Quyền và nghĩa vụ của bên cầm giữ:
Việc xử lý tài sản cầm giữ được thực hiện
theo thủ tục chung và một khi chấp nhận
giao tài sản cho người có chức năng xử lý
(như cơ quan thi hành án,.), thì bên cầm giữ
cũng không còn “vũ khí” nào đặc biệt để bảo
vệ quyền của mình.
Quyền quan trọng nhất của bên cầm
giữ là quyền giữ tài sản để gây áp lực đối
với bên có nghĩa vụ: muốn nhận lại tài sản,
thì bên có nghĩa vụ chỉ có mỗi cách là thực
hiện nghĩa vụ đối với bên cầm giữ. Bằng
cách gây áp lực như thế, bên cầm giữ suy
cho cùng còn có lợi thế hơn cả chủ nợ có bảo
đảm bằng thế chấp, cầm cố tài sản.
Bên cầm giữ được khai thác tài sản
cầm giữ để thu hoa lợi, lợi tức nếu bên có
nghĩa vụ đồng ý (khoản 3 Điều 348 BLDS
năm 2015). Giá trị của việc khai thác tài sản
cầm giữ được bù trừ vào nghĩa vụ của bên có
nghĩa vụ (Điều 348 BLDS năm 2015).
Đổi lại với các quyền được thừa nhận
cho mình, bên cầm giữ có các nghĩa vụ được
quy định tại Điều 349 BLDS năm 2015,
tương tự như các nghĩa vụ của bên nhận giữ
tài sản theo hợp đồng gửi giữ.
Chấm dứt tài sản: Các trường hợp
chấm dứt cầm giữ được quy định tại Điều
350 BLDS năm 2015. Đáng chú ý nhất là
trường hợp bên cầm giữ không còn chiếm
giữ tài sản trên thực tế. Luật không nói
rõ, nhưng phải thừa nhận rằng việc không
chiếm giữ tài sản phải hoàn toàn tự nguyện:
bên cầm giữ bị tước đoạt tài sản một cách
trái pháp luật có quyền của người chiếm hữu
yêu cầu khôi phục tình trạng ban đầu theo
Điều 185 BLDS năm 2015.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 243 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề cần được làm rõ khi áp dụng các quy định của bộ luật dân sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC LÀM RÕ KHI ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 LIÊN QUAN ĐẾN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
Tóm tắt:
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 bao hàm những quy định khá
đầy đủ về chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo hướng tập
trung tháo gỡ những vướng mắc được ghi nhận từ thực tiễn. Tuy
nhiên, để bảo đảm cho các quy định trong BLDS năm 2015 về
chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được áp dụng trên thực tiễn,
đòi hỏi BLDS năm 2015 cần được cụ thể hoá bằng một văn bản
hướng dẫn thi hành.
Nguyễn Ngọc Điện*
Đỗ Thị Bông**
* Viện sĩ, PGS.TS. Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG Tp. HCM
** ThS. GV. Giảng viên khoa Kinh tế - Luật Đại học Tây Nguyên
Abstract
The Civil Code of 2015 provides sufficient provisions on
ensurance of the fulfillment of obligations of secured transactions
by focusing on addressing problems recognized from practical
performance. However, it is required to issue guidelines for
detailed enforcements of the Civil Code of 2015 so that it is to
ensure the provisions of the Civil Code of 2015 on the secured
transactions are applied in practices.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Giao dịch bảo đảm, tài sản hình
thành trong tương lai, xử lý tài sản bảo
đảm, xử lý quyền sử dụng đất, quyền
cầm giữ.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 23/08/2019
Biên tập : 26/08/2019
Duyệt bài : 28/08/2019
Article Infomation:
Keywords: Secured transaction,
after-acquired title, foreclosure, right of
retention.
Article History:
Received : 23 Aug. 2019
Edited : 26 Aug. 2019
Approved : 28 Aug. 2019
Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS năm 2015) bao hàm những quy định tương đối sâu rộng về chế định
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên,
để thực hiện chế định này, đòi hỏi BLDS
năm 2015 về chế định bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ cần được cụ thể hoá bằng một
văn bản hướng dẫn thi hành. Trước đây,
chế độ bảo đảm nghĩa vụ theo Bộ luật dân
sự năm 2005 được hướng dẫn thực hiện
bằng Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006, sửa đổi, bổ sung bằng Nghị
định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/0/2012.
Trong bối cảnh áp dụng BLDS năm 2015,
cần thay thế các nghị định nêu trên bằng
một nghị định mới.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
42 Số 20(396) T10/2019
1. Trường hợp dùng một tài sản bảo đảm
nhiều nghĩa vụ
Theo quy định tại khoản 1 Điều 296
BLDS năm 2015, một tài sản có thể được
dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa
vụ, nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao
dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa
vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả
thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác.
Thật ra, quy định của luật chỉ mang
tính cảnh báo, nhắc nhở, đặc biệt đối với
bên nhận bảo đảm về những rủi ro có thể
đương đầu trong trường hợp chấp nhận việc
dùng một tài sản đang được dùng để bảo
đảm nghĩa vụ khác nhằm bảo đảm nghĩa vụ
đối với mình. A thế chấp cho B một căn nhà
trị giá 3 tỷ đồng để vay số tiền 2 tỷ đồng;
sau đó A lại thế chấp cho C cũng chính căn
nhà đó để vay thêm 2 tỷ đồng nữa. Nếu ở
thời điểm nhận thế chấp, C biết rõ tình trạng
pháp lý của căn nhà, đặc biệt là biết về việc
căn nhà đang được thế chấp để bảo đảm
món nợ vay của B, thì việc thế chấp giữa
A và C hoàn toàn bình thường và có giá trị:
đơn giản, trong trường hợp xử lý tài sản thế
chấp để thu nợ, thì C phải để cho B được ưu
tiên nhận tiền thanh toán. Việc các bên, một
khi hiểu rõ tình trạng bảo đảm nghĩa vụ liên
quan đến một hoặc nhiều tài sản, chấp nhận
giao kết việc bảo đảm nghĩa vụ dù tổng giá
1 Trong trường hợp dùng một tài sản bảo đảm nhiều nghĩa vụ, thì bên bảo đảm phải thông báo cho bên nhận bảo đảm sau
về việc tài sản bảo đảm đang được dùng để bảo đảm nghĩa vụ khác (khoản 2 Điều 296). Việc áp đặt nghĩa vụ này cho
bên bảo đảm nhằm tạo điều kiện cho bên nhận bảo đảm nắm vững và có đầy đủ thông tin cần thiết về tình trạng pháp
lý của tài sản bảo đảm. Quy định này thật ra không cần thiết nếu hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm vận hành tốt, bởi
việc đăng ký có tác dụng công khai những quan hệ bảo đảm nghĩa vụ ràng buộc tài sản; bên nhận bảo đảm có trách
nhiệm chủ động tham khảo thông tin từ hệ thống này để hiểu rõ tình trạng pháp lý của tài sản trước khi quyết định có
xác lập giao dịch bảo đảm hay không.
Dùng một tài sản thế chấp cho nhiều chủ nợ để bảo đảm nhiều món nợ khác nhau, trong luật của các nước tiền tiến,
được coi là việc làm bình thường: các chủ nợ nhận thế chấp được xếp hạng ưu tiên theo thứ tự dựa vào ngày đăng ký.
Xem, ví dụ như trong luật của Pháp: Ph. Simler và Ph. Delebecque, Droit civil – Les suretés. La publicité foncière,
Précis Dalloz, 2009, tr. 444 và kế tiếp.
trị nghĩa vụ được bảo đảm vượt quá giá trị
tài sản bảo đảm hoàn toàn phù hợp với tinh
thần chung của pháp luật bảo đảm nghĩa vụ1.
Điều luật này áp dụng cho cả bảo đảm
đối vật và bảo đảm đối nhân. Đây là quy
định thuộc loại bổ khuyết nghĩa là được áp
dụng trừ trường hợp các bên có thoả thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác. Việc
luật đòi hỏi các bên có thoả thuận về việc
bên bảo đảm cam kết bảo đảm thực hiện các
nghĩa vụ có tổng giá trị lớn lớn giá trị tài
sản bảo đảm hàm ý rằng các bên, khi bảo
đảm một số nợ quá lớn so với giá trị tài sản
bảo đảm, phải biết rõ, hiểu rõ việc mình làm.
Nếu các bên không có thoả thuận rõ ràng, thì
luật chủ động can thiệp bằng cách giới hạn
phạm vi bảo đảm đến hết giá trị của tài sản
bảo đảm.
2. Chuyển nhượng tài sản bảo đảm
Quyền truy đòi đối với tài sản thế
chấp được chuyển nhượng: Vấn đề chuyển
nhượng tài sản bảo đảm chỉ được đặt ra như
vấn đế có ý nghĩa thực tiễn trong trường hợp
thế chấp tài sản, do tài sản thế chấp thường
do bên thế chấp giữ và do đó, có điều kiện
thực hiện quyền định đoạt của chủ sở hữu.
Trong luật hiện hành, tài sản thế chấp chỉ
có thể được chuyển nhượng với sự đồng ý
của bên nhận thế chấp, trừ trường hợp tài
sản thế chấp là hàng hoá luân chuyển hoặc
luật có quy định khác (khoản 5 Điều 321
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
43Số 20(396) T10/2019
BLDS năm 2015). Tuy nhiên, trong trường
hợp bên thế chấp tự ý chuyển nhượng tài sản
thế chấp mà không hỏi ý kiến của bên nhận
thế chấp, thì luật lại không chỉ rõ hậu quả
của giao dịch. Khó có thể thừa nhận rằng
bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu tuyên
bố giao dịch vô hiệu do vi phạm điều cấm
của luật, bởi luật không cấm bên thế chấp
chuyển nhượng tài sản thế chấp: luật chỉ đòi
hỏi bên thế chấp phải hỏi bên nhận thế chấp
và được sự đồng ý của bên nhận thế chấp về
việc chuyển nhượng.
Cần lưu ý rằng, Điều 301 BLDS năm
2015 quy định, người đang giữ tài sản bảo
đảm có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm cho
bên nhận bảo đảm để xử lý khi thuộc một
trong các trường hợp quy định tại Điều 299
BLDS. Điều 299 BLDS ghi nhận các trường
hợp nghĩa vụ được bảo đảm không được
thực hiện đúng dẫn đến sự cần thiết xử lý tài
sản bảo đảm. Ở đây, chúng ta cần hiểu rằng,
trong ngữ cảnh của Điều 301 BLDS, người
đang giữ tài sản bảo đảm có thể là bất kỳ
người nào, kể cả chủ sở hữu tài sản. Áp dụng
quy định này trong trường hợp bên thế chấp
bán tài sản thế chấp mà không có sự đồng ý
của bên nhận thế chấp, thì bên nhận thế chấp
vẫn có quyền yêu cầu bên mua tài sản giao
tài sản thế chấp cho mình để xử lý. Do đó,
nội dung của quy định này cần được làm rõ
trong nghị định về giao dịch bảo đảm. Điều
này đặc biệt hợp lý trong trường hợp tài sản
thuộc loại phải đăng ký, bởi việc thế chấp
tài sản được đăng ký và người nhận chuyển
nhượng cũng phải đăng ký việc chuyển
nhượng, do đó, buộc phải biết tài sản đang
được thế chấp: một khi chấp nhận mua tài
sản trong tình trạng được thế chấp, người
mua phải chấp nhận tất cả các rủi ro gắn liền
với tình trạng này.
3. Xử lý tài sản bảo đảm
Các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm:
Biện pháp bảo đảm có tác dụng giúp cho bên
bảo đảm có được sự thực hiện nghĩa vụ trong
trường hợp nghĩa vụ phải thực hiện nhưng
đã không được bên có nghĩa vụ thực hiện
đúng. Theo quy định tại Điều 299 BLDS
năm 2015, nghĩa vụ phải thực hiện là nghĩa
vụ đến hạn hoặc phải thực hiện trước thời
hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thoả thuận
hoặc theo quy định của luật.
Suy cho cùng, việc xử lý tài sản bảo
đảm chỉ tỏ ra hợp lý một khi có đầy đủ dấu
hiệu cho thấy nghĩa vụ được bảo đảm không
được thực hiện đúng. Bởi vậy, điều cần thiết
là một khi nghĩa vụ được bảo đảm cần phải
được thực hiện, bên chủ nợ có bảo đảm phải
yêu cầu bên có nghĩa vụ được bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trong thời hạn hợp lý. Nếu
hết thời hạn đó mà nghĩa vụ vẫn chưa được
thực hiện, thì việc xử lý tài sản bảo đảm
mới được tiến hành. Để ngăn ngừa các tranh
chấp không cần thiết, nên quy định việc yêu
cầu thực hiện nghĩa vụ phải được ghi nhận
bằng văn bản.
Thủ tục xử lý: Trước khi xử lý tài sản
bảo đảm, bên nhận bảo đảm phải thông báo
bằng văn bản cho bên bảo đảm và các bên
cùng nhận bảo đảm khác (khoản 1 Điều 300
BLDS năm 2015). Quy định này nhằm tạo
điều kiện cho bên bảo đảm có sự chuẩn bị
cần thiết. Đối với tài sản có nguy cơ bị hư
hỏng dẫn đến giảm sút giá trị hoặc mất toàn
bộ giá trị, thì bên nhận bảo đảm có quyền xử
lý ngay, đồng thời phải thông báo cho bên
bảo đảm và các bên nhận bảo đảm khác về
việc xử lý đó. Nếu tuỳ tiện xử lý tài sản bảo
đảm mà không thông báo theo quy định của
luật dẫn đến thiệt hại cho bên bảo đảm, các
bên cùng bảo đảm khác, thì phải bồi thường
(khoản 2 Điều 300 BLDS năm 2015).
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
44 Số 20(396) T10/2019
Trong trường hợp tài sản bảo đảm
đang được bên bảo đảm hoặc người khác
nắm giữ, chiếm giữ, thì bên nhận bảo đảm
có quyền yêu cầu người nắm giữ, chiếm giữ
giao tài sản cho mình để xử lý (Điều 301
BLDS năm 2015). Nếu người giữ tài sản
không chịu giao tài sản, thì bên nhận bảo
đảm có quyền yêu cầu toà án giải quyết
(cùng điều luật)2.
Điều đó có nghĩa là trên nguyên tắc,
bên nhận bảo đảm không có quyền tự mình
thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý nhằm thu
hồi nợ. Việc xử lý tài sản phải được thực
hiện theo thủ tục chung về tố tụng dân sự.
Chỉ sau khi tài sản được đem bán, thì bên
nhận bảo đảm mới thực hiện quyền ưu tiên
nhận tiền thanh toán từ tiền bán tài sản so
với các chủ nợ không có báo đảm và chủ nợ
có thứ tự ưu tiên thanh toán thấp hơn.
Quyền thu giữ theo BLDS: BLDS năm
2015 ghi nhận quyền tự bảo vệ thành một
quyền có tính nguyên tắc, được ghi nhận tại
Điều 11 và được nhận dạng như một quyền
hợp pháp theo các điều kiện được quy định
tại Điều 123. Trong lĩnh vực pháp luật tài
sản, quyền tự bảo vệ được thừa nhận cho
chủ sở hữu và chủ thể có quyền khác đối
với tài sản theo khoản 1 Điều 164: “Chủ sở
hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản
có quyền tự bảo vệ, ngăn chặn bất kỳ người
nào có hành vi xâm phạm quyền của mình
bằng những biện pháp không trái với quy
định của pháp luật”.
2 Trong thời kỳ áp dụng BLDS năm 2005, nhằm hỗ trợ cho các chủ nợ có bảo đảm trong việc thực thi quyền đòi nợ, Chính
phủ ban hành Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 thừa nhận cho chủ nợ có bảo đảm quyền thu giữ tài sản
bảo đảm để xử lý (Điều 63). Sau hơn 5 năm được áp dụng, Nghị định này được hoàn thiện thêm một bước bằng Nghị
định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012. Việc thực hiện hai nghị định này được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư liên
tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày 06/6/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên & Môi trường và Ngân
hàng Nhà nước. Với quyền thu giữ, chủ nợ có bảo đảm có thể có được trong tay tài sản mình cần mà không phải tiến
hành các thủ tục tố tụng phức tạp, mất thời gian và tốn kém.
3 Xem Nguyễn Ngọc Điện (2017), “Quyền tự bảo vệ - Điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 1+2 (334+335).
Nếu coi việc không thực hiện nghĩa vụ
được bảo đảm như một hành vi xâm phạm
quyền của chủ nợ có bảo đảm, thì quyền tự
bảo vệ, áp dụng Điều 11 và Điều 12 BLDS
năm 2015, sẽ cho phép chủ nợ có bảo đảm
thu hồi nợ bằng cách tự mình xử lý tài sản
bảo đảm. Cụ thể, chủ nợ nhận thế chấp có
quyền thu giữ tài sản bằng các phương tiện
hợp pháp của riêng mình. Trong trường
hợp bị ngăn cản thì chủ nợ có quyền tự bảo
vệ trong khuôn khổ phòng vệ chính đáng.
Trong trường hợp việc ngăn cản có dấu
hiệu của hành vi tấn công, thì chủ nợ có
bảo đảm có quyền tự bảo vệ, đồng thời có
quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hỗ
trợ, áp dụng Điều 11 BLDS năm 2015. Tuy
nhiên, để áp dụng Điều 11 BLDS năm 2015
trên thực tế cần văn bản hướng dẫn thi hành
và quy định chi tiết điều luật này.
4. Xử lý mâu thuẫn giữa Bộ luật Dân sự
và Luật Thi hành án dân sự
Theo quy định tại khoản 2 Điều 325
BLDS năm 2015, “Trường hợp thế chấp
quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất
không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn
liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất,
chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp
tục sử dụng đất trong phạm vi quyền, nghĩa
vụ của mình; quyền và nghĩa vụ của bên
thế chấp trong mối quan hệ với chủ sở hữu
tài sản gắn liền với đất được chuyển giao
cho người nhận chuyển quyền sử dụng đất,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Điều
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
45Số 20(396) T10/2019
111 Luật Thi hành án dân sự năm 2008
quy định, “Trường hợp đất của người phải
thi hành án có tài sản gắn liền với đất mà
tài sản đó thuộc quyền sở hữu của người
khác thì Chấp hành viên chỉ kê biên quyền
sử dụng đất và thông báo cho người có tài
sản gắn liền với đất”. Quy định này hoàn
toàn phù hợp với tinh thần của BLDS năm
2015. Tuy nhiên, khi đề cập đến việc xử lý
tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất trong
trường hợp trên đất có tài sản của người
khác, Luật Thi hành án dân sự lại có những
quy định khác tại Điều 113. Cụ thể về xử lý
tài sản gắn liền với đất đã kê biên, Điều 113
Luật Thi hành án dân sự quy định:
“1. Trường hợp tài sản gắn liền với
đất đã kê biên thuộc sở hữu của người khác
thì xử lý như sau:
a) Đối với tài sản có trước khi người
phải thi hành án nhận được quyết định thi
hành án thì Chấp hành viên yêu cầu người
có tài sản tự nguyện di chuyển tài sản để trả
quyền sử dụng đất cho người phải thi hành
án. Trường hợp người có tài sản không tự
nguyện di chuyển tài sản thì Chấp hành viên
hướng dẫn cho người có tài sản và người
phải thi hành án thoả thuận bằng văn bản về
phương thức giải quyết tài sản. Trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày hướng dẫn mà họ
không thoả thuận được thì Chấp hành viên
xử lý tài sản đó cùng với quyền sử dụng đất
để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
người phải thi hành án và người có tài sản
gắn liền với đất.
Trường hợp người có tài sản là người
thuê đất hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử
dụng đất của người phải thi hành án mà
không hình thành pháp nhân mới thì người
có tài sản được quyền tiếp tục ký hợp đồng
thuê đất, hợp đồng góp vốn bằng quyền sử
dụng đất với người trúng đấu giá, người
nhận quyền sử dụng đất trong thời hạn còn
lại của hợp đồng mà họ đã ký kết với người
phải thi hành án. Trường hợp này, trước khi
xử lý quyền sử dụng đất, Chấp hành viên có
trách nhiệm thông báo cho người tham gia
đấu giá, người được đề nghị nhận quyền sử
dụng đất về quyền được tiếp tục ký hợp đồng
của người có tài sản gắn liền với đất;
b) Đối với tài sản có sau khi người
phải thi hành án nhận được quyết định thi
hành án thì Chấp hành viên yêu cầu người
có tài sản tự nguyện di chuyển tài sản để
trả lại quyền sử dụng đất cho người phải
thi hành án. Sau thời hạn 15 ngày, kể từ
ngày yêu cầu, mà người có tài sản không
di chuyển tài sản hoặc tài sản không thể di
chuyển được thì Chấp hành viên xử lý tài
sản đó cùng với quyền sử dụng đất.
Đối với tài sản có sau khi kê biên, nếu
người có tài sản không di chuyển tài sản
hoặc tài sản không thể di chuyển được thì
tài sản phải bị tháo dỡ. Chấp hành viên tổ
chức việc tháo dỡ tài sản, trừ trường hợp
người nhận quyền sử dụng đất hoặc người
trúng đấu giá quyền sử dụng đất đồng ý mua
tài sản;
c) Người có tài sản gắn liền với đất
của người phải thi hành án được hoàn trả
tiền bán tài sản, nhận lại tài sản, nếu tài
sản bị tháo dỡ nhưng phải chịu các chi phí
về kê biên, định giá, bán đấu giá, tháo dỡ
tài sản”.
Với các quy định như trên, thì người
xây dựng trên đất trong những trường hợp
không phải là thuê đất (đúng ra phải nói là
thuê quyền sử dụng đất) hoặc góp vốn bằng
quyền sử dụng đất thì sẽ phải tháo dỡ tài sản
nếu không muốn bị xử lý chung với quyền sử
dụng đất được thế chấp. Vì vậy, ở đây cần giải
quyết mâu thuẫn này để bảo đảm tính thống
nhất của hệ thống luật.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
46 Số 20(396) T10/2019
5. Cầm giữ tài sản
Theo Điều 346 BLDS năm 2015, cầm
giữ tài sản là việc bên có quyền (gọi là bên
cầm giữ) đang nắm giữ hợp pháp tài sản là
đối tượng của hợp đồng song vụ được chiếm
giữ tài sản trong trường hợp bên có nghĩa
vụ không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ. Tính chất bảo đảm nghĩa vụ
của biện pháp thể hiện ở chỗ bên có nghĩa
vụ buộc phải thực hiện nghĩa vụ chứ không
có sự lựa chọn, như là điều kiện để bên có
quyền trả lại tài sản. Dù tài sản không thuộc
sở hữu của bên cầm giữ, bên này vẫn có
chính danh để nắm giữ tài sản và có quyền
dùng việc đó để gây sức ép đối với bên có
nghĩa vụ.
Biện pháp bảo đảm đặc biệt: Tính đặc
biệt của biện pháp cầm giữ tài sản thể hiện ở
nhiều điểm phân biệt với các biện pháp bảo
đảm đối vật khác. Không giống như thế chấp
tài sản, việc cầm giữ chỉ hữu hiệu chừng nào
tài sản còn nằm dưới quyền kiểm soát vật
chất của người cầm giữ. Nhưng khác với
cầm cố, người cầm giữ mất quyền năng đối
với tài sản một khi không còn cầm giữ thực
tại đối với tài sản và không có quyền truy
đòi tài sản. Khác với cả thế chấp và cầm
cố, người cầm giữ không có quyền xử lý tài
sản cầm giữ với tư cách chủ nợ có bảo đảm
bằng tài sản đó, cũng không có quyền ưu
tiên thanh toán bằng tiền bán tài sản. Người
này chỉ có quyền cầm giữ để gây áp lực buộc
người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ.
Phạm vi áp dụng: Theo Điều 412
BLDS năm 2015, trường hợp bên có nghĩa
vụ (theo một hợp đồng song vụ) không thực
hiện đúng nghĩa vụ của mình, thì bên có
quyền xác lập quyền cầm giữ tài sản đối với
tài sản của bên có nghĩa vụ theo quy định
từ Điều 346 đến Điều 350 của Bộ luật này.
4 Xem Nguyễn Ngọc Điện (2019), Phương pháp phân tích luật viết, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 99-102.
Trên nguyên tắc, chỉ cần quan hệ nghĩa vụ
thoả mãn các điều kiện luật định, thì quan
hệ cầm giữ tài sản phát sinh. Luật không
giới hạn phạm vi áp dụng cầm giữ tài sản
theo loại hợp đồng (mua bán, dịch vụ,...).
Tuy nhiên, trong luật hiện hành, cầm giữ tài
sản chỉ được chính thức thừa nhận trong hợp
đồng song vụ.
Điều kiện liên quan đến việc cầm
giữ: Điều cần thiết là có sự cầm giữ thực
tại. Quan hệ cầm giữ chỉ có điều kiện được
xác lập một khi tài sản nằm dưới sự kiểm
soát vật chất của bên có quyền. Việc cầm giữ
phải có nguồn gốc từ việc chuyển giao tài
sản cho bên có quyền trong khuôn khổ thực
hiện nghĩa vụ phát sinh từ một hợp đồng
song vụ. Ví dụ điển hình là chuyển giao tài
sản theo hợp đồng gửi giữ. Chuyển giao tài
sản theo hợp đồng cầm cố để bảo đảm nghĩa
vụ cũng được coi là một điều kiện để hình
thành quan hệ cầm giữ.
Luật không đặt vấn đề liệu có nên
đòi hỏi ở bên cầm giữ về tính hợp đạo lý,
tính nhân văn của việc cầm giữ. Một người
vận chuyển một số thiết bị y tế để giao cho
một bệnh viện; phí vận chuyển không được
thanh toán và người vận chuyển cầm giữ số
thiết bị, không giao cho bệnh viện, dù bệnh
viện đang rất cần số thiết bị ấy để chăm sóc
bệnh nhân. Với câu chữ của luật, thì người
vận chuyển hoàn toàn có quyền cầm giữ tài
sản trong trường hợp này. Tuy nhiên, có một
nguyên tắc chi phối hoạt động giải thích luật
theo đó, “luật dừng áp dụng ở nơi dừng lại
của lý lẽ (cessante ratione legis cessat ejus
dispositio)4. Với nguyên tắc đó, thì có thể
thừa nhận rằng quyền cầm giữ chỉ được thực
hiện một khi việc thực hiện quyền không
gây phương hại đến lợi ích quốc gia, công
cộng, lợi ích chung của xã hội, cộng đồng.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
47Số 20(396) T10/2019
Điều kiện liên quan đến nghĩa vụ được
bảo đảm: Giữa bên cầm giữ và chủ sở hữu
tài sản có thể có nhiều quan hệ nghĩa vụ.
Nhưng chỉ có các nghĩa vụ gắn với hợp đồng
song vụ có tác dụng chuyển giao tài sản cho
bên cầm giữ mới được bảo đảm thực hiện
bằng biện pháp cầm giữ tài sản. Đó có thể là
nghĩa vụ chính, như nghĩa vụ trả tiền công
giữ theo hợp đồng gửi giữ; đó cũng có thể là
nghĩa vụ phụ, như nghĩa vụ hoàn trả chi phí
bảo quản tài sản trong thời gian nhận giữ.
Cần nhấn mạnh rằng, theo quy định
của nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm giữ tài
sản phải là nghĩa vụ gắn với hợp đồng song
vụ mà trong khuôn khổ hợp đồng đó việc
chuyển giao tài sản được thực hiện. Một chủ
garage (nhà để xe) nhận sửa chữa một chiếc
ô tô mà trước đó đã sửa chữa một lần nhưng
chủ xe chưa thanh toán tiền; lần này chủ xe
cũng không thanh toán tiền sau khi xe được
sửa chữa xong. Chủ garage trong trường hợp
này có quyền cầm giữ chiếc ô tô để bảo đảm
việc thanh toán tiền sửa chữa lần 2, nhưng
không có cầm giữ để yêu cầu thanh toán tiền
sửa chữa lần đầu.
Thời điểm xác lập quan hệ cầm giữ:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 347 BLDS
năm 2015, cầm giữ tài sản phát sinh từ thời
điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có
nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ. Trong trường hợp có
nhiều nghĩa vụ gắn với hợp đồng song vụ,
thì chỉ cần một trong các nghĩa vụ ấy đến
hạn và không được thực hiện hoặc không
được thực hiện đúng, thì quan hệ cầm giữ
phát sinh. Luật không phân biệt nghĩa vụ
đến hạn là nghĩa vụ chính hay nghĩa vụ phụ.
Quyền và nghĩa vụ của bên cầm giữ:
Việc xử lý tài sản cầm giữ được thực hiện
theo thủ tục chung và một khi chấp nhận
giao tài sản cho người có chức năng xử lý
(như cơ quan thi hành án,..), thì bên cầm giữ
cũng không còn “vũ khí” nào đặc biệt để bảo
vệ quyền của mình.
Quyền quan trọng nhất của bên cầm
giữ là quyền giữ tài sản để gây áp lực đối
với bên có nghĩa vụ: muốn nhận lại tài sản,
thì bên có nghĩa vụ chỉ có mỗi cách là thực
hiện nghĩa vụ đối với bên cầm giữ. Bằng
cách gây áp lực như thế, bên cầm giữ suy
cho cùng còn có lợi thế hơn cả chủ nợ có bảo
đảm bằng thế chấp, cầm cố tài sản.
Bên cầm giữ được khai thác tài sản
cầm giữ để thu hoa lợi, lợi tức nếu bên có
nghĩa vụ đồng ý (khoản 3 Điều 348 BLDS
năm 2015). Giá trị của việc khai thác tài sản
cầm giữ được bù trừ vào nghĩa vụ của bên có
nghĩa vụ (Điều 348 BLDS năm 2015).
Đổi lại với các quyền được thừa nhận
cho mình, bên cầm giữ có các nghĩa vụ được
quy định tại Điều 349 BLDS năm 2015,
tương tự như các nghĩa vụ của bên nhận giữ
tài sản theo hợp đồng gửi giữ.
Chấm dứt tài sản: Các trường hợp
chấm dứt cầm giữ được quy định tại Điều
350 BLDS năm 2015. Đáng chú ý nhất là
trường hợp bên cầm giữ không còn chiếm
giữ tài sản trên thực tế. Luật không nói
rõ, nhưng phải thừa nhận rằng việc không
chiếm giữ tài sản phải hoàn toàn tự nguyện:
bên cầm giữ bị tước đoạt tài sản một cách
trái pháp luật có quyền của người chiếm hữu
yêu cầu khôi phục tình trạng ban đầu theo
Điều 185 BLDS năm 2015.
Những vấn đề đặt ra đối với chế định
cần giữ tài sản đòi hỏi cần được cụ thể hóa
trong một văn bản hướng dẫn thi hành
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 20(396) T10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_van_de_can_duoc_lam_ro_khi_ap_dung_cac_quy_dinh_cua_bo.pdf