Trong bài viết này, tác giả đã tập trung phân tích nhằm làm sáng tỏ những suy tư triết học của Đặng Tiểu Bình trong việc xác lập lại đường lối tư tưởng chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc. Theo tác giả, những cống hiến lý luận quan trọng của Đặng Tiểu Bình thể hiện chủ yếu ở:
1/ Phân tích tư tưởng Mao Trạch Đông trên cơ sở mối quan hệ giữa toàn thể và bộ phận, giữa lý luận và thực tiễn;
2/ Xuất phát từ mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái phổ biến và cái đặc thù để giải quyết vấn đề kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với thực tiễn cụ thể của Trung Quốc;
18 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1737 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những suy tư triết học của Đặng Tiểu Bình trong việc xác lập lại đường lỗi tư tưởng chủ nghĩa Mác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG SUY TƯ TRIẾT HỌC CỦA ĐẶNG TIỂU BÌNH TRONG VIỆC
XÁC LẬP LẠI ĐƯỜNG LỐI TƯ TƯỞNG CHỦ NGHĨA MÁC(*)
TỪ SÙNG ÔN(**)
Trong bài viết này, tác giả đã tập trung phân tích nhằm làm sáng tỏ những suy
tư triết học của Đặng Tiểu Bình trong việc xác lập lại đường lối tư tưởng chủ
nghĩa Mác ở Trung Quốc. Theo tác giả, những cống hiến lý luận quan trọng của
Đặng Tiểu Bình thể hiện chủ yếu ở: 1/ Phân tích tư tưởng Mao Trạch Đông trên
cơ sở mối quan hệ giữa toàn thể và bộ phận, giữa lý luận và thực tiễn; 2/ Xuất
phát từ mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái phổ biến và cái đặc
thù để giải quyết vấn đề kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với thực tiễn cụ thể
của Trung Quốc; 3/ Dựa vào mối quan hệ giữa tính gián đoạn và tính liên tục để
giải quyết vấn đề kế thừa và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác.
Từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 3 khoá XI của Đảng Cộng sản Trung
Quốc, Đặng Tiểu Bình đã lãnh đạo nhân dân Trung Quốc xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, làm cho chủ nghĩa xã hội trên thế
giới đang ở vào thời khắc gay go và thoái trào trở nên đầy sức sống ở Trung
Quốc. Sở dĩ Đặng Tiểu Bình có công lao to lớn đó là do ông vừa xác lập lại
đường lối tư tưởng chủ nghĩa Mác cho Đảng, vừa không ngừng giải quyết các
vấn đề nảy sinh liên tục trong quá trình vận dụng đường lối tư tưởng đó vào thực
tiễn Trung Quốc.
Trong lịch trình phát triển công cuộc cải cách mở cửa, xây dựng hiện đại hoá xã
hội chủ nghĩa, Đặng Tiểu Bình luôn đưa ra vấn đề mà mọi người chưa thực sự
hiểu rõ: thế nào là chủ nghĩa Mác, thế nào là chủ nghĩa xã hội. Ông viết: “Chúng
ta đã tổng kết mấy chục năm kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, vậy chủ
nghĩa xã hội là gì? Chủ nghĩa Mác là gì? Từ trước đến giờ chúng ta vẫn chưa
thực sự hiểu rõ”(1); “Nhiều năm qua, vẫn tồn tại vấn đề cần phải lý giải về chủ
nghĩa Mác, về chủ nghĩa xã hội”, “Hơn 100 năm sau khi Mác qua đời, cuối cùng
đã xảy ra những thay đổi gì, trong điều kiện thay đổi đó, nhận thức và phát triển
chủ nghĩa Mác như thế nào, điều này vẫn chưa được làm rõ”(2); “Trong 10 năm
“Đại cách mạng văn hoá”, thế nào là chủ nghĩa xã hội, thế nào là chủ nghĩa Mác,
cũng chưa được làm sáng tỏ”, “Nay, chúng ta kiên trì chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa
Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông, trong bài học kinh nghiệm, chúng ta đã
hiểu được thế nào là chủ nghĩa Mác. Một tên gọi khác của chủ nghĩa Mác là chủ
nghĩa cộng sản, đây vẫn là niềm tin mà chúng ta luôn phải kiên trì”(3).
Vấn đề “thế nào là chủ nghĩa Mác” mà Đặng Tiểu Bình nhiều lần nhắc đến ở
đây có 2 hàm nghĩa: một là, với tư cách “chủ nghĩa cộng sản là một tên gọi khác
của chủ nghĩa Mác”, quá trình hiểu rõ vấn đề “thế nào là chủ nghĩa Mác” cũng
chính là phải nghiên cứu và hiểu rõ quá trình thế nào là chủ nghĩa xã hội, làm
thế nào để xây dựng chủ nghĩa xã hội; hai là, với tư cách con đường tư tưởng
chủ nghĩa Mác, quá trình hiểu rõ vấn đề “thế nào là chủ nghĩa xã hội” cũng
chính là nghiên cứu vấn đề phải nhìn nhận, có thái độ thế nào về chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông, làm thế nào để vận dụng chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông. Hai hàm nghĩa đó của vấn đề “thế nào là chủ
nghĩa Mác” vừa có sự khác biệt, vừa có liên quan đến nhau: hiểu rõ vấn đề thế
nào là chủ nghĩa xã hội, làm thế nào để xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng có nghĩa
là phải hiểu rõ mục đích của vấn đề “thế nào là chủ nghĩa Mác”, làm rõ việc phải
xem xét và nhìn nhận như thế nào về chủ nghĩa Mác, làm thế nào để vận dụng
nguyên tắc: giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị vào việc nghiên cứu chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông; đồng thời, phải đảm bảo đường lối tư
tưởng: giải quyết vấn đề chủ nghĩa xã hội là gì, làm thế nào để xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Vấn đề này nhiều năm qua đã thu hút sự chú ý rộng rãi của các học
giả. Bài viết này chỉ nhìn từ góc độ Đặng Tiểu Bình xác lập lại đường lối tư
tưởng chủ nghĩa Mác để lý giải việc ông luôn giải quyết các vấn đề nảy sinh
trong quá trình vận dụng đường lối tư tưởng này như thế nào; đồng thời, xét về
mặt triết học, ông đã nhận thức và lý giải tư tưởng Mao Trạch Đông như thế
nào, làm thế nào kết hợp giữa lý luận của chủ nghĩa Mác vớí tình hình thực tế
của Trung Quốc, kể cả việc kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc
như thế nào.
I. Xuất phát từ mối quan hệ giữa toàn thể và bộ phận, giữa lý luận và thực
tiễn nhằm giải quyết vấn đề làm thế nào để hiểu và phân tích tư tưởng Mao
Trạch Đông
Sau khi “Đại cách mạng văn hoá” kết thúc, tập đoàn phản cách mạng Giang
Thanh bị phá vỡ, có một vấn đề nổi cộm chưa được hiểu rõ, đó là chủ nghĩa Mác
là gì, cần phải nhận thức và lý giải tư tưởng Mao Trạch Đông như thế nào. Lãnh
đạo Trung ương Đảng lúc đó đề ra phương châm phải sử dụng “hai điều phàm
là” để nhìn nhận tư tưởng Mao Trạch Đông: “Phàm là quyết sách của Chủ tịch
Mao đưa ra, thì chúng ta đều kiên quyết ủng hộ; phàm là chỉ thị của Chủ tịch
Mao, thì chúng ta phải luôn tuân theo”. Thực chất tư tưởng của phương châm
“hai điều phàm là” là chủ trương không cần xuất phát từ thực tế, mà phải xuất
phát từ những chỉ thị, nhận định riêng của Mao Trạch Đông, lấy đó để cắt gọt
hiện thực.
Từ hai góc độ khác nhau đó, Đặng Tiểu Bình đã hai lần nói rõ vấn đề cần phải
nhận thức và lý giải tư tưởng Mao Trạch Đông như thế nào.
Thứ nhất, nhìn từ góc độ mối quan hệ giữa toàn thể và bộ phận, Đặng Tiểu Bình
đã phân biệt rõ nguyên lý cơ bản, hệ thống khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Mao Trạch Đông với các nhận định riêng trong các hệ thống đó. Ông
nhấn mạnh phải nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông
trong hệ thống khoa học được cấu thành bởi các nguyên lý cơ bản, chứ không
nên cô lập, tách rời chúng, hay tuyệt đối hoá, thần thánh hoá những nhận định
riêng lẻ trong đó. Đặng Tiểu Bình chỉ rõ: “Phải có được nhận thức chuẩn xác,
hoàn chỉnh về tư tưởng Mao Trạch Đông, phải học tập tốt, hiểu rõ và vận dụng
hệ thống tư tưởng Mao Trạch Đông để chỉ đạo các mặt công tác của chúng ta”,
“Còn về nhận định cá biệt, thì bất luận Mác, Lênin và Mao Trạch Đông, đều
không tránh khỏi có những sai lầm thiếu sót thế này thế khác, nhưng những cái
đó đều không nằm trong hệ thống khoa học của nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông”(4); Cho dù những nhận định cá biệt
này có thể đúng ở từng địa phương vào thời điểm nào đó, “nhưng cùng một vấn
đề trong thời gian, điều kiện khác nhau, thì có lúc mức độ cũng khác nhau, điểm
quan trọng cũng khác nhau, thậm chí một số giải pháp cũng khác nhau. Do vậy,
chúng ta không thể chỉ lý giải tư tưởng Mao Trạch Đông trên những câu từ cá
biệt, mà nhất định phải được lý giải chính xác trên toàn bộ hệ thống tư tưởng
Mao Trạch Đông”(5).
Xét về mặt triết học, Đặng Tiểu Bình, khi phê phán phương châm “hai điều
phàm là”, đưa ra căn cứ lập luận phải phân biệt rõ hệ thống khoa học chủ nghĩa
Mác và kết luận cá biệt của nó, đó chính là nguyên lý của phép biện chứng duy
vật về mối quan hệ giữa toàn thể và bộ phận. Các tác phẩm kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin đã từng vận dụng nguyên lý này để làm sáng tỏ phương châm
của Đảng trong phong trào xã hội chủ nghĩa. Ví dụ, V.I.Lênin chỉ rõ: “Những
người xã hội chủ nghĩa cần phải phân biệt rõ bộ phận và toàn thể, nên dựa vào
toàn thể mà đưa ra khẩu hiệu, chứ không nên dựa vào bộ phận để đưa ra khẩu
hiệu; nên đưa ra điều kiện căn bản cho sự thay đổi thực sự, mà phản đối sự chắp
vá, bộ phận, vì như vậy luôn làm cho các chiến sĩ sẽ rời bỏ con đường cách
mạng chân chính”(6); “Trong một số trường hợp cụ thể nào đó, bộ phận và toàn
thể có thể có mâu thuẫn, lúc đó thì nhất định phải vứt bỏ bộ phận”(7). Đặng Tiểu
Bình lấy nguyên lý toàn thể và bộ phận này để vận dụng vào việc lý giải về chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông, phân biệt nguyên lý cơ bản của
nó với những kết luận riêng. Theo ông, không thể lý giải tư tưởng Mao Trạch
Đông dựa trên những câu từ cá biệt, mà chỉ có thể lý giải đúng đắn về chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông dựa trên các nguyên lý cơ bản và
trong toàn bộ hệ thống khoa học được cấu thành từ đó, đó là sự vận dụng mang
tính sáng tạo của nguyên lý phép biện chứng duy vật về mối quan hệ giữa toàn
thể và bộ phận.
Thứ hai, từ góc độ của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, trên tinh thần thực
sự cầu thị, Đặng Tiểu Bình chỉ rõ “hai điều dự đoán” mà Mao Trạch Đông đã
phác hoạ không phù hợp với thực tế khách quan. Năm 1971, “Kỷ yếu hội nghị
công tác giáo dục toàn quốc” do Mao Trạch Đông phác thảo, được Nghiêu Văn
Nguyên và Trương Xuân Kiều viết, đã từng cho rằng mặt trận giáo dục 17 năm
trước “Đại cách mạng văn hoá” là giai cấp tư sản thi hành “chuyên chính mặt
trận đen” đối với giai cấp vô sản, thế giới quan của đại đa số phần tử trí thức cơ
bản là “hai điều dự đoán” của phần tử trí thức của giai cấp tư sản. Sau khi “Đại
cách mạng văn hoá” kết thúc, vì chịu ảnh hưởng của phương châm “hai điều
phàm là”, trong cuộc dẹp loạn, người phụ trách chính của Bộ Giáo dục vẫn
không dám mạnh dạn nói lên sự thực. Đặng Tiểu Bình nhấn mạnh, tuy “Kỷ yếu”
là cái do Mao Trạch Đông đã khuyên tròn, nhưng cái mà “Mao Trạch Đông đã
khuyên tròn không phải là sẽ không có vấn đề thị phi bên trong đó”; vì vậy,
‘”hai điều dự đoán” không phù hợp với thực tế khách quan”; “Nếu như phản đối
thực sự cầu thị, phản đối xuất phát từ thực tế, phản đối kết hợp lý luận và thực
tiễn, vậy thì còn nói gì đến chủ nghĩa Mác là gì, tư tưởng Mao Trạch Đông là gì
nữa?”(8). Từ góc độ này, Đặng Tiểu Bình đã phê phán “hai điều dự đoán” và trực
tiếp mở ra một cuộc thảo luận về thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm
chân lý.
Mọi người cần phải chứng minh tính chân lý của chính tư duy mình trong thực
tiễn, đây vốn là một nguyên lý căn bản của triết học Mác. Nhưng, trong “Đại
cách mạng văn hoá” và thời kỳ sau đó, khi đang phải đối mặt với một số chỉ thị
và quyết sách của Mao Trạch Đông, thậm chí cả những cái mà ông đã khoanh
tròn, tư tưởng sáng chói của thực sự cầu thị mà Mao Trạch Đông đưa ra lại bị bó
lại. Như vậy, giải phóng tư tưởng, tư tưởng của con người được giải phóng khỏi
sự trói buộc bởi mê tín, phá vỡ sự ràng buộc về thói quen và cái nhìn sai lệch
chủ quan, đã trở thành tiền đề căn bản phải nghiên cứu và phân tích một cách
thực sự cầu thị. Về chính trị và lý luận, dưới sự chỉ dẫn trong đường lối tư tưởng
về giải phóng tư tưởng và thực sự cầu thị mà Đặng Tiểu Bình đã dũng cảm xác
lập lại, từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 3 khoá XI, Đảng Cộng sản
Trung Quốc mới bắt đầu chỉnh sửa sai lầm cuối đời của Mao Trạch Đông, đặt
nền móng vững chắc mở ra thời kỳ mới phát triển chủ nghĩa xã hội. Nhưng, đây
mới chỉ là một mặt của vấn đề.
Mặt khác của vấn đề là, xét đến cùng, Mao Trạch Đông đã cống hiến cho sự
nghiệp xây dựng và phát triển Đảng Cộng sản và quân đội Trung Quốc, vì thắng
lợi của sự nghiệp giải phóng nhân dân các dân tộc Trung Quốc, vì sự ra đời
nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và sự phát triển của chủ nghĩa xã hội ở
Trung Quốc. Những cống hiến của Mao Trạch Đông sẽ luôn được ghi nhớ. Nhìn
chung, trong suốt cuộc đời cách mạng của Mao Trạch Đông, công lao và thành
tích của ông xếp hàng đầu, sai lầm đứng ở vị trí thứ hai. Những đánh giá về Mao
Trạch Đông, những lời kể về tư tưởng Mao Trạch Đông không chỉ liên quan đến
cá nhân ông, mà còn gắn liền với cả một quá trình lịch sử của Đảng và Nhà nước
Trung Quốc. Do vậy, sau khi sai lầm cuối đời của Mao Trạch Đông được chỉnh
sửa, trong lúc một số người không thể dùng nguyên tắc thực sự cầu thị để đánh
giá và bảo vệ vị trí lịch sử của tư tưởng Mao Trạch Đông một cách khoa học,
Đặng Tiểu Bình đã nhấn mạnh: “Không thể phê bình quá đáng, phê bình phá rào
về những sai lầm cuối đời của Mao Trạch Đông; bởi, phủ định một nhân vật lịch
sử vĩ đại như vậy có nghĩa là phủ định một giai đoạn lịch sử quan trọng của
Trung Quốc và do đó, sẽ tạo nên sự hỗn loạn về tư tưởng, dẫn tới bất ổn chính
trị”(9). Ở đây, xét về mặt triết học, từ một bình diện khác của mối quan hệ giữa
bộ phận và toàn thể, Đặng Tiểu Bình cho rằng, không thể phủ định một cách mù
quáng tính chính xác của toàn thể dựa trên những sai sót bộ phận. Rõ ràng, đó là
một sự vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật về lý luận quan hệ giữa toàn
thể và bộ phận. Sự vận dụng đó giúp Đảng Cộng sản Trung Quốc đánh giá một
cách khoa học về Mao Trạch Đông, bảo vệ được địa vị lịch sử của tư tưởng Mao
Trạch Đông, tránh được tình trạng như N.S.Khrushov phủ định toàn bộ Stalin,
điều đã tạo nên vết xe đổ nghiêm trọng về sự hỗn loạn tư tưởng và bất ổn chính
trị đối với Liên Xô và phong trào chủ nghĩa cộng sản quốc tế.
II. Xuất phát từ mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa phổ biến và
đặc thù để giải quyết vấn đề kết hợp giữa lý luận của chủ nghĩa Mác với
thực tế cụ thể của Trung Quốc
Trong quá trình xây dựng hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa, vấn đề chủ nghĩa Mác
là gì vẫn chưa được làm sáng tỏ, hơn nữa làm thế nào để kết hợp lý luận của chủ
nghĩa Mác với thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc cũng chưa được
hiểu rõ.
Một đặc trưng quan trọng của chủ nghĩa xã hội thế giới trong thế kỷ XX là chủ
nghĩa xã hội không phải thắng lợi trước hết ở các nước tư bản chủ nghĩa phát
triển, mà là thắng lợi có được ở một số nước tư bản chủ nghĩa kém phát triển.
Vậy, làm thế nào để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các quốc gia này sau khi cách
mạng giành được thắng lợi? Thực tế là, ngoài trường hợp năm 1921 V.I.Lênin
thực hiện chính sách kinh tế mới ở nước Nga Xô viết, trên các mức độ khác
nhau, hầu hết các nước đi lên chủ nghĩa xã hội đã không chú ý đến tình hình
kinh tế, văn hoá trong nước không phát triển, mà lại sao chép rập khuôn những
kết luận của C.Mác, Ph.Ănghen về xây dựng chủ nghĩa xã hội sau khi cách
mạng ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển giành được thắng lợi, vận dụng một
cách máy móc vào thực tế của đất nước, không căn cứ vào trình độ phát triển
hiện thực của lực lượng sản xuất trong nước, theo đuổi khuynh hướng nâng cao
trình độ công hữu hoá một cách mù quáng. Điều đó khiến tính ưu việt của chế
độ xã hội chủ nghĩa không thể được phát huy đầy đủ, làm cho việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở các quốc gia này gặp phải trắc trở, gây ra sự hoài nghi và dao
động ở một số người về khả năng đi lên chủ nghĩa xã hội của các quốc gia có
nền kinh tế, văn hoá kém phát triển. Việc các nước kém phát triển có thể vượt
qua chủ nghĩa tư bản trong điều kiện nhất định hay không trở thành một vấn đề
khó mang tính thế kỷ của thế kỷ XX.
Về vấn đề này, Đặng Tiểu Bình nhấn mạnh: “Chúng ta nhiều lần nhắc lại, phải
kiên trì chủ nghĩa Mác, kiên trì con đường chủ nghĩa xã hội. Nhưng, chủ nghĩa
Mác nhất định phải là chủ nghĩa Mác kết hợp với thực tế của Trung Quốc, chủ
nghĩa xã hội nhất định phải là chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc phù
hợp với thực tế”, “Xa rời thực tế của nước nhà mà nói đến chủ nghĩa Mác thì
không có ý nghĩa gì”(10). Đối với các quốc gia kém phát triển về kinh tế và văn
hoá, vấn đề là ở chỗ phải nắm bắt chuẩn xác tình hình cơ bản của đất nước trong
giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà nước mình đang gặp phải. Đặng Tiểu
Bình nhấn mạnh: “… Đảng Cộng sản Trung Quốc phải nói rõ chủ nghĩa xã hội
của Trung Quốc ở trong giai đoạn nào, đó là đang ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa
xã hội. Chủ nghĩa xã hội chính là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, mà đất
nước Trung Quốc lại ở trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, đó là giai đoạn
chưa phát triển. Tất cả đều phải xuất phát từ thực tế, căn cứ vào thực tế để làm
quy hoạch”(11). Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã lấy đó làm cơ
sở lý luận, mở ra một cuộc thảo luận có hệ thống về giai đoạn đầu của chủ nghĩa
xã hội. Điều đó có nghĩa là, đối với các quốc gia có nền kinh tế, văn hoá kém
phát triển như Trung Quốc, do xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện lực
lượng sản xuất lạc hậu, kinh tế hàng hoá không phát triển, nên sau khi cách
mạng xã hội chủ nghĩa giành được thắng lợi, các nước này phải trải qua giai
đoạn lịch sử đặc biệt - “giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội”; trong đó, lấy việc
phát triển lực lượng sản xuất là căn bản để thực hiện nhiệm vụ lịch sử: công
nghiệp hoá, xã hội hoá, hiện đại hoá và thị trường hoá nền kinh tế trong điều
kiện chủ nghĩa xã hội. Thành tựu nổi bật mà Trung Quốc có được trong cải cách
mở cửa và xây dựng hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa đã chứng minh rằng, nắm
chắc yêu cầu này vừa có thể khắc phục quan điểm và chính sách sai lầm muốn
đốt cháy giai đoạn, nóng vội, vừa có thể loại bỏ được tư tưởng và chính sách sai
lầm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội do gặp phải khó khăn mà dao động
lòng tin, có ý đồ vứt bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa; từ đó, mở ra cách nhìn mới về chủ
nghĩa Mác, giải đáp được vấn đề khó khăn mang tính thế kỷ trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước vốn có nền kinh tế, văn hoá kém phát triển.
Lý luận của chủ nghĩa Mác nhất định phải kết hợp với thực tế cụ thể của mỗi
nước. Đối với tất cả những người làm công tác cách mạng, xây dựng và cải cách
dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác chính là nguyên lý cơ bản quen thuộc. Nhưng,
tại sao chỉ đến Đặng Tiểu Bình mới đưa ra được đánh giá giai đoạn đầu của chủ
nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tổng kết bài học kinh nghiệm của người đi trước, giải
đáp được vấn đề phức tạp mang tính thế kỷ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở các nước vốn có nền kinh tế, văn hoá kém phát triển?
Xét từ góc độ triết học, Đặng Tiểu Bình cả trong lời nói lẫn trong hành động
luôn nhất quán, kiên trì vận dụng nguyên lý của phép biện chứng duy vật về cái
chung và cái riêng, phổ biến và đặc thù để nghiên cứu và giải quyết các vấn đề
trong giai đoạn phát triển chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin đã từng nói: “Mặt đối lập
(đối lập giữa cái riêng và cái chung) là cái đồng nhất: cái riêng nhất định phải
gắn với cái chung để tồn tại. Cái chung chỉ có thể tồn tại trong cái riêng, chỉ có
thể thông qua cái riêng mà tồn tại”(12). Trong Bàn về mâu thuẫn, Mao Trạch
Đông cũng chỉ rõ: “Tính chung này vừa bao hàm cái chung của tất cả tính riêng,
không có tính riêng thì cũng không có tính chung”. Cho dù cái chung chỉ có thể
tồn tại thông qua cái riêng, không có tính riêng thì cũng không có tính chung,
song rõ ràng là nhất thiết phải xuất phát từ thực tế của cái riêng, cái đặc thù để
nắm chắc nguyên tắc kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với thực tế cụ thể trong
nước. Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa nước lớn, đảng lớn và những
người theo chủ nghĩa giáo điều trong phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới vẫn
áp đặt một cách sai lầm lý luận của chủ nghĩa Mác vào thực tế cụ thể của mỗi
nước, chứ không phải là xuất phát từ tình hình thực tế cụ thể của mỗi nước. Họ
cho rằng, phải xuất phát từ những cái gọi là có ý nghĩa phổ biến, tỏ ra sai lầm
khi coi quy luật phổ biến trong xây dựng chủ nghĩa xã hội là công thức cố định
và vận dụng máy móc vào thực tế cụ thể của mỗi nước; khi không có hiệu quả,
họ lại không nghi ngờ cách làm của mình có phù hợp với nguyên tắc của chủ
nghĩa Mác về kết hợp giữa lý luận và thực tế hay không, mà đổ lỗi này, lỗi nọ
cho người khác. Đối với cách làm sai lầm này, Đặng Tiểu Bình nhấn mạnh:
“Tình hình của mỗi nước khác nhau, giác ngộ của nhân dân cũng khác nhau, sức
mạnh giai cấp, tình trạng quan hệ giai cấp trong nước cũng vì thế mà không
giống nhau, nên không thể dùng công thức cố định và máy móc để thực hiện
được. Cho dù công thức được sử dụng là của chủ nghĩa Mác kết hợp lại không
giống với thực tế của mỗi nước, do vậy cũng khó tránh khỏi phạm phải những
sai lầm”(13). Tại sao công thức sử dụng là những cái của chủ nghĩa Mác lại khó
tránh khỏi phạm phải những sai lầm? Nguyên nhân chính là ở chỗ, cách vận
dụng công thức đó không phù hợp với tinh thần cơ bản của chủ nghĩa Mác là tất
cả phải xuất phát từ thực tế, chứ không phải xuất phát từ công thức.
Thực tế cho thấy, Đặng Tiểu Bình đã vận dụng sáng tạo nguyên lý phép biện
chứng duy vật trong quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa phổ biến và đặc
thù để giải quyết vấn đề kết hợp giữa lý luận với thực tế. Cuối cùng, cần phải
xuất phát từ cái gì? Vấn đề này đã tồn tại suốt một thời gian dài trong phong trào
xã hội chủ nghĩa quốc tế. Chỉ có sự vận dụng sáng tạo, mới làm cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội khắc phục được những khó khăn và cản trở do sự
nóng vội, đốt cháy giai đoạn gây ra; đồng thời, mới tạo ra sức sống mới cho chủ
nghĩa xã hội. (Xem tiếp >>>)
NHỮNG SUY TƯ TRIẾT HỌC CỦA ĐẶNG TIỂU BÌNH TRONG VIỆC
XÁC LẬP LẠI ĐƯỜNG LỐI TƯ TƯỞNG CHỦ NGHĨA MÁC(*) Tiếp theo
TỪ SÙNG ÔN(**)
III. Xuất phát từ tính gián đoạn và tính liên tục để giải quyết vấn đề kế
thừa và phát triển chủ nghĩa Mác
Trong xây dựng hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa, vấn đề thế nào là chủ nghĩa Mác
vẫn chưa được hiểu rõ, nên việc kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác như thế
nào cũng chưa được làm sáng tỏ. Có một số người luôn tách rời hai khái niệm kế
thừa và phát triển chủ nghĩa Mác. Một mặt, họ xem kế thừa là rập khuôn một
cách giáo điều và máy móc một số nhận định được các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác đưa ra ở nơi này nơi kia, lúc này lúc khác trong các tác phẩm kinh
điển; mặt khác, họ quên rằng phải coi chủ nghĩa Mác là kim chỉ nam để phân
tích vấn đề và chỉ đạo hành động, do đó, dễ mất phương hướng trước tình hình
mới và vấn đề mới. Thậm chí, sau khi sự sao chép rập khuôn của chủ nghĩa giáo
điều không mang lại kết quả, họ lại đi vào một cực đoan khác để tuyên truyền
nào là “nguy cơ của chủ nghĩa Mác”, “chủ nghĩa Mác lỗi thời”, quay lưng hoặc
vứt bỏ chủ nghĩa Mác.
Đối với vấn đề này, Đặng Tiểu Bình đã khẳng định phải thống nhất giữa kế thừa
và phát triển chủ nghĩa Mác, hoà vào làm một, làm cho chúng trở thành cùng
một quá trình nhưng không cùng lát cắt. Trong Hội nghị công tác nghiên cứu lý
luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc đầu năm 1979, Đặng Tiểu Bình chỉ rõ:
“Đương nhiên chúng ta sẽ không từ chủ nghĩa xã hội khoa học quay lại chủ
nghĩa xã hội không tưởng, cũng sẽ không để chủ nghĩa Mác chỉ dừng lại ở trình
độ của vài chục năm trước hoặc một trăm năm trước. Do vậy, chúng ta nói giải
phóng tư tưởng chính là phải vận dụng nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông để nghiên cứu tình hình mới, giải quyết vấn đề
mới”(14).
Hạt nhân của câu trả lời mà Đặng Tiểu Bình đưa ra là, bám chắc vào thực tế
hiện tại, dùng lập trường, quan điểm, phương pháp và nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác để nghiên cứu tình hình mới, giải quyết vấn đề mới luôn xuất hiện.
Cái gọi là bám chắc vào thực tế hiện tại, như đồng chí Giang Trạch Dân phát
biểu tại Đại hội XV của Đảng, chính là phải “lấy thực tế của cải cách mở cửa và
xây dựng hiện đại hoá Trung Quốc, lấy công việc mà chúng ta đang tiến hành
làm trung tâm, chú trọng ứng dụng lý luận của chủ nghĩa Mác, chú trọng việc
trau dồi lý luận đối với vấn đề thực tế, chú trọng đến thực tiễn mới và phát triển
mới”(15).
Nhưng quá trình dùng lập trường, quan điểm, phương pháp và nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác để nghiên cứu tình hình mới, giải quyết vấn đề mới xuất hiện
cũng đồng thời là quá trình vừa kiên trì coi lập trường, quan điểm, phương pháp
và nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác là kim chỉ nam cho hành động, vừa thúc
đẩy việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác trong tình hình mới, giải quyết vấn đề mới,
thống nhất giữa kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác. Đó là quá trình lấy kế thừa
làm chỗ dựa, không ngừng phát triển tiến lên, đồng thời là một quá trình bao
hàm cả kế thừa trong phát triển. Khi người ta xem xét vấn đề chủ yếu trên bình
diện kế thừa chủ nghĩa Mác, thì đó là quá trình vận dụng các nguyên tắc và
phương pháp cơ bản của chủ nghĩa Mác, “yêu cầu mọi người phải căn cứ vào
nó, kết hợp với thực tế khách quan luôn biến đổi, tìm tòi đáp án để giải quyết
vấn đề mới, từ đó phát triển chính lý luận của chủ nghĩa Mác”(16); nhưng khi
người ta xem xét vấn đề chủ yếu trên bình diện phát triển chủ nghĩa Mác, thì
quá trình này đòi hỏi “người mácxít chân chính nhất thiết phải căn cứ vào tình
hình hiện tại để nhận thức, kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin”, “không
lấy tư tưởng, quan điểm mới để kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác, đó không
phải là người mácxít chân chính”. Chúng ta “quyết không thể lấy đáp án có sẵn
của C.Mác để giải quyết vấn đề phát sinh hàng chục năm, hàng trăm năm sau
khi ông qua đời. Tương tự, V.I.Lênin cũng không thể gánh vác nhiệm vụ cung
cấp đáp án sẵn có để giải quyết vấn đề phát sinh năm mươi năm, một trăm năm
sau khi ông qua đời”(17).
Sự thống nhất giữa kế thừa và phát triển trong chủ nghĩa Mác chính là giải quyết
một cách ổn thoả, chỉ ra cách giải quyết đối với các vấn đề bị tách rời một cách
máy móc, hoặc là rập khuôn sao chép theo chủ nghĩa giáo điều, hoặc bị mất
phương hướng do nhảy từ cực đoan này đến cực đoan khác trước vấn đề mới,
tình hình mới phát sinh. Nguyên nhân khiến phải thống nhất giữa kiên trì và phát
triển chủ nghĩa Mác, như Giang Trạch Dân chỉ rõ, “Phải luôn luôn kiên trì
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, nếu không sự nghiệp của chúng ta sẽ lạc
mất phương hướng vì không có cơ sở lý luận và linh hồn tư tưởng đúng đắn,
như vậy sẽ thất bại, đó chính là lý do tại sao chúng ta nhất định phải kiên trì
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Mác có phẩm chất lý luận tiến
cùng thời đại, nếu không chú ý đến sự thay đổi của điều kiện lịch sử và tình hình
hiện thực, nếu chỉ câu nệ vào một số nhận định cá biệt và cương lĩnh hành động
cụ thể được đưa ra ở tình hình cụ thể trong điều kiện lịch sử nhất định trong các
tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác, thì chúng ta sẽ vì tư tưởng xa rời thực tế
mà không thể tiến lên một cách thuận lợi, thậm chí sẽ phát sinh sai lầm. Đó
chính là lý do tại sao chúng ta nhất định phải luôn phản đối việc lấy thái độ của
chủ nghĩa giáo điều để xem xét lý luận của chủ nghĩa Mác”(18). Tổng Bí thư Hồ
Cẩm Đào cũng từng nói rõ rằng, sự sáng tạo phải lấy kiên trì làm tiền đề, kiên trì
lại phải lấy sáng tạo làm điều kiện: “Sáng tạo lý luận nhất định phải kiên trì
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác làm tiền đề, nếu không sẽ lạc mất phương
hướng, sẽ đi nhầm đường, mà kiên trì chủ nghĩa Mác lại phải lấy căn cứ phát
triển thực tiễn thúc đẩy không ngừng sáng tạo lý luận làm điều kiện, nếu không
chủ nghĩa Mác sẽ mất sức sống, sẽ không thể tiếp tục duy trì được”(19).
Xét từ góc độ triết học, cách làm của Đặng Tiểu Bình thể hiện sự thống nhất
giữa kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác, cũng giống như ông kiên trì phép biện
chứng duy vật coi vận động là nguyên lý không thể tách khỏi sự thống nhất giữa
tính gián đoạn và tính liên tục. Sự phát triển của vạn vật, vạn sự trên thế giới vốn
là một quá trình liên tục không gián đoạn, tại sao lại xuất hiện tính gián đoạn?
V.I.Lênin từng chỉ rõ: “Nếu không cắt bỏ những thứ không gián đoạn, không
làm cho những đồ vật sống động bị đơn giản hoá, không bị phân chia, cũng
không làm cho cứng nhắc, thì chúng ta sẽ không thể tưởng tượng, diễn đạt, trắc
lượng, miêu tả vận động. Miêu tả tư tưởng luôn nghèo nàn, cứng nhắc hơn so
với vận động. Không chỉ tư tưởng, mà cảm giác cũng như vậy; không chỉ đối
với vận động, mà đối với bất kỳ khái niệm nào cũng đều như vậy”(20). Tuy
nhiên, việc cắt bỏ những thứ không gián đoạn không phải là tuỳ tiện, mà phải
căn cứ vào quá trình phát triển của sự vật. Khi nói về bản chất của vận động,
V.I.Lênin nhấn mạnh: “Bản chất của vận động là thời gian và không gian. Diễn
đạt khái niệm cơ bản của bản chất có hai loại: bản chất mang tính phi gián đoạn
(vô hạn) và “tính đứt đoạn” (phủ định tính phi gián đoạn, tức là tính gián đoạn).
Vận động là sự thống nhất giữa tính phi gián đoạn (của thời gian và không gian)
với tính gián đoạn (của thời gian và không gian)”(21).
Giống như quá trình vận dụng sáng tạo nguyên lý của phép biện chứng duy vật
về vận động là sự thống nhất giữa tính phi gián đoạn và tính gián đoạn, Đặng
Tiểu Bình vừa kế thừa người đi trước, phá vỡ nếp cũ, vừa không đánh mất chủ
nghĩa Mác truyền thống, đồng thời luôn đưa ra những luận điểm mới chưa từng
được nói đến nhưng phù hợp với thời đại và thực tế khách quan. Ông đã thống
nhất giữa việc kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác, làm cho lý luận và thực tiễn
trở thành hai mặt của một quá trình.
Tóm lại, có thể nói, từ góc độ triết học, Đặng Tiểu Bình đã xác lập lại đường lối
tư tưởng chủ nghĩa Mác, giúp chúng ta lý giải sâu hơn và nâng cao tính tự giác,
tính kiên định quán triệt thực hiện đường lối tư tưởng của Đảng từ tầm cao của
thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác, đồng thời giúp chúng ta
lĩnh hội được sức mạnh của thế giới quan và phương pháp luận đó trong thực tiễn
xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, từ đó càng thấy rõ sự cần
thiết phải nghiên cứu và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác.r
Người dịch: ThS.TRẦN THUÝ NGỌC (Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội)
(*) Bài viết được đăng trên Tạp chí “Nghiên cứu chủ nghĩa Mác” kỳ 4, năm
2004.
(**) Giáo sư, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc.
(1) Đặng Tiểu Bình. Văn tuyển, quyển 3. Nxb Nhân dân, 1993, tr.137.
(2) Đặng Tiểu Bình. Văn tuyển. Sđd., quyển 3, tr.291.
(3) Trong bài phát biểu ngày 22/6/1988 khi Đặng Tiểu Bình hội kiến với Tổng
thống Estonia Mengsitu, Haile Mariam, được đăng trong Ký sự 14 năm cải cách
mở cửa (từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 3 khoá XI đến khoá XIV).
Nxb Trường Đảng Trung ương Trung Quốc, 1994, tr.784-785.
(4) Đặng Tiểu Bình. Văn tuyển. Sđd., quyển 2, tr.42, 171.
(5) Đặng Tiểu Bình. Văn tuyển. Sđd., quyển 2,. tr.43.
(6) V.I.Lênin. Toàn tập, quyển 11. Nxb Nhân dân, tr.371.
(7) V.I.Lênin. Toàn tập. Sđd., quyển 28, tr.38.
(8) Đặng Tiểu Bình. Văn tuyển. Sđd., quyển 2, tr.66-67, 118.
(9) Đặng Tiểu Bình. Văn tuyển. Sđd., quyển 3, tr.284.
(10) Đặng Tiểu Bình. Văn tuyển. Sđd., quyển 3, tr 63, 191.
(11) Đặng Tiểu Bình. Văn tuyển. Sđd., quyển 3, tr 252.
(12) V.I.Lênin. Toàn tập. Sđd., quyển 55, tr.307.
(13) Đặng Tiểu Bình. Văn tuyển. Sđd., quyển 2, tr.318.
(14) Đặng Tiểu Bình. Văn tuyển. Sđd., quyển 2, tr.179.
(15) Tổng tập Văn kiện đại biểu toàn quốc lần thứ XV của Đảng Cộng sản
Trung Quốc, tr.13 - 14.
(16) Đặng Tiểu Bình. Văn tuyển, quyển 3. Sđd., tr.146.
(17) Đặng Tiểu Bình. Văn tuyển, quyển 2. Sđd., tr.291 -292.
(18) Giang Trạch Dân. Bài phát biểu tại Đại hội kỷ niệm 80 năm thành lập
Đảng Cộng sản Trung Quốc.
(19) Hồ Cẩm Đào. Bài phát biểu trong Hội thảo lý luận: tư tưởng quan trọng
“Ba đại diện”.
(20) V.I.Lênin. Toàn tập, Sđd., quyển 55, tr.219.
(21) V.I.Lênin. Toàn tập. Sđd., quyển 55, tr.217.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- triet_hoc_55__5681.pdf