc tội, người bị
hại thuộc diện được trợ giúp pháp lý
theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý
thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng có trách nhiệm giải thích
cho họ quyền được trợ giúp pháp lý; nếu
họ đề nghị được trợ giúp pháp lý thì cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng thông báo cho Trung tâm trợ giúp
pháp lý nhà nước; quy định trách nhiệm
của Kiểm sát viên phải hỏi cung bị can
trong trường hợp bị can kêu oan, khiếu
nại hoạt động điều tra hoặc có căn cứ
xác định việc điều tra vi phạm pháp luật
hoặc trong trường hợp khác khi xét thấy
cần thiết để bảo vệ kịp thời quyền và lợi
ích hợp pháp của bị can.
Thứ tư, Bộ luật thiết lập cơ chế hữu
hiệu để bảo vệ những người tham gia tố
tụng tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm,
đồng thời tạo cơ sở pháp lý quan trọng
để khuyến khích người dân yên tâm hợp
tác với các cơ quan tố tụng nhanh chóng
khám phá vụ án, theo đó đã bổ sung một
chương (Chương XXXIV) quy định đầy đủ
các nội dung liên quan đến bảo vệ người
tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại
và người tham gia tố tụng khác như: Quy
định những đối tượng được bảo vệ gồm
người tố giác tội phạm, người làm chứng,
bị hại và người thân thích của những
người này (Điều 484); quy định đầy đủ các
biện pháp bảo vệ để các cơ quan tố tụng
lựa chọn như: canh gác, bảo vệ; di chuyển
và giữ bí mật chỗ ở, chỗ làm việc, học tập;
thay đổi tung tích, lý lịch, đặc điểm nhân
dạng; răn đe, cảnh cáo, vô hiệu hóa các
hành vi xâm hại và các biện pháp khác
(Điều 486); quy định chặt chẽ về thời gian
áp dụng các biện pháp bảo vệ; trường hợp
chấm dứt áp dụng biện pháp bảo vệ phải
thể hiện bằng quyết định do Thủ trưởng
cơ quan tố tụng ban hành (Điều 488, 489).
3. Bảo vệ quyền con người, quyền
công dân thông qua việc quy định chặt
chẽ về các biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, để
đạt được mục đích phát hiện nhanh
chóng, chính xác và xử lý công minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa,
ngăn chặn tội phạm đòi hỏi tất yếu phải
áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế. Mặc dù việc áp dụng
các biện pháp cưỡng chế là để bảo vệ xã
hội, bảo đảm hoạt động tố tụng được
thực hiện trôi chảy nhưng việc áp dụng
các biện pháp này lại động chạm đến
quyền tự do cá nhân, quyền bất khả xâm
phạm về thân thể và các quyền hiến định
khác của công dân. Bởi vậy, yêu cầu đặt
ra đối với việc quy định và áp dụng các
biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng
chế phải rất cụ thể, chặt chẽ, phải trên cơ
sở và chỉ trong khuôn khổ quy định của
luật. Để đáp ứng yêu cầu này, nhằm bảo
đảm chặt chẽ về nội dung và thống nhất
về kỹ thuật lập pháp khi quy định các
biện pháp này phải có đầy đủ 05 yếu tố:
Căn cứ, thời hạn áp dụng, thẩm quyền
quyết định, trình tự và thủ tục tiến hành,
HOÀNG ANH TUYÊN
9Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
BLTTHS năm 2015 đã thu hút toàn bộ các
biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng
chế để điều chỉnh chung trong một
chương (Chương VII - Biện pháp ngăn
chặn, biện pháp cưỡng chế), trong đó,
thu hút biện pháp ngăn chặn tạm hoãn
xuất cảnh trong Luật nhập cảnh, xuất
cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước
ngoài tại Việt Nam năm 2014 và Nghị
định số 94/2015/NĐ-CP ngày 16/10/2015
của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 136/2007 ngày
17/8/2007 về xuất cảnh, nhập cảnh của
công dân Việt Nam để quy định trong
Mục I Chương VII BLTTHS năm 2015.
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nước, do đó yêu cầu đặt ra đối với việc
sửa đổi, bổ sung BLTTHS là phải quy
định rất cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ căn cứ
áp dụng biện pháp ngăn chặn, khắc phục
các quy định có tính “định tính” trong
BLTTHS năm 2003 nhằm chống sự tùy
nghi, lạm dụng, xâm phạm đến quyền
con người, quyền công dân. Theo đó, Bộ
luật đã thay cụm từ “Khi có căn cứ để cho
rằng” bằng cụm từ “Có đủ căn cứ để xác
định” (Điều 110).
Nhằm thể hiện tư tưởng tiến bộ,
bảo đảm quyền con người, quyền công
dân, phù hợp với xu hướng chung của
các nước trên thế giới, so với Điều 120
BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015
rút ngắn thời hạn tạm giam để điều
tra đối với tội phạm nghiêm trọng là
01 tháng, đối với tội phạm rất nghiêm
trọng là 02 tháng (Điều 173). Đối với
người chưa thành niên (người dưới 18
tuổi) phạm tội, yêu cầu đặt ra đối với
việc sửa đổi BLTTHS là phải thể hiện
sâu sắc mức độ ưu tiên đặc biệt trong
quá trình tiến hành tố tụng, bảo đảm lợi
ích tốt nhất cho các em, phù hợp với các
chuẩn mực quốc tế trong các Điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trên
cơ sở đó, BLTTHS năm 2015 rút ngắn
thời hạn tạm giam đối với người bị buộc
tội là người chưa thành niên, theo đó
thời hạn này bằng hai phần ba (2/3) thời
hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở
lên (Điều 419).
4. Bảo vệ quyền con người, quyền
công dân thông qua việc bổ sung quy
định về các biện pháp điều tra tố tụng
đặc biệt
Lần đầu tiên, BLTTHS Việt Nam quy
định biện pháp điều tra điều tra tố tụng
đặc biệt (Chương XVI) để cụ thể hóa yêu
cầu của Hiến pháp năm 2013 “Quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật”, tạo cơ sở pháp
lý để thực thi các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên, phù hợp với
xu hướng chung của các nước trên thế
giới, tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn
đấu tranh chống tội phạm hiện nay, mở
rộng nguồn chứng cứ có giá trị trực tiếp
chứng minh hành vi phạm tội. Đây là
những biện pháp điều tra khám phá tội
phạm “đặc biệt” vì hạn chế nhất định tới
quyền tự do cá nhân, nhưng trên cơ sở
cân nhắc giữa lợi ích của việc điều tra,
phát hiện tội phạm và trách nhiệm bảo
vệ quyền con người, quyền công dân của
chính Nhà nước, BLTTHS năm 2015 đã
cho phép áp dụng các biện pháp này.
Tuy nhiên, để ngăn ngừa sự tùy tiện, lạm
dụng các biện pháp này trong thực tiễn
đấu tranh phòng, chống tội phạm, tránh
sử dụng các biện pháp này xâm phạm
đến quyền con người, Bộ luật quy định
rất chặt chẽ về trình tự, thủ tục, thời hạn
áp dụng các biện pháp này. Theo đó, chỉ
cho phép áp dụng một số biện pháp gồm:
Ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại
bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử
(Điều 223); quy định chặt chẽ các trường
hợp áp dụng: chỉ đối với các tội xâm
NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ...
10 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma
túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng
bố, tội rửa tiền và các tội phạm khác có
tổ chức thuộc loại tội đặc biệt nghiêm
trọng (Điều 224); quy định rất hẹp diện
chủ thể được áp dụng biện pháp này là
Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh
trở lên và được Viện trưởng Viện kiểm
sát cùng cấp phê chuẩn; về thời hạn áp
dụng không quá 02 tháng, trường hợp
đặc biệt có thể gia hạn nhưng không quá
thời hạn điều tra (Điều 225 và 226); quy
định nghiêm ngặt việc sử dụng các thông
tin, tài liệu nhằm bảo vệ bí mật riêng tư
của các cá nhân, tổ chức: thông tin, tài
liệu thu thập được bằng việc áp dụng
biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ
được dùng làm chứng cứ phục vụ cho
việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ
án hình sự; không được sử dụng thông
tin, tài liệu, chứng cứ thu thập được vào
mục đích khác. Những thông tin, tài liệu
không liên quan đến vụ án phải được
tiêu hủy kịp thời (Điều 227).
5. Bảo vệ quyền con người, quyền
công dân thông qua việc quán triệt sâu
sắc nguyên tắc “bảo đảm lợi ích tốt nhất
cho người dưới 18 tuổi”
“Bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới
18 tuổi” là nguyên tắc của luật pháp quốc
tế, là mục tiêu hướng tới trong các chuẩn
mực quốc tế về quyền trẻ em, cũng là quan
điểm xuyên suốt trong chính sách bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ em của Đảng, Nhà
nước ta.
Xuất phát từ đặc điểm của người
dưới 18 tuổi là người chưa trưởng
thành đầy đủ về thể chất và nhận thức
nên luôn cần được sự quan tâm, bảo
vệ của gia đình và xã hội, kể cả trong
trường hợp người dưới 18 tuổi có hành
vi vi phạm pháp luật. Việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người dưới
18 tuổi và áp dụng hình phạt đối với
họ chỉ được tiến hành trong trường hợp
cần thiết, với mục đích chủ yếu là nhằm
giáo dục, giúp đỡ các em sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh, sống có trách
nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội,
trở thành công dân có ích cho đất nước.
Trên cơ sở đó, BLTTHS năm 2015 đã
đổi mới sâu sắc các thủ tục tố tụng, có
nhiều điều chỉnh quan trọng nhằm bảo
đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18
tuổi.
Thứ nhất, để bảo vệ toàn diện, tốt
nhất lợi ích cho người dưới 18 tuổi trong
tố tụng hình sự, phù hợp và đáp ứng các
chuẩn mực quốc tế, Bộ luật mở rộng phạm
vi điều chỉnh của thủ tục tố tụng đối với
người bị hại, người làm chứng là người
dưới 18 tuổi, thay vì chỉ có thủ tục cho
người dưới 18 tuổi phạm tội như hiện nay.
Thứ hai, nhằm bảo đảm tốt nhất
quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới
18 tuổi trong tố tụng hình sự, Bộ luật bổ
sung 07 nguyên tắc đặc thù áp dụng đối
với quá trình giải quyết các vụ án có người
dưới 18 tuổi (Điều 414).
Thứ ba, quy định rõ tiêu chuẩn của
người được phân công tiến hành tố tụng
trong các vụ án này phải đã được đào
tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy
tố, xét xử vụ án liên quan người dưới 18
tuổi, có hiểu biết cần thiết về tâm lý học,
khoa học giáo dục đối với người dưới 18
tuổi (Điều 415).
Thứ tư, quy định chặt chẽ, cụ thể cách
xác định tuổi của người bị buộc tội, người
bị hại là người dưới 18 tuổi, bảo đảm hợp
lý, phù hợp nguyên tắc có lợi cho người bị
buộc tội là người dưới 18 tuổi, đồng thời
bảo vệ được tốt hơn quyền và lợi ích của
người bị hại là người dưới 18 tuổi.
Thứ năm, quy định rõ hơn trách nhiệm
của cơ quan tiến hành tố tụng, người đại
diện của người dưới 18 tuổi trong việc
HOÀNG ANH TUYÊN
11Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
giao và thực hiện giám sát đối với người
bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cũng như
trách nhiệm phối hợp khi phát hiện người
dưới 18 tuổi đang được giám sát có hành
vi vi phạm pháp luật, phạm tội để có biện
pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời (Điều 418).
Thứ sáu, quy định chặt chẽ căn cứ
áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế đối với người dưới 18
tuổi nhằm thực hiện khuyến nghị của
quốc tế “bắt, giam, giữ trẻ em chỉ là biện
pháp cuối cùng khi không còn biện pháp nào
khác thích hợp”(1). Theo đó, Bộ luật quy
định chỉ được áp dụng trong trường hợp
thật cần thiết và có căn cứ xác định việc
áp dụng biện pháp giám sát và các biện
pháp ngăn chặn khác không có hiệu quả
(Điều 419).
Thứ bảy, rút ngắn thời hạn tạm giam
người dưới 18 tuổi (thời hạn tạm giam đối
với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi
bằng 2/3 thời hạn tạm giam đối với người
đủ 18 tuổi trở lên) nhằm đẩy nhanh quá
trình giải quyết vụ án, tránh những hậu
quả tiêu cực có thể ảnh hưởng đến các em
do phải tách khỏi môi trường gia đình,
gián đoạn việc học hành, cũng như nguy
cơ tái phạm do phải tiếp xúc với những
ảnh hưởng xấu từ những người bị giam,
giữ khác.
Thứ tám, quy định đầy đủ, rõ ràng,
chặt chẽ thủ tục lấy lời khai người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt,
người bị tạm giữ, người bị hại, người làm
chứng; hỏi cung bị can; đối chất, bảo đảm
việc thực hiện các thủ tục tố tụng này phù
hợp với thể trạng và tâm sinh lý của người
dưới 18 tuổi, nhằm tránh gây tâm lý căng
thẳng cho các em, đáp ứng yêu cầu của
Công ước quốc tế về quyền trẻ như quy
định: chỉ được phép lấy lời khai, hỏi cung
không quá hai lần trong một ngày và mỗi
1 Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em
lần không quá hai giờ; chỉ tiến hành đối
chất giữa bị hại là người dưới 18 tuổi với
bị can, bị cáo để làm sáng tỏ tình tiết của
vụ án trong trường hợp nếu không đối
chất thì không thể giải quyết được vụ án;
bắt buộc phải có người bào chữa, người
đại diện, người bảo vệ quyền lợi tham gia
khi cơ quan tố tụng tiến hành lấy lời khai,
hỏi cung, tạo tâm lý an tâm cho người
dưới 18 tuổi (Điều 421).
Thứ chín, quy định việc xét hỏi,
tranh luận tại phiên tòa phải được tiến
hành phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát
triển của người dưới 18 tuổi; phòng xử
án được bố trí thân thiện, phù hợp với
người dưới 18 tuổi; trường hợp đặc biệt
cần bảo vệ bị cáo, bị hại là người dưới
18 tuổi thì Tòa án có thể quyết định xét
xử kín, để bảo đảm sự khách quan, công
khai, minh bạch, tạo điều kiện trợ giúp
tốt hơn về mặt tâm lý cho người dưới 18
tuổi tại phiên tòa (Điều 423).
Thứ mười, bổ sung và quy định cụ
thể thủ tục áp dụng các biện pháp khiển
trách; hòa giải tại cộng đồng; giáo dục tại
xã, phường, thị trấn khi cơ quan tiến hành
tố tụng xét thấy không cần thiết phải áp
dụng trách nhiệm hình sự. Việc áp dụng
các biện pháp xử lý này với tính chất nhằm
thay thế hiệu quả việc áp dụng hình phạt
và biện pháp tư pháp là hoàn toàn phù
hợp, bảo đảm mục đích giáo dục, phòng
ngừa đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
trong tình hình hiện nay nhằm đề cao tính
hướng thiện trong đường lối xử lý người
dưới 18 tuổi, mang ý nghĩa nhân văn và
có vai trò tích cực đối với việc hoàn thiện
các trình tự, thủ tục tố tụng, phù hợp với
chính sách hình sự xử lý xử lý người dưới
18 tuổi phạm tội (các điều 427, 428, 429)./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_noi_dung_moi_cua_bo_luat_to_tung_hinh_su_nam_2015_ve_b.pdf