Luật Ban hành văn bản QPPL năm
2008 không quy định ở bất kỳ điều nào về
việc chấm dứt hiệu lực pháp lý của văn bản
quy định chi tiết khi văn bản được quy định
chi tiết thi hành hết hiệu lực, dẫn đến rất khó
để trả lời câu hỏi: văn bản quy định chi tiết
có hết hiệu lực hay không khi văn bản được
quy định chi tiết đã hết hiệu lực? Vì vậy, có
thể nói, quy định mới về “chấm dứt hiệu lực
của văn bản quy định chi tiết” có nhiều giá
trị, trước hết là giá trị trong việc tạo ra sự
đồng bộ, thống nhất về áp dụng văn bản
QPPL, nhất là áp dụng trong thời điểm “giao
thời” giữa văn bản cũ và văn bản mới, dễ
dẫn đến sự thiếu thống nhất nếu không có
sự rõ ràng về nguyên tắc áp dụng. Ngoài ra,
quy định này còn phù hợp với quy định tại
khoản 2 Điều 11: “Dự thảo văn bản quy định
chi tiết phải được chuẩn bị và trình đồng
thời với dự án luật, pháp lệnh và phải được
ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có
hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm
được quy định chi tiết” (vì văn bản quy định
chi tiết được ban hành để có hiệu lực cùng
thời điểm với văn bản được quy định chi tiết
thì không có lý do gì để văn bản được quy
định chi tiết hết hiệu lực mà văn bản quy
định chi tiết lại còn hiệu lực).
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 229 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những quy định mới về văn bản quy phạm pháp luật của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngangbộ là thành viên Chính phủ và làngười đứng đầu bộ, cơ quan ngang
bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang
bộ1. Với vị trí đó, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ có quyền “ban hành văn bản
quy phạm pháp luật (QPPL) theo thẩm
quyền”2 - công cụ pháp lý quan trọng và
không thể thiếu để các chủ thể này thực hiện
chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước đối
với ngành, lĩnh vực được phân công trong
phạm vi toàn quốc. Theo quy định của Luật
Ban hành văn bản QPPL năm 2015, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có
quyền ban hành văn bản QPPL với tên gọi
là Thông tư (Khoản 8, Điều 4).
14
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
NHÛÄNG QUY ÀÕNH MÚÁI VÏÌ VÙN BAÃN QUY PHAÅM PHAÁP LUÊÅT
CUÃA BÖÅ TRÛÚÃNG, THUÃ TRÛÚÃNG CÚ QUAN NGANG BÖÅ
Dương Hồng Thị Phi Phi*
* ThS. Giảng viên Khoa Luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: Văn bản quy phạm
pháp luật, bộ trưởng, thủ
trưởng cơ quan ngang bộ
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 16/12/2016
Biên tập: 13/01/2017
Duyệt bài: 20/01/2017
Article Infomation:
Keywords:
Legal Documents,
Ministers, Heads of
Ministry-level Agencies
Article History:
Received: 16 Dec. 2016
Edited: 13 Jan. 2017
Approved: 20 Jan. 2017
Tóm tắt:
Bài viết bình luận về những quy định mới của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2016) đối với văn bản
quy phạm pháp luật của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ về hình
thức, nội dung, trình tự, thủ tục ban hành, cũng như về hiệu lực và nguyên
tắc áp dụng.
Abstract:
This article provides comments on the new provisions of forms, contents,
procedures, effectiveness as well as validity and rules for application of
legal documents of the Ministers and Heads of ministry-level agencies in
the Law on Promulgation of Legal Documents of 2015 (coming into force
from July 01, 2016).
1 Điều 32 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015.
2 Khoản 4, Điều 34 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015.
15
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Trong hệ thống pháp luật nước ta, số
lượng văn bản QPPL do các Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ ban hành rất lớn3
nên sự tác động của chúng đối với các lĩnh
vực của xã hội là “không hề nhỏ”. Vấn đề
đáng quan tâm là số lượng ấy có làm gia
tăng chi phí tuân thủ pháp luật, kìm hãm sự
phát triển của nền kinh tế thị trường, của tự
do, dân chủ hay không? Theo Báo cáo năng
lực cạnh tranh toàn cầu 2015 - 2016 của
Diễn đàn Kinh tế thế giới, trong số 140 quốc
gia tham gia bảng xếp hạng về năng lực
cạnh tranh toàn cầu thì Việt Nam xếp thứ 90
về gánh nặng chi phí tuân thủ quy định của
pháp luật của nhà nước (burden of govern-
ment regulation)4. Vì vậy, cần phải tiếp tục
cải tiến hơn nữa hoạt động ban hành văn bản
QPPL nói chung, trong đó có văn bản của
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Với tư duy đổi mới được thể hiện qua nhiều
quy định tiến bộ, Luật Ban hành văn bản
QPPL năm 2015 là cơ sở cho hoạt động ban
hành văn bản QPPL có chất lượng trong thời
gian tới.
1. Điểm mới về tên loại văn bản quy
phạm pháp luật của Bộ trưởng, thủ
trưởng cơ quan ngang bộ trong Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2015
Theo xu hướng đơn giản hóa hệ thống
văn bản QPPL ở nước ta, một số hình thức
văn bản không còn là văn bản QPPL, trong
đó có hình thức thông tư liên tịch giữa Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Theo
đó, các chủ thể này chỉ có quyền ban hành
văn bản QPPL với tên gọi là thông tư.
Quy định mới này tuy gây khó khăn
không nhỏ khi tạo thêm áp lực cho Chính
phủ, Thủ tướng trong việc ban hành văn bản
QPPL đối với những trường hợp mà trước
đây là thuộc thẩm quyền “liên tịch” của Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với
nhau, nhưng “tư duy” mới này đáp ứng yêu
cầu về tăng cường tính chịu trách nhiệm,
tính chủ động, tính phân định rạch ròi về
mặt thẩm quyền trong hoạt động ban hành
văn bản QPPL. Trước đây, khi nội dung cần
điều chỉnh có liên quan đến nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý
của nhiều bộ - từ hai bộ trở lên (còn gọi là
sự giao thoa về thẩm quyền) thì Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có thể “ngồi”
lại với nhau để phối hợp ban hành văn bản
dưới hình thức thông tư liên tịch nếu Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ không có văn bản
điều chỉnh về vấn đề đó. Nhưng một số vấn
đề bất cập đã nảy sinh như sự phân định
trách nhiệm của cơ quan quản lý chưa rạch
ròi, cơ chế “phối hợp” chưa thể hiện được
sự chủ động khi ban hành loại văn bản
mang tính chất liên tịch này.
Trong khi đó, theo đúng tinh thần quy
định trong Hiến pháp năm 2013 và được cụ
thể hóa trong Luật Tổ chức Chính phủ năm
2015, về khía cạnh thẩm quyền, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chỉ có quyền
“ban hành văn bản QPPL theo thẩm quyền
để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý
nhà nước đối với ngành, lĩnh vực được phân
công” (khoản 4 Điều 34). Như vậy, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ khi
ban hành văn bản QPPL không thể “lấn sân”
sang lĩnh vực quản lý của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ khác, đồng thời
với nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Chính phủ là “Phân định rõ nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm giữa Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ và chức năng, phạm vi quản
lý giữa các bộ, cơ quan ngang bộ”5 thì
3 Xem số liệu thống kê ở phần biểu đồ.
4 Xem: The Global Competitiveness Index in detail,
itiveness_Report_2015-2016.pdf, p. 367.
5 Điều 5 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015.
từng Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ chỉ chịu trách nhiệm đối với ngành, lĩnh
vực được phân công. Nếu nguyên tắc này
được thực hiện một cách “triệt để” thì sự
“giao thoa” về thẩm quyền giữa các bộ, cơ
quan ngang bộ là không có, còn những vấn
đề về quản lý cần “tiếng nói” chung, cần đi
đến thống nhất thì phải thuộc về trách
nhiệm, thẩm quyền của Chính phủ và Thủ
tướng Chính phủ. Như vậy, không còn lý do
cho sự tồn tại của loại hình văn bản QPPL
mang tính chất liên tịch giữa các Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với nhau. Luật
Ban hành văn bản QPPL năm 2015 đã thể
chế hóa tư tưởng này.
2. Điểm mới về nội dung văn bản quy phạm
pháp luật của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ trong Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2015
2.1 Theo Luật Ban hành văn bản
QPPL năm 2015, thẩm quyền ban hành nội
dung văn bản QPPL của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ “ít” hơn so với
trước, thể hiện ở các mặt chủ yếu sau:
Một là, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ không được quyền ban hành
thông tư có nội dung quy định về thủ tục
hành chính (khoản 4 Điều 14 Luật Ban hành
văn bản QPPL năm 2015). Quy định này
nhằm cụ thể hóa, “triển khai thi hành” tư
tưởng mang tính nguyên tắc được quy tại
Điều 5 - Nguyên tắc xây dựng văn bản
QPPL là “bảo đảm yêu cầu cải cách thủ tục
hành chính”, cũng đồng thời đáp ứng yêu
cầu “cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ
tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực quản
lý nhà nước, nhất là thủ tục hành chính liên
quan tới người dân, doanh nghiệp” theo
Nghị quyết của Chính phủ về Ban hành
Chương trình tổng thể cải cách hành chính
nhà nước giai đoạn 2011 - 20206, góp phần
hạn chế tình trạng ban hành thủ tục hành
chính “tràn lan” của các cơ quan, đặc biệt là
các bộ, cơ quan ngang bộ và chính quyền địa
phương, giảm bớt gánh nặng chi phí tuân
thủ pháp luật cho người dân, doanh nghiệp.
Hai là, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ không còn ban hành văn bản để
quy định về “những vấn đề khác do Chính
phủ giao” như quy định của Luật Ban hành
văn bản QPPL năm 2008. Một Chính phủ
chịu trách nhiệm đòi hỏi cơ chế chịu trách
nhiệm rạch ròi của những bộ phận hợp thành
nên Chính phủ. Phân công trách nhiệm rõ
ràng giữa các nhánh quyền lực (lập pháp,
hành pháp và tư pháp) và giữa các cơ quan,
bộ phận thuộc cùng nhánh quyền lực là tư
duy đổi mới được thể hiện trong Hiến pháp
năm 2013. Do đó, Chính phủ không thể tùy
tiện “giao” trách nhiệm cho Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản
QPPL mà đáng lẽ ra những nội dung đó lại
thuộc về trách nhiệm của chính mình.
Ba là, không còn thẩm quyền “Quy
định về quy trình, quy chuẩn kỹ thuật, định
mức kinh tế - kỹ thuật của ngành, lĩnh vực
do mình phụ trách” như Luật Ban hành văn
bản QPPL năm 2008 (Khoản 2 Điều 16).
2.2 Luật Ban hành văn bản QPPL
năm 2015 quy định rõ hơn về thẩm quyền
ban hành văn bản quy định chi tiết trong
thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ
Đối với thẩm quyền ban hành văn bản
quy định chi tiết, Luật Ban hành văn bản
QPPL năm 2008 quy định Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ có quyền: “Quy
định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của
Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ,
quyết định của Thủ tướng Chính phủ”
16
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011.
(Khoản 1 Điều 16). Còn theo Luật Ban hành
văn bản QPPL năm 2015, Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản
QPPL để quy định: “Chi tiết điều, khoản,
điểm được giao trong luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của
Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ,
quyết định của Thủ tướng Chính phủ”
(khoản 1 Điều 24).
Điểm khác biệt trong quy định giữa
hai Luật về vấn đề này là tính chất “không
bị giới hạn” hoặc “bị giới hạn” về thẩm
quyền ban hành văn bản quy định chi tiết
của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ. Theo tinh thần của Luật Ban hành văn
bản QPPL năm 2008, Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ có quyền ban hành
văn bản QPPL để quy định chi tiết thi hành
các văn bản thuộc Điều 16 mà không có sự
“giới hạn” nào, nhưng theo Điều 24 Luật
Ban hành văn bản QPPL năm 2015 thì Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chỉ
được quyền ban hành thông tư để quy định
chi tiết khi mà điều, khoản, điểm trong luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh,
quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của
Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính
phủ có “giao”. Quy định này góp phần hạn
chế sự tùy nghi của Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ trong việc ban hành văn
bản quy định chi tiết.
Hàng năm, số lượng văn bản QPPL do
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
ban hành đều rất lớn. Chẳng hạn, “năm
2015, các bộ, cơ quan đã trình Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban
hành theo thẩm quyền 1.003 văn bản”7,
trong đó, số văn bản QPPL do Chính phủ,
Thủ tướng ban hành chỉ ở con số 188 (gồm
128 nghị định, 60 quyết định)8, số lượng còn
lại đương nhiên thuộc về Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ. Không những
trong năm 2015 mà ở các năm trước đó, số
lượng văn bản do Chính phủ, Thủ tướng và
các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ ban hành đều rất lớn9 và chắc chắn trong
số lượng lớn văn bản đó, Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ vẫn là chủ thể ban
hành nhiều nhất (vượt trội).
Vì vậy, việc áp dụng triệt để các quy
định mới về thẩm quyền nội dung văn bản
QPPL của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ trong Luật Ban hành văn bản QPPL
năm 2015 sẽ giúp giảm “đáng kể” số lượng
các văn bản do những chủ thể này ban hành
trong thực tế, góp phần giảm bớt chi phí tuân
thủ pháp luật, gia tăng khả năng áp dụng trực
tiếp các văn bản cấp trên như luật, pháp lệnh,
nghị định, tránh tình trạng luật, pháp lệnh,
nghị định đã ban hành nhưng vẫn bị vô hiệu
hóa vì thiếu sự “hướng dẫn” của các Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
3. Điểm mới về trình tự, thủ tục ban hành
văn bản quy phạm pháp luật của Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
trong Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015
3.1 Luật Ban hành văn bản QPPL
năm 2015 quy định quy trình ban hành
thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ chặt chẽ hơn
Không chỉ xác định trình tự, thủ tục
cần phải thực hiện khi ban hành thông tư của
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ,
Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 còn
quy định các công việc cụ thể cần phải tiến
17
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7 Báo cáo số 12/BC-BTP của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ngày 20/01/2016 về Tổng kết công tác tư pháp năm 2015, nhiệm
kỳ 2011-2015; định hướng nhiệm kỳ 2016-2020 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2016.
8 Xem
9 Xem biểu đồ bên dưới.
18
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
hành trong các bước. Đây là tư duy đổi mới
thể hiện xu hướng luật phải cụ thể, chi tiết,
luật phải áp dụng trực tiếp. Trước đây, Luật
Ban hành văn bản QPPL năm 2008 chỉ dành
một điều duy nhất (Điều 68) để quy định về
xây dựng, ban hành thông tư của Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thì Luật Ban
hành văn bản QPPL năm 2015 dành nhiều
điều khoản quy định cụ thể hơn (dành một
mục riêng - Mục 4 (từ Điều 101 đến Điều
104). Quy định này nhằm đáp ứng yêu cầu
về tính “cẩn trọng” trong hoạt động ban
hành văn bản QPPL của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ. Tính “cẩn trọng”
này góp phần hạn chế đến mức thấp nhất
những khiếm khuyết có thể xảy ra trong hoạt
động ban hành văn bản QPPL của những
chủ thể này, như văn bản ra đời kém chất
lượng, không phù hợp với thực tiễn, mâu
thuẫn, chồng chéo với các văn bản khác
trong cùng hệ thống pháp luật.
3.2 Quy trình ban hành thông tư
của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ trong Luật Ban hành văn bản QPPL năm
2015 sẽ tăng cường và tạo cơ hội cho sự
tham gia của công chúng vào xây dựng dự
thảo
Luật Ban hành văn bản QPPL năm
2015 coi trọng hoạt động lấy ý kiến nhằm
nâng cao chất lượng của dự thảo so với Luật
trước đây. Không chỉ có trách nhiệm đăng
tải dự thảo thông tư trên Trang thông tin điện
tử của cơ quan ban hành trong thời gian ít
nhất là sáu mươi ngày để cơ quan, tổ chức,
cá nhân tham gia ý kiến như Luật Ban hành
văn bản QPPL năm 2008, Luật hiện hành
còn đặt ra yêu cầu: “Trong quá trình soạn
thảo thông tư, bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì
soạn thảo phải lấy ý kiến đối tượng chịu sự
tác động trực tiếp của văn bản; nêu những
vấn đề cần xin ý kiến phù hợp với từng đối
tượng lấy ý kiến và xác định cụ thể địa chỉ
tiếp nhận ý kiến; đăng tải toàn văn dự thảo
trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ
và cổng thông tin điện tử của bộ, cơ quan
ngang bộ trong thời gian ít nhất là 60 ngày”
(khoản 2 Điều 101). Cơ chế tăng cường lấy
ý kiến đối với dự thảo văn bản, nhất là đối
với “cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm chịu ảnh hưởng trực
tiếp từ việc áp dụng văn bản đó sau khi được
ban hành” có ý nghĩa quan trọng trong hoạt
động ban hành văn bản QPPL của các cơ
quan nhà nước nói chung, Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ nói riêng. Nếu
được thực hiện nghiêm túc, cơ chế này sẽ
góp phần tạo ra những thông tư bảo đảm
tính khách quan, phù hợp với thực tiễn, xuất
phát từ nguyện vọng của nhân dân, nhất là
từ các đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ
văn bản.
4. Điểm mới về hiệu lực và nguyên tắc áp
dụng văn bản quy phạm pháp luật của Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
trong Luật Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015
Về thời điểm phát sinh hiệu lực
Theo Luật Ban hành văn bản QPPL
năm 2015, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ không còn quyền ban hành văn
bản có hiệu lực kể từ ngày ký. Đây là điểm
tiến bộ mang tính nhân văn, vì quyền con
người.
Thời điểm phát sinh hiệu lực xác định
thời điểm một văn bản QPPL bắt đầu điều
chỉnh các quan hệ xã hội mà nó dự liệu trong
các quy phạm. Để bảo đảm quyền con
người, pháp luật nước ta đã đặt ra những yêu
cầu chung khi quy định về thời điểm bắt đầu
có hiệu lực của một văn bản QPPL, trong đó
có yêu cầu: chủ thể ban hành văn bản phải
dự liệu một thời gian nhất định (đủ dài)
trước khi văn bản bắt đầu phát sinh hiệu lực
để các chủ thể, nhất là chủ thể chịu sự tác
động trực tiếp của văn bản được biết, tiếp
cận văn bản và chuẩn bị các điều kiện cần
thiết cho việc áp dụng văn bản đó khi nó có
hiệu lực. Tuy nhiên, vì một số lý do nhất
định, pháp luật cũng có phép trong một số
trường hợp chủ thể có quyền ban hành văn
bản QPPL có hiệu lực “sớm” hơn.
Theo Luật Ban hành văn bản QPPL
năm 2008: “Trường hợp văn bản QPPL quy
định các biện pháp thi hành trong tình trạng
khẩn cấp, văn bản được ban hành để kịp thời
đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai, dịch
bệnh thì có thể có hiệu lực kể từ ngày công
bố hoặc ký ban hành” (Khoản 1 Điều 78).
Tuy nhiên, theo quy định này, bất kỳ chủ thể
nào ở trung ương10 (bao gồm cả Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ) đều có thể
ban hành văn bản QPPL có hiệu lực kể từ
ngày ký khi rơi vào điều kiện như trên.
Không những vậy, cụm từ “tình trạng khẩn
cấp” gây ra nhiều tranh cãi trong thực tế áp
dụng (vì thế nào là tình trạng khẩn cấp chưa
được giải thích trong Luật này) và có thể bị
“lợi dụng” để ban hành văn bản có hiệu lực
kể từ ngày ký mà không bị xử lý bởi họ dựa
vào lý lẽ là văn bản của mình được ban hành
trong tình trạng rất “khẩn cấp”.
Với quy định “Văn bản QPPL được
ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn thì có
thể có hiệu lực kể từ ngày thông qua hoặc
ký ban hành” tại khoản 2 Điều 151 Luật
Ban hành văn bản QPPL năm 2015, kết hợp
với các quy định cụ thể về các trường hợp
xây dựng, ban hành văn bản QPPL theo
trình tự, thủ tục rút gọn (Điều 146), thẩm
quyền quyết định việc xây dựng, ban hành
văn bản QPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn
(Điều 147) đã chấm dứt quyền năng ban
hành văn bản có hiệu lực kể từ ngày ký của
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ,
cũng như của một số chủ thể khác. Bởi vì,
theo Điều 147 thì các chủ thể sau đây mới
có quyền ban hành văn bản theo trình tự, thủ
tục rút gọn: Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính
phủ, Chính phủ, Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Vì vậy, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ (cùng
một số chủ thể khác) không có thẩm quyền
ban hành văn bản theo trình tự, thủ tục rút
gọn, cũng đồng nghĩa với việc không thể
ban hành thông tư có hiệu lực kể từ ngày ký.
Điều này có ý nghĩa quan trọng, nhất
là trong điều kiện các quan hệ xã hội nếu cần
được điều chỉnh bởi pháp luật lại chịu sự tác
động chủ yếu và trực tiếp từ các quy định
trong văn bản QPPL của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ (chứ không phải
Hiến pháp, các văn bản luật - văn bản cấp
trên), mà số lượng văn bản do các chủ thể
này ban hành lại quá nhiều (như trên đã
thống kê). Nếu trao quyền quy định văn bản
QPPL có hiệu lực kể từ ngày ký cho các Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thì
nguy cơ ảnh hưởng “nhiều hơn” đến quyền
con người khi các chủ thể không có đủ thời
gian cần thiết để chuẩn bị cho việc áp dụng
văn bản QPPL là có thể xảy ra (nếu không
nói là lớn).
Về thời điểm chấm dứt hiệu lực của
văn bản do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ ban hành để quy định chi tiết thi
hành các văn bản “cấp trên”
Tuy quy định sau đây không chỉ dùng
cho văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ mà còn dùng cho văn bản
QPPL quy định chi tiết nói chung, nhưng
với tư cách là một loại văn bản quy định chi
tiết thì văn bản QPPL của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ khi được ban hành
trong trường hợp này cũng chịu sự ràng
buộc: “Văn bản QPPL hết hiệu lực thì văn
bản QPPL quy định chi tiết thi hành văn bản
đó cũng đồng thời hết hiệu lực” (khoản 4
19
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Ở đây không bàn về hiệu lực của văn bản do các chủ thể ở chính quyền địa phương ban hành, vì thời điểm có hiệu
lực của văn bản QPPL ở chính quyền địa phương chịu sự điều chỉnh của Luật Ban hành văn bản QPPL của Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 chứ không phải của Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2008.
Điều 154 Luật Ban hành văn bản QPPL năm
2015).
Luật Ban hành văn bản QPPL năm
2008 không quy định ở bất kỳ điều nào về
việc chấm dứt hiệu lực pháp lý của văn bản
quy định chi tiết khi văn bản được quy định
chi tiết thi hành hết hiệu lực, dẫn đến rất khó
để trả lời câu hỏi: văn bản quy định chi tiết
có hết hiệu lực hay không khi văn bản được
quy định chi tiết đã hết hiệu lực? Vì vậy, có
thể nói, quy định mới về “chấm dứt hiệu lực
của văn bản quy định chi tiết” có nhiều giá
trị, trước hết là giá trị trong việc tạo ra sự
đồng bộ, thống nhất về áp dụng văn bản
QPPL, nhất là áp dụng trong thời điểm “giao
thời” giữa văn bản cũ và văn bản mới, dễ
dẫn đến sự thiếu thống nhất nếu không có
sự rõ ràng về nguyên tắc áp dụng. Ngoài ra,
quy định này còn phù hợp với quy định tại
khoản 2 Điều 11: “Dự thảo văn bản quy định
chi tiết phải được chuẩn bị và trình đồng
thời với dự án luật, pháp lệnh và phải được
ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có
hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm
được quy định chi tiết” (vì văn bản quy định
chi tiết được ban hành để có hiệu lực cùng
thời điểm với văn bản được quy định chi tiết
thì không có lý do gì để văn bản được quy
định chi tiết hết hiệu lực mà văn bản quy
định chi tiết lại còn hiệu lực).
20
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11 Xem Báo cáo số 12/BC-BTP của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ngày 20/01/2016, Tlđd .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. The Global Competitiveness Index in detail,
ness_Report_2015-2016.pdf, page 367.
2. Báo cáo số 12/BC-BTP của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ngày 20/01/2016 về Tổng kết công tác tư pháp năm 2015, nhiệm
kỳ 2011-2015; định hướng nhiệm kỳ 2016 - 2020 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2016.
3.
Biểu đồ: Kết quả trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành
văn bản QPPL theo thẩm quyền của các bộ, cơ quan ngang bộ từ năm 2012-20151.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_quy_dinh_moi_ve_van_ban_quy_pham_phap_luat_cua_bo_truo.pdf