Đây là nguồn vốn cơ bản lâu dài để mở rộng phạm vi kinh doanh của công ty.
v Ngoài việc huy động vốn từ các nguồn trong nước thì vay vốn nước ngoài cũng là giải pháp quan trọng và có hiệu quả mà công ty cần lưu ý. Nguồn vốn có ưu điểm lớn nhưng huy động lại khó vì các chủ hàng nước ngoaì thường đòi hỏi công ty phải có những tài sản đáng tin cậy như tài sản thế chấp, tình hình sản xuất và xuất khẩu của công ty.
v Tận dụng nguồn vốn của các bạn hàng thông qua thanh toán trả chậm hoặc xin ứng trước vốn trước khi xuất hàng. Hình thức này thường chỉ được thực hiện khi công ty xuất hoặc nhập khẩu một số lượng lớn hàng hóa và là bạn hàng quen thuộc của họ. Một điều quan trọng nữa ở phương thức này mà công ty cũng phải thực hiện được là chữ “tín” trong kinh doanh. Tức là công ty phải thanh toán đủ tiền hàng cho nhà xuất khẩu khi đã đến thời hạn thanh toán.
Khi đã huy động được vốn, vấn đề tiếp theo mà công ty cần quan tâm là làm thế nào để sử dụng nguồn vốn này một cách có hiệu quả. Muốn vậy công ty cần phải thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu, phải có biện pháp quản lý nguồn vốn một cách có hiệu quả. Vốn của công ty phải được tập trung vào những dự án mang tính khả thi cao. Đặc biệt, công ty phải dần dần giảm bớt kinh doanh những mặt hàng thô có khối lượng lớn nhưng trị giá kinh tế không lớn, lợi nhuận thu được không cao để dần chuyển sang kinh doanh mặt hàng tinh có giá trị kinh tế cao và có sức cạnh tranh lớn.
45 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1555 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những vấn đề lí luận cơ bản về xuất khẩu và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t khẩu). Mặt khác hàng nông sản chế biến sâu của các nước đang phát triển lại phải cạnh tranh với hàng nông sản xuất khẩu cùng loại của các nước phát triển ở thế yếu hơn do hạn chế về công nghệ chế biến và khả năng đầu tư cho công nghệ chế biến nông sản xuất khẩu.
Ngày nay thị trường quốc tế ngày càng được mở rộng, nhu cầu về hàng nông sản càng lớn nhưng bên cạnh đó tình hình cạnh tranh cũng vô cùng khắc nghiệt. Doanh nghiệp phải thực sự bước vào cuộc cạnh tranh gay gắt về nông phẩm, uy tín, điều kiện thanh toán... với các doanh nghiệp xuẩt khẩu trong và ngoài nước.
Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu nông sản Việt Nam
2.1. Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
Tiềm năng sản xuất hàng nông sản của Việt Nam
Với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp nên đối với sản xuất hàng nông sản, Việt Nam có tiềm năng khá lớn. Nếu như được đầu tư một cách đồng bộ, hợp lý, lâu dài sẽ hứa hẹn trở thành một trung tâm sản xuất nông sản lớn, tiềm năng này thể hiện ở:
2.1.1.1. Về đất đai:
2.1.1.2. Về khí hậu
2.1.1.3. Về nhân lực:
2.1.1.4. Các chính sách của Nhà nước:
Với tiềm năng to lớn của mình, triển vọng về sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam trong những năm tới là rất sáng sủa. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để khai thác được tiềm năng đó một cách tốt nhất để giải quyết vững chắc và ổn định lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội.
2.1.2. Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
Rất nhiều năm nay, mặc dù điều kiện thời tiết thiên nhiên không mấy thuận lợi, do chủ động ứng phó bằng cách chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi nông nghiệp Việt Nam được mùa liên tục toàn diện trên cả 3 miền, chẳng những thoả mãn ở mức tối thiểu nhu cầu của nhân dân mà còn dư thừa một khối lượng nông sản dưới dạng hàng hoá. Trong khi nhu cầu thị trường nội địa không lớn, sức mua và năng lực tài chính thanh toán của đại bộ phận dân cư hạn chế, nhu cầu về các chủng loại hàng hoá cao cấp chưa cao thì xuất khẩu nông sản hàng hoá là lối thoát duy nhất hợp lý, hoàn toàn phù hợp với xu thế quốc tế hoá, khu vực hoá nền kinh tế. Tăng cường tiềm lực xuất khẩu nông sản hàng hoá là phương hướng ưu tiên được Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn quan tâm, cụ thể hoá bằng chính sách hỗ trợ tài chính, thuế, đầu tư xuất nhập khẩu...
Bảng 1: Sản lượng xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu
của Việt Nam giai đoạn 1998 - 2002
ĐV:1000tấn,%
STT
Mặt hàng
1998
Tốc độ tăng
1999
Tốc độ tăng
2000
Tốc độ tăng
2001
Tốc độ tăng
2002
Tốc độ tăng
1
Gạo
3.730
4,33
4.508
20,86
3.500
-22,36
3.550
1,43
3.242
2
Cà phê
332
-15,31
482
45,18
733
52,07
910
24,15
718,6
-21,03
3
Cao su
191
-1,65
265
38,74
273
3,02
300
9,89
447,6
49,20
4
Lạc nhân
87
1,16
56
-35,63
76
35,71
80
5,26
5
Chè
33
0,30
36
9,09
56
55,55
58
3,57
6
Hạt điều
25,7
-22,82
18,4
-28,40
34
84,78
40,9
20,29
62,2
52,08
7
Hạt tiêu
15,1
-38,87
34,8
130,46
37
6,32
56,1
51,62
76,6
48,39
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam
Hiện nay các mặt hàng như: gạo cà phê, cao su đã vươn lên trở thành các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. So với tốc độ phát triển bình quân trên thế giới thì ba mặt hàng trên của Việt Nam có tốc độ phát triển cao và có nhiều mặt hàng đã vươn lên đứng vị trí cao trong số các nước tham gia xuất khẩu trên thị trường thế giới. Chẳng hạn: từ năm 1998, Việt Nam đã vươn lên vượt Mỹ về xuất khẩu gạo, chỉ đứng sau Thái Lan. Cà Phê Việt Nam hiện nay đang vượt Indonexia về số lượng xuất khẩu, vươn lên đứng vị trí số 3 trong số các nước xuất khẩu, chỉ đứng sau Brasin và Colombia. Cao su cũng đứng vào danh sách 10 nước xuất khẩu hàng đầu của thế giới.
Bảng :2 Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam
Đơn vị tính: triệu USD
STT
Mặt hàng
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
KH năm 2003
1
Gạo
588
725
725
2
Cà phê
200
323
420
3
Cao su
350
269
350
4
Hạt tiêu
107
120
5
Hạt điều
117
209
240
6
Rau quả
7
Lạc nhân
79
202
230
8
Chè
38
Nguồn: Tạp chí Thương Mại
2.2. Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam
Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong những qua đạt kết quả cao. Bước đầu nước ta đã hình thành được các nhóm hàng nông sản xuất khẩu có giá trị lớn, một số mặt hàng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD như gạo, cà phê, hạt điều, lạc nhân...một điều đáng mừng là các mặt hàng xuất khẩu không những tăng nhanh về số lượng đa dạng mà về chủng loại danh mục ngày càng được bổ sung.
Tuy nhiên nhìn trên nhiều mặt, xuất khẩu nông sản còn xa mới xứng với tiềm năng hiện có của nền nông nghiệp nước nhà, tuy sản lượng xuất khẩu ngày càng tăng nhưng kim nghạc còn nhỏ, hiệu quả kinh tế còn thấp, còn nhiều thách thức trong việc tìm kiếm “đầu ra” cho nhiều loại nông sản hàng hoá. Tính bình quân cho các nhân khẩu làm nông nghiệp xuất khẩu mới đạt khoảng 4,5 USD. ở đây, tồn tại nhiều nguyên nhân khác nhau liên quan đến nhiều khâu:
- Trong sản xuất: sản xuất nông nghiệp nói chung, cho xuất khẩu nói riêng còn nhiều sự chia cắt, tách biệt khâu sản xuất với khâu chế biến và tiêu thụ, các vùng nguyên liệu phân tán, xé nhỏ, phương thức canh tác thủ công (từ gieo trồng, chăn bón đến thu hoạch, bảo quản) ít có cơ hội áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật làm cho năng xuất thấp, tiêu hao nhiều lao động, giá thanh cao. Hạn chế lớn nhất của hàng hoá nông nghiệp xuất khẩu chủ yếu là dưới dạng thô hoặc qua sơ chế giá trị gia tăng không cao. Hạn chế này càng trở nên thách thức to lớn đối với Việt Nam khi các hàng rào thuế quan đã bị dỡ bỏ và miễn giảm thuế chỉ áp dụng cho các mặt hàng nông sản đã qua chế biến trong APEC mà Việt Nam là một thành viên. Tình trạng này kéo dài, hàng nông sản của ta sẽ thiếu năng lực cạnh tranh. Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm nước ngoài với giá rẻ hơn được chế biến bằng công nghệ hiện đại, mẫu mã phong phú...
-Trong khâu phân phối và tiêu thụ: Hàng nông sản của ta mới tập trung vào một số thị trường hạn chế, dễ bị sức ép và biến động nhiều vì không có đối trọng so sánh. Các nhà xuất khẩu trong nước không hỗ trợ liên kết hợp tác với nhau, giúp đỡ người nông dân trực tiếp sản xuất mà còn tranh mua, tranh bán, nâng hạ giá tuỳ tiện làm cho diễn biến giá cả thị trường phức tạp, không đúng với thực chất. Thêm vào đó, hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam vẫn còn mang tính manh mún, còn thiếu một tầm nhìn chiến lược dài hạn trên cơ sở nắm bắt thông tin thương mại chính xác và hiểu biết xu hướng vận động của thị trường quốc tế nói chung, đối với từng chủng loại hàng hoá nói riêng. Năng lực tiếp thị, khả năng phân tích thị trường và việc tiến hành quản lý xuất nhập khẩu của đội ngũ cán bộ còn thiếu kinh nghiệm dẫn đến sự chậm chễ và thua thiệt.
Chính vì những nguyên nhân nêu trên, việc thúc đẩy xuất khẩu nông sản và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trở nên cấp thiết.
Chương II.
Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của
công ty SX-DV & XNK Nam Hà Nội (HAPROSIMEX SAI GON)
I. Khái quát về Công ty HAPROSIMEX Sài Gòn:
Quá trình hình thành và phát triển của công ty HAPROSIMEX
Sự hình thành của công ty HAPROSIMEX
Tiền thân của công ty sản xuất - dịch vụ & xuất nhập khẩu Nam Hà Nội là Ban đại diện phía Nam của Liên hiệp sản xuất - dịch vụ & xuất nhập khẩu tiểu thủ công nghiệp Hà Nội. Cuối năm 1991, để mở rộng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở cả 3 miền, Tổng GĐ Liên hiệp sản xuất - dịch vụ & xuất nhập khẩu tiểu thủ công nghiệp Hà Nội đã ra quyết định thành lập Ban đại diện phía Nam, sau chuyển thành chi nhánh HAPROSIMEX Sài Gòn trực thuộc sự quản lý của Liên hiệp sản xuất - dịch vụ & xuất nhập khẩu.
Chức năng nhiệm vụ : thời điểm này Công ty chủ yếu hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Cơ cấu hoạt động xuất nhập khẩu chủ yếu trong thời gian này là hàng thủ công mỹ nghệ, ngoài ra còn có một số hàng nông sản như cà phê, chè, tiêu, lạc nhân.
Quá trình phát triển của công ty HAPROSIMEX
Giai đoạn 1 (1992-1998)
Sau khi được thành lập với tên gọi là Ban đại diện phía Nam của Liên hiệp sản xuất - dịch vụ & xuất nhập khẩu tiểu thủ công nghiệp Hà Nội, đến tháng 8/1992 đã đổi tên thành Chi nhánh Liên hiệp sản xuất - dịch vụ & xuất nhập khẩu tiểu thủ công nghiệp Hà Nội. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tăng dần và quy mô ngày càng lớn
Thi hành Nghị định số 388/HĐBT ngày 20/11/1991 của Hội đồng bộ trưởng về việc thành lập doanh nghiệp Nhà nước, chi nhánh Liên hiệp đã được đổi tên thành Chi nhánh Công ty sản xuất - xuất nhập khẩu Nam Hà Nội
Bảng 3: Tình hình hoạt động của Công ty từ năm 1992-1998
Năm
Chỉ tiêu
ĐVT
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Số lao động
(người )
10
20
35
50
80
95
180
Tốc độ tăng
(%)
-
100
75
42,86
60
18,75
89,47
Kim ngạch XNK
triệu $
0,5
3,1
15
14
14,5
14,5
15
Tốc độ tăng
(%)
-
520
383,87
-6,67
3,57
0
3,45
Doanh số kinh doanh
tỷ đồng
5
35
108
95
181
270
295
Tốc độ tăng
(%)
-
600
208,6
-12,04
90,66
49,07
9,26
Thu nhập bình quân
nghìn đồng/ người/tháng
600
800
950
1.050
1.100
1.200
1.300
Tốc độ tăng
(%)
-
33,33
18,75
10,53
4,76
9,09
8,33
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của công ty
Giai đoạn 2 (1999-nay)
Trước sự lớn mạnh của chi nhánh Công ty sản xuất - xuất nhập khẩu Nam Hà Nội, trước những khó khăn mà Xí nghiệp phụ tùng xe đạp xe máy Lê Ngọc Hân đang gặp phải, đồng thời thực hiện chủ trương củng cố doanh nghiệp Nhà nước, sát nhập các đơn vị vừa và nhỏ, UBND thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 07/QĐ-UB ngày 2/1/1999 sát nhập với Xí nghiệp phụ tùng xe đạp xe máy Lê Ngọc Hân và đổi tên thành Công ty sản xuất - xuất nhập khẩu Nam Hà Nội. Tên giao dịch: HAPROSIMEX SAI GON. Trụ sở chính: 28B Lê Ngọc Hân, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Có thể nói sau khi ra đời công ty đã vấp phải rất nhiều khó khăn do đổi mới về cơ chế làm việc, bộ máy tổ chức hành chính và đặc biệt là những khó khăn về con người mới chưa kịp nắm bắt những công việc mới và hoạt động của công ty. Song với một ban lãnh đạo có tài năng và kinh nghiệm cũng như một đội ngũ nhân viên nhiệt tình với công việc, hoạt động kinh doanh của công ty đã dần đi vào thế
ổn định. Sau khi được thành lập, Công ty sản xuất - xuất nhập khẩu Nam Hà Nội đã có điều kiện chủ động phát huy mọi thế mạnh sẵn có, mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, khắc phục được những khó khăn vướng mắc mà chi nhánh, xí nghiệp từng gặp phải trong giao dịch. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu không ngừng mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh doanh và thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu nhiệm vụ Nhà nước giao.
Trước xu thế phát triển chung của thị trường trong và ngoài nước cũng như nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng về vấn đề dịch vụ và đặc biệt là sức ép từ các đối thủ cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước, tháng 12/2000, tiếp tục thực hiện chủ trương của Nhà nước về củng cố doanh nghiệp Nhà nước, UBND Thành phố Hà Nội ra Quyết định số 6908/QĐ-UB ngày 12/12/2000 sát nhập Công ty ăn uống dịch vụ bốn mùa vào Công ty sản xuất -XNK Nam Hà Nội, đổi tên Công ty sản xuất -Xuất nhập khẩu Nam Hà Nội thành Công ty sản xuất-dịch vụ và Xuất nhập khẩu Nam Hà Nội, và chuyển Công ty về trực thuộc Sở Thương Mại để thực hiện quản lý về mặt Nhà nước. Tên giao dịch : HAPROSIMEX SAI GON. Trụ sở giao dịch chính của Công ty: chuyển đến 38-40 Lê Thái Tổ, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội .
Tháng 3/2002 để triển khai dự án xây dựng Xí nghiệp Liên hiệp chế biến thực phẩm Hà Nội, UBND thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 1757/QĐ-UB ngày 20/3/2002 về việc sát nhập Xí nghiệp giống cây trồng Toàn Thắng thuộc Công ty giống cây trồng Hà Nội vào Công ty sản xuất - dịch vụ & xuất nhập khẩu Nam Hà Nội.
Công ty sản xuất- dịch vụ và Xuất nhập khẩu Nam Hà Nội là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Sở Thương Mại Hà Nội kinh doanh trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ & xuất nhập khẩu, có tư cách pháp nhân đầy đủ, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế độc lập, có tài khoản tại ngân hàng ngoại thương. Hiện nay công ty đã xây dựng được một mạng lưới bán hàng xuất nhập khẩu tại 53 nước và khu vực trên thế giới.
Chức năng, nhiệm vụ hoạt động của công ty
Chức năng, nhiệm vụ của công ty
Lĩnh vực thương mại: đây là lĩnh vực đem lại nguồn thu nhập chủ yếu của công ty
+ Hoạt động xuất khẩu: tổ chức khai thác thị trường trong nước dựa trên điều kiện và tiềm năng to lớn về hàng xuất khẩu của các tỉnh để tạo nguồn cung cấp đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng. Công ty xuất khẩu những mặt hàng chủ yếu sau:
-Hàng thủ công mỹ nghệ: mây tre đan lá, gốm sứ, sơn mài, đồ gỗ, thảm các loại, sắt mỹ nghệ, gỗ, gốm mỹ nghệ, hàng thêu...
-Hàng Nông sản bao gồm: tiêu đen, lạc nhân, chè, cà phê, gạo, bột sắn, dừa sấy, quế, hồi, nghệ....
-Hàng công nghiệp nhẹ: giầy dép, túi xách, đồ nhựa, may mặc ..
+Hoạt động nhập khẩu : hàng tiêu dùng, vật tư, nguyên vật liệu, thiết bị kỹ thuật, máy móc phụ tùng phục vụ cho các ngành sản xuất, đời sống nhân dân.
Lĩnh vực dịch vụ:
-Dịch vụ giao nhận vận chuyển hàng trong nước, dịch vụ tư vấn thương mại, dịch vụ xuất nhập khẩu
-Dịch vụ ăn uống, giải khát, du lịch lữ hành, kinh doanh khách sạn, cho thuê văn phòng
Lĩnh vực sản xuất kinh doanh:
-Xe đạp, phụ tùng xe đạp xe máy
-Kem, nước giải khát, bánh mứt kẹo, các mặt hàng thực phẩm, rượu bia
Như vậy, công ty kinh doanh trên cả 3 lĩnh vực cho thấy sự đa dạng hoá ngành nghề trong kinh doanh với mục tiêu tận dụng tối đa nguồn lực, tiềm năng và cơ hội thị trường, hạn chế rủi ro
Nội dung hoạt động của công ty:
-Công tác xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh chính, trọng tâm và là quan trọng nhất có tính chiến lược quyết định sự phát triển cuả công ty.
-Tổ chức sản xuất, khai thác chế biến, kinh doanh và xuất khẩu các mặt hàng Thủ công mỹ nghệ, hàng nông sản, lâm sản...
-Đưa hàng công nghiệp từ Hà Nội xuống các địa phương, cơ sở các tỉnh phía Nam để trao đổi lấy hàng xuất khẩu
-Công ty được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp, uỷ thác cho các đơn vị kinh tế khác. Công ty có quyền ký kết các Hợp đồng với các tổ chức kinh tế nước ngoài, đồng thời được dự các hội chợ giới thiệu sản phẩm, đàm phán quyết giá mua, giá bán với tất cả các tổ chức kinh tế nước ngoài và các tổ chức kinh tế trong nước .
3. Cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý công ty HAPROSIMEX:
Tổ chức bộ máy của công ty sản xuất - dịch vụ & xuất nhập khẩu Nam Hà Nội hiện nay được thiết kế theo mô hình phân cấp quản lý và tập trung lãnh đạo nhằm phát huy tối đa năng lực điều hành của các cấp quản lý và khả năng sáng tạo của cán bộ công nhân viên đáp ứng nhanh, chính xác các yêu cầu nhiệm vụ trong sản xuất - kinh doanh. (Hình 3: Sơ đồ bộ máy tổ chức công ty)
Ban Giám đốc Công ty bao gồm: Giám đốc và 4 Phó Giám đốc:
-Giám đốc là người đứng đầu công ty được UBND Thành phố Hà Nội bổ nhiệm, là có quyền hành cao nhất, có quyền ra mọi quyết định liên quan đến sự ổn định và phát triển của công ty và là người phải chịu mọi trách nhiệm trực tiếp trước Nhà nước, Sở Thương Mại Hà Nội về việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
-Giúp việc cho Giám đốc là các Phó Giám đốc, các Phó Giám đốc là những người trực tiếp truyền đạt mọi mệnh lệnh và quyết định của Giám đốc tới từng phòng ban và từng cán bộ công nhân viên, được Giám đốc giao nhiệm vụ trực tiếp phụ trách một mảng hoặc một bộ phận hoạt động của Công ty, bên cạnh đó các Phó Giám đốc còn là người ký Hợp đồng giấy tờ có liên quan khi được Giám đốc uỷ quyền. Hiện nay Công ty có 4 Phó Giám đốc
Phòng tổ chức hành chính: là phòng cơ bản thuộc bộ máy hoạt động của bất kỳ công ty nào, là phòng tổ chức quản lý về lao động tiền lương, thanh tra pháp chế và có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên trong công ty
Phòng Kế toán tài chính: cũng là phòng cơ bản trong bộ máy hoạt động của công ty
Phòng tổng hợp: được phát triển trên cơ sở Bộ phận tổng hợp.
Các phòng nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu
Các trung tâm, chi nhánh và xí nghiệp
Mối quan hệ giữa các phong ban trong công ty
II. Đặc điểm Kinh tế - kỹ thuật chủ yếu của công ty có ảnh hưởng đến việc thúc đẩy xuất khẩu:
Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty HAPROSIMEX
Mặt hàng kình doanh:
1.1.1. Lĩnh vực xuất khẩu:
sản phẩm xuất khẩu chính là yếu tố quyết định sự thành bại của bất cứ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Để đảm bảo cho xuất khẩu công ty có một nguồn hàng xuất khẩu dồi dào cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu thị hiếu khách hàng. Vì vậy mặt hàng xuất khẩu của công ty ngày càng đa dạng và đã được xuất khẩu sang 53 nước và khu vực trên thế giới.
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng của công ty (trang )
1.1.2. Lĩnh vực nhập khẩu:
Việc nhập khẩu các sản phẩm chủ yếu là máy móc thiết bị, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất nước giải khát, cho các dự án xây dựng do phòng nhập khẩu, trung tâm XNK Máy & thiết bị, Trung tâm kinh doanh hàng tiêu dùng của Công ty. Bên cạnh đó Công ty cũng tham gia làm dịch vụ nhập khẩu uỷ thác dựa trên nhu cầu của khách hàng trong nước ở tất cả các tỉnh thành
Thị trường hàng Nhập khẩu thường từ các nước Công nghiệp phát triển và mặt hàng nhập khẩu thường là những máy móc kỹ thuật cao nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của Công ty theo yêu cầu của người uỷ thác.
Bảng 4 : Kim ngạch nhập khẩu đối với một số mặt hàng của công ty
Đơn vị tính: USD
STT
Mặt hàng
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1.
Nguyên liệu
4.885.260
3.732.190
2.
NVL Sản xuất
1.856.970
1.418.670
11.617.260
3.
Hàng tiêu dùng
396.530
302.940
722.760
4.
Máy móc thiết bị
401.800
306.960
704.980
5.
Dụng cụ y tế
59.270
45.280
6.
Hương liệu sản xuất
1.455.900
1.897.620
7.
Hương liệu thực phẩm
162.870
162.580
8.
Hóa chất
15.400
15.580
Tổng
9.234.000
7.878.499
13.045.000
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh
1.1.3. Lĩnh vực kinh doanh và tiêu thụ nội địa:
Bảng 5 : Hoạt động kinh doanh và tiêu thụ nội địa
Đơn vị tính: ngàn đồng
STT
Phòng ban
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1
Phòng Gốm
310.000
450.000
2
Phòng Gỗ
4.350.000
5.650.000
1.700.000
3
Phòng Xuất nhập khẩu II
930.000
1.200.000
4
TT TM-DL-DV Bốn Mùa
2.800.000
2.950.000
5
TT KD hàng TD phía Bắc
3.400.000
6
TT KD hàng TD phía Nam
900.000
7
TT XNK Máy và thiết bị
1.283.000
5.300.000
8
TT Bất động sản
9.700.000
9
Xí nghiệp sắt mỹ nghệ
2.350.000
3.800.000
Hoạt động kinh doanh nội địa của công ty ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho công ty thúc đẩy xuất khẩu nông sản.
Thị trường:
Hiện nay, thị trường công ty không ngừng được mở rộng, công ty đã thiết lập mối quan hệ bạn hàng với 53 nước và khu vực trên thế giới
Bảng 6 : Giá trị xuất khẩu trên một số thị trường chính
Đơn vị tính: USD
STT
Nước
1999
2000
2001
2002
1
Singapore
1.656.980
2.656.013
3.974.571
4.282.549
2
Thái Lan
818.003
581.588
633.552
1.686.921
3
Nhật Bản
721.313
993.162
1.197.121
1.505.839
4
Hôngkông
75.315
1.028.267
1.328.415
1.427.395
5
Malaisia
921.391
1.131.093
1.456.715
1.371.856
6
Trung Quốc
-
880.248
579.053
960.489
7
Inđônêsia
1.004.675
199.800
510.929
619.053
8
Trung Đông
-
-
454.159
778.896
9
Tây Âu
449.830
1.084.821
982.686
1.069.768
10
Bắc Âu
508.630
802.953
385.800
680.905
11
Nam Mỹ
442.835
773.256
-
831.029
Tổng cộng
6.659.700
10.131.200
11.503.000
15.214.700
Tốc độ tăng
-
52,13
13,54
32,27
Nguồn: Báo cáo kết quả 1999-2002, Phòng khu vực thị trường
Kim ngạch xuất khẩu trên các thị trường tăng theo các năm, số lượng khách hàng trên các thị trường tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho công ty thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng.
Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
Bảng 7 : Kết quả hoạt động kinh doanh qua các năm
Đơn vị tính : nghìn đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1
Tổng doanh thu (DT)
96.139.410
138.207.561
168.719.790
270.332.020
Trong đó:DT hàng XK
92.753.757
120.377.447
157.044.795
233.580.080
2
DT thuần
96.139.410
138.207.561
168.719.790
270.332.020
3
Giá vốn hàng bán
78.908.126
113.135.784
138.559.459
221.672.256
4
Lợi tức gộp
17.231.283
25.071.776
30.160.331
48.659.764
5
Chi phí
-Chi phí bán hàng
-Chi phí quản lý DN
16.894.616
12.870.745
4.023.871
24.059.879
21.053.848
3.006.031
27.104.216
20.979.807
6.124.409
47.432.378
33.848.185
9.880.936
6
LN thuần từ HĐKD
336.667,530
1.011.897
3.056.116
4.930.643
7
LN HĐTC
-Thu nhập HĐTC
-Chi phí HĐTC
781,379
781,379
0
7.518,191
12.961,318
5.443,127
-1.444.886
15.429,792
1.460.315,49
-3.180.804
33.968
3.214.772
8
LN bất thường
-Thu nhập bất thường
-Chi phí bất thường
3.652,999
48.000
44.347,001
0
150
150
0
161
161
0
9
Tổng LN trước thuế
341.101,908
1.019.415,19
1.611.380,21
1.750.000
10
Thuế TNDN
109.152,611
326.212,862
515.641,666
560.000
11
LN sau thuế
231.949,29
693.202,331
1.095.738,54
1.190.000
Nguồn : Phòng kế toán tài chính
Doanh thu và lợi nhuận của công ty theo các năm đều tăng, nhờ đó tiềm lực công ty ngày càng lớn mạnh, do vậy việc thúc đẩy xuất khẩu sẽ dễ dàng hơn.
Bảng 8 : Tính hình cán bộ công nhân viên của Công ty (1999-2002)
Năm
Đơn vị tính
1999
2000
2001
2002
Số lao động
người
296
332
500
750
Tốc độ tăng
%
64,44
12,16
50,60
50
Thu nhập
bình quân
nghìn đồng/ người/ tháng
1.500
1.550
1.600
1.650
Tốc độ tăng
%
15,38
3,33
3,22
3,13
Nguồn : Phòng tổ chức hành chính
Nguồn lao động của công ty ngày càng được bổ sung để phục vụ cho việc mở rộng hoạt động kinh doanh. Thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên đều tăng, đời sống của cán bộ được chăm lo đầy đủ cả về vật chất và tinh thần. Con người là yếu tố quan trọng quyết định mọi sự thành bại của kinh doanh. Với đội ngũ cán bộ trẻ năng động, sáng tạo bên cạnh những cán bộ lâu năm là điều kiện tốt cho công ty mở rộng kinh doanh xuất khẩu trong đó có mặt hàng nông sản.
III. Thực trạng hoạt động xuất khẩu và thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty HAPROSIMEX
Thực trạng xuất khẩu nông sản của công ty HAPROSIMEX
Bảng 9 : Kim ngạch xuất khẩu nông sản của công ty trong những năm gần đây
Đơn vị tính: triệu USD, %
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
KN XKNS
3.120,5
3.350,8
4.097,1
5.774,7
9.245,4
Tổng KNXK
5.528,6
6.659,7
10.131,2
11.503
15.214,7
Tỷ trọng
56,44
50,31
40,44
50,20
60,77
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty
Bảng 10 : Cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu của công ty
Đơn vị tính: USD
STT
Mặt hàng
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1
Lạc Nhân
3.744.900
2
Chè
110.060
946.440
3
Tiêu
2.371.830
3.333.940
4
Gạo
852.130
5
Bột sắn
193.570
6
Dừa sấy
108.600
7
Quế
16.800
8
Nghệ
-
17.700
9
Hàng khác
31.350
Tổng cộng
3.350.770
4.097.138
5.774.664
9.245.430
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh
Trong cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu ta thấy mặt hàng lạc nhân, hạt tiêu chiếm tỷ trọng lớn. Đây là mặt hàng có giá trị cao và đang được ưa chuộng rộng rãi trên thị trường quốc tế. Công ty cần phải có những chính sách đặc biệt ưu đãi để phát triển những mặt hàng này, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu đồng thời tăng cường phát triển những mặt hàng nông sản khác.
Bảng11 : Thị trường xuất khẩu hàng nông sản của công ty
Đơn vị tính:USD
STT
Thị trường
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1
Châu Âu
2
Châu á
3
Châu Phi
4
Châu Mỹ
Bảng 12: Giá một số mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty
Đơn vị tính: USD/tấn
STT
Mặt hàng
1999
2000
2001
2002
1
Lạc nhân
492
500
502
499
2
Gạo
239
220
195
227
3
Tiêu đen
1450
1480
888
1366
4
Chè
1174
5
Bột sắn
185
6
Dừa sấy khô
896
7
Các hàng khác
836
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh- Phòng tổng hợp
Các biện pháp mà công ty đã áp dụng để thúc đẩy xuất khẩu nông sản trong các năm gần đây
Thu thập thông tin và xử lý thông tin
Trong xu thế tự do hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, số lượng các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia xuất nhập khẩu hàng hóa không ngừng tăng làm cho sự cạnh tranh trong và ngoài nước ngày càng khốc liệt. Trong bối cảnh chung ấy thông tin chính là yếu tố quyết định sự thành công của bất kỳ một đơn vị kinh doanh nào. Đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng nông sản thì thông tin lại càng đóng vai trò quan trọng bởi mặt hàng nông sản là một mặt hàng rất nhạy cảm, bất kỳ một yếu tố khách quan hay chủ quan nào đều có thể gây sự biến động mạnh đến tình hình cung, cầu mặt hàng này trên thị trường. Điều này sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của mỗi đơn vị.
Nhận thức được tầm quan trọng của thông tin, trong thời gian qua công ty HAPROSIMEX cũng đã quan tâm đến việc thu thập thông tin về tình hình cung, cầu, giá cả, sự thay đổi trong tiêu dùng mặt hàng nông sản, thông tin về đối thủ cạnh tranh một cách đầy đủ nhất và nhanh nhất.
Các nguồn thông tin rất quan trọng, đáng tin cậy và cập nhật các bản tin của các cơ quan thống kê phát hành thường xuyên, các tạp chí kinh tế, thông tin về thị trường giá cả của ủy ban vật giá Nhà nước, thông tin từ việc tham gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước, thông tin từ các cán bộ công mà công ty cử đi khảo sát thị trường nước ngoài và đặc biệt là khai thác nguồn thông tin trên mạng Internet. Ngoài ra công ty còn dựa vào sự quen biết của các cán bộ nhân viên trong công ty với khách hàng nước ngoài để thu thập thêm thông tin.
Song song với việc thu thập thông tin, việc xử lý thông tin cũng vô cùng quan trọng. Những con số và sự kiện sẽ chẳng có có ý nghĩa gì nếu nó không được xử ký một cách kịp thời và chính xác. Nhiệm vụ của xử lý thông tin và đưa ra quyết định là phải biết được thông tin nào là đúng, thông tin nào là sai, thông tin nào mang lại những cơ hội và thách thức cho công ty để từ đó ra những quyết định biến những cơ hội thành những kết quả kinh doanh tốt, ứng phó với thách thức để hạn chế rủi ro. Chẳng hạn như trong năm 2002, nhờ công tác thu thập thông tin khá tốt nên Công ty đã dự báo được tình hình khó khăn trong xuất khẩu do giá nông sản giảm, công ty đã tập trung lực lượng triển khai thu mua hàng nông sản trên diện rộng, thực hiện chủ trương xuất khẩu tăng về số lượng để bù vào giảm giá. Công ty đã xuất khẩu hàng nông sản đạt kết quả cao, vượt mức chỉ tiêu cả về số lượng và trị giá.
Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu ổn định
Công ty luôn coi trọng việc củng cố những bạn hàng lâu đời đáng tin cậy, ra sức xây dựng các cơ sở chân hàng mới trên khắp 3 miền. Nhờ vậy công ty đã xây dựng được mạng lưới chân hàng ở nhiều tỉnh thành phố trong cả nước, đảm bảo nguồn hàng ổn định phục vụ tốt cho xuất khẩu.
Công tác nghiên cứu thị trường, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường nước ngoài
Nền kinh tế nước ta đang vận hành theo nền kinh tế thị trường chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, triết lý kinh doanh đã thay đổi từ cái bán cái chúng ta có sang bán cái thị trường cần. Bởi vậy công tác tiếp cận và nghiên cứu thị trường đã được công ty rất quan tâm chú trọng.
Năm 2001, 2002 diễn biến thị trường thế giới có nhiều bất lợi cho kinh doanh xuất khẩu do sức mua yếu, giá xuất khẩu nhiều mặt hàng không ổn định, (giá một số mặt hàng nông sản bị giảm mạnh như tiêu đen), có nhiều rào cản thương mại. Để khắc phục tình trạng trên công ty đã chọn yếu tố quyết định quan trọng để thắng lợi trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu là phải tìm lối ra cho hàng hoá bằng việc tăng cường xúc tiến thương mại. Năm 2001 công ty đã tổ chức 8 đoàn cán bộ, năm 2002 là 23 đoàn cán bộ ra nước ngoài nghiên cứu thị trường, tiếp xúc khách hàng, tham gia hội chợ quảng bá hàng hoá tại nhiều nước, giữ vững được các thị trường truyền thống như Châu á, Tây Bắc Âu, Nhật Bản đồng thời khảo sát, mở rộng được các thị trường mới ở Châu Mỹ, Đông Âu, Nam Phi ...Đặc biệt là thị trường Mỹ tuy mới thâm nhập nhưng các sản phẩm của công ty đã được thị trường rộng lớn này chấp nhận, ngày càng có nhiều khách hàng lớn từ Mỹ đến với công ty, trong tương lai gần giá trị xuất khẩu sang thị trường này sẽ tăng nhanh.
Ngoài việc cử các đoàn ra nước ngoài nghiên cứu khảo sát thị trường, công ty còn tích cực khai thác lợi thế của mạng Internet để quảng cáo, chào bán các loại hàng hoá. Công ty đã có các trang Web để giới thiệu quảng bá sản phẩm nông sản và thủ công mỹ nghệ. Hàng tuần Công ty ký được nhiều hợp đồng qua kết quả giao dịch trên Internet. Đến nay hàng hoá mang thương hiệu Hapro ngày càng được khách hàng nhiều nước chấp nhận, nhờ vậy kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh rõ rệt .
Tích cực khai thác hàng hoá, thực hiện triệt để các hợp đồng xuất khẩu
Trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2002 do Nhà nước khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho kinh doanh xuất khẩu đã thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia trực tiếp xuất khẩu làm cho thị trường hàng xuất khẩu bị cạnh tranh gay gắt. Đối với mặt hàng nông sản, nhờ dự báo trước được tình hình khó khăn đó nên công ty đã tập trung lực lượng triển khai thu mua hàng nông sản trên diện rộng, thực hiện chủ trương xuất khẩu tăng về số lượng để bù vào giảm giá.. Đây là những đối tác luôn gắn bó chặt chẽ với công ty, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của công ty và thị trường.
IV. Đánh giá về hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty HAPROSIMEX
Những ưu điểm của công ty trong thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản
Chủng loại hàng xuất khẩu ngày càng phong phú và đa dạng, số lượng xuất khẩu của từng mặt hàng ngày càng tăng. Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu và xúc tiến tiêu thụ hàng nhập khẩu đang từng bước cải thiện để thích ứng với môi trường kinh doanh mới. Công ty đã chọn được những khu vực thị trường tối ưu để thu mua từng loại sản phẩm, đã bắt đầu lập nên các cơ quan đại diện ở nước ngoài, đã tích cực tham gia các hội chợ triển lãm, quáng bá hàng hoá ...
Chất lượng hàng của công ty đang ngày một nâng cao.
Thị trường tiêu thụ hàng của công ty cũng được mở rộng đáng kể theo hướng đa dạng hơn.
Ngay từ công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu công ty đã có thuận lợi như một mạng lưới chân hàng, các đại lý thu mua hàng rộng khắp cả nước tạo nguồn xuất khẩu ổn định
Kim ngạch xuất khẩu nông sản của công ty tăng lên qua các năm, đặc biệt là năm 2002 kim ngạch xuất khẩu nông sản của công ty đã tăng vọt. Nhờ kết quả khả quan này công ty đã tạo việc làm và thu nhập ổn định cho nhiều cá nhân ở trong và ngoài công ty.
Những tồn tại, hạn chế trong thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty
Trong thời gian qua, hàng nông sản xuất khẩu của công ty cũng như của Việt Nam nói chung chủ yếu là ở dạng thô hoặc mới qua sơ chế nên hiệu quả xuất khẩu chưa cao. Chế biến đang là một lĩnh vực còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Trong thời gian qua, hoạt động chế biến hàng nông sản phục vụ cho xuất khẩu chủ yếu được thực hiện bởi những người sản xuất với phương tiện chế biến thô sơ lạc hậu, nên có năng suất thấp, ngoại hình không hấp dẫn, chất lượng không cao. Những yếu kém trong khâu chế biến được xem là nổi cộm nhất hiện nay và là một trong những nguyên nhân làm giảm sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam.
Công tác kiểm tra chất lượng khi thu mua được còn hạn chế, chủ yếu chỉ dựa vào trực quan của cán bộ thu mua. Với cách kiểm tra này công ty chỉ kiểm tra được với một khối lượng nhỏ chất lượng hàng đã qua kiểm tra cũng mới chỉ ở mức trung bình chứ chưa đáp ứng được yêu cầu cao của những thị trường khó tính.
Nguyên nhân của các tồn tại hạn chế
Trước hết xuất phát từ hoạt động sản xuất hàng nông sản trong nước.
Công ty HAPROSIMEX SAI GON có chức năng kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản song công ty không trực tiếp sản xuất hàng để xuất khẩu. Do vậy chất lượng hàng xuất khẩu của công ty hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt động sản xuất hàng nông sản trong nước. Tuy nhiên trong thời gian qua hoạt động sản xuất nông sản trong nước chưa thực sự nhận được sự đầu tư, quan tâm chỉ đạo sắt sao của nhà nước. Hoạt động sản xuất nông sản hầu như mang tính tự phát, tự giác. Nông dân thích gieo trồng loại cây nào, giống nào, thời vụ gieo trồng, kỹ thuật gieo trồng như thế nào là tùy. Do vậy có hiện tượng thuốc trừ sâu, phân bón hóa học và các thuốc kích thích tăng trưởng được sử dụng một cách bừa bãi; nhiều vùng, nhiều địa phương, nhiều hộ nông dân chạy theo năng suất, số lượng, chưa chú ý đến chất lượng. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng hàng nông sản của Việt Nam nói chung và của công ty nói riêng chưa cao. Công tác chế biến, bảo quản hàng sau khi mua đã gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng hàng xuất khẩu của công ty.
Chất lượng nguồn nhân lực cũng là một trong những nhân tố tác động đến hoạt động thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản trong công ty. Hiện tại nếu phân theo độ tuổi thì trong công ty có 54,75% cán bộ ở độ tuổi dưới 30, độ tuổi trên 40 chiếm hơn 20%.. Nếu phân theo trình độ, số lượng cán bộ có trình độ trên đại học còn nhỏ, số cán bộ chưa có trình độ đại học là khá lớn . Đội ngũ cán bộ trẻ còn thiếu kinh nghiệm, trình độ cán bộ như trên cũng là một trong những nguyên nhân khó khăn trong việc thúc đẩy xuất khẩu nông sản.
Nguồn vốn cuả công ty còn hạn chế gây khó khăn trong công tác thu mua hàng để xuất khẩu . Đây cũng chính là khó khăn chung của các doanh nghiệp xuất khẩu trong cả nước.
Ngoài ra cơ chế chính sách của nhà nước kh ổn định, chưa nhất quán cũng tác động đến hoạt động của công ty. Cơ chế phân bổ hạn ngạch trước đây của nhà nước đã gây tâm lý không ổn định cho công ty
Chương III.
Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu
hàng nông sản của công ty HAPROSIMEX Sài Gòn
Định hướng xuất khẩu nông sản của việt nam trong
những năm tới
Thấy được tầm quan trọng của việc xuất khẩu hàng nông sản nên Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chủ trương, chính sách kinh tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản như.
- Nhà nước có chủ trương khuyến khích xuất khẩu hàng có hàm lượng tinh tớn hay nói cách khác xuất khẩu hàng hoá từ nguyên liệu thô sang hàng hoá chế biến có chứa hàm lượng lao động kỹ thuật cao, có giá trị lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế. Do vậy doanh nghiệp làm xuất nhập khẩu cần tranh thủ mọi nguồn vốn, đầu tư xây dựng cơ bản, trang thiết bị máy móc hiện đại, đây truyền công nghệ phù hợp để tạo ra những sản phẩm tốt, có giá trị cao để cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
- Đối với thị trường xuất khẩu ta chủ trương lấy thị trường EU, Braxin, Mexico, Nhật Bản, Singapo, ấn độ, ASEAN, Trung Quốc, Mỹ làm thị trường xuất khẩu chính. Ngoài ra, các công ty cần phải không ngừng mở rộng thị trường, tiến hành hợp tác liên doanh với các công ty nước ngoài về sản xuất, chế biến hàng nông sản, để có hàng chất lượng cao, mẫu mã phong phú. Từ đó, Công ty học hỏi thêm được kinh nghiệm kinh doanh, tiếp thu được những công nghệ tiên tiến.
- Nhà nước cùng các doanh nghiệp tham gia vào việc tìm kiếm thị trường nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu, đồng thời Nhà nước cũng khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào lĩnh vực sản xuất, chế biến hàng nông sản. Các doanh nghiệp này phát triển sẽ thu hút được nhiều lao động, giải quyết việ làm đáng kể cho người lao động, góp phần cùng Nhà nước giải quyết nạn thất nghiệp.
Vấn đề lúc này là phương thức huy động vốn, trên cơ sở phát huy hết khả năng của tất cả các thành phần kinh tế băng nhiều hình thức, kết hợp với các nhà đầu tư trong và ngoài nước để xây dựng ngành nông nghiệp và chế biến thực phẩm Việt Nam có trình độ công nghiệp hiện đại ngang tầm với các nước trong khu vực, phù hợp với chủ trương kêt hợp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước của Đảng và Nhà nước.
II. Phương hướng hoạt động xuất khẩu nông sản Của công ty trong những năm tới
Trong chiến lược phát triển công ty vẫn xem măt hàng nông sản là mặt hàng xuất khẩu chủ lực bên cạnh những mặt hàng xuất khẩu khác.
ở trong nước, công ty tăng cường hoạt động thu mua, khai thác tối đa nguồn lực ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam nhằm đảm bảo hàng xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước. Công ty sẽ cố gắng nâng cao chất lượng sản phẩm, giành ưu thế trên thị trường.
ở nước ngoài công ty sẽ tăng cường các hoạt động Marketing hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu nông sản như: tuyên truyền, quảng cáo, chủ động tìm kiếm khách hàng thông qua các chuyến đưa cán bộ đi khảo sát thị trường nước ngoài và mở rộng thị trường. Chiến lược thị trường của công ty trong những năm tới là phải mở rộng sang các thị trường mới tiềm năng như: Mỹ, Trung Đông, Đông Âu ... trên cơ sở duy trì các bạn hàng truyền thống như Singapo, Indonexia, Malaixia, ấn độ... Để thực hiện được chiến lược trên đòi hỏi toàn công ty cũng như từng cán bộ phải có năng lực thực sự, nhiệt tình tận tuỵ với công việc mới có thể giúp công ty đi lên đúng hướng chiến lược đề ra
III. Những cơ hội và thách thức đối với việc thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty haprosimex
1. Cơ hội đối với Công ty
Mỗi Công ty xuất nhập khẩu đều nhất thiết phải tìm ra được những cơ hội thị trường mới. Với Công ty HAPROSIMEX SAI GON cũng vậy, Công ty không thể trông dựa vào sản phẩm và thị trường hiện có của mình mãi được.
Năm 1986 đến năm 2002 là những năm mà Việt Nam đạt được những thắng lợi lớn trong quan hệ ngoại giao với Mỹ, ASEAN, EU và APEC tạo ra những tiềm năng mới trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nước. Đây là cơ hội mới song cũng chính là những thách thức mới đối với doanh nghiệp của Việt Nam nói chung và của Công Ty HAPROSIMEX SAI GON nói riêng, do phải theo kịp những cải cách về chính sách quản lý kinh tế trong điều kiện mới, phải tự vươn lên về kỹ thuật nghiệp vụ cho phù hợp với những đối tác thực sự “có nghề”, có vốn và có cả những Công ty “lừa đảo” lợi dụng sự non kém thiếu thông tin của ta.
Trong những năm gần đây Nhà nước đã có sự quan tâm đặc biệt tới thúc đẩy xuất khẩu nông sản, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu như cung cấp các khoản tín dụng ưu đãi giành cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, cơ chế thưởng xuất khẩu đối với những doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu cao...
2. Những thách thức của Công ty
Những năm gần đây do Nhà nước khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho kinh doanh xuất nhập khẩu đã thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia trực tiếp xuất khẩu làm cho thị trường xuất khẩu bị cạnh tranh gay gắt không chỉ diễn ra ở thị trường xuất khẩu mà ở cả thị trường các nhà cung cấp
Tình hình kinh doanh trong nước đã vậy, tình hình thị trường thế giới cũng có nhiều biến động đó là những biến động lớn về chính trị, kinh tế đặc biệt là sự phức tạp ở khu vực Trung Đông- nơi mà công ty có nhiều bạn hàng mới, giá mặt hàng nông sản luôn có sự biến động hết sức phức tạp. Điều này dẫn tới Công ty phải đương đầu với hai khó khăn: Một là do các nước nói trên chuyển sang cơ chế thị trường, bắt đầu nhập hàng hóa theo nhu cầu của người tiêu dùng chứ không căn cứ vào kế hoạch của Nhà nước nên Công ty khó có thể đặt ra những hy vọng và nỗ lực lớn vào việc khai thác thị trường này trong ngắn hạn được. Hai là đối với những thị trường các nước TBCN mà lâu nay Công ty hoạt động ít bị cạnh tranh nay trở thành khu vực có sự cạnh tranh gay gắt. Đây thực sự là những khó khăn đối với Công ty HAPROSIMEX SAI GON.
IV. Một số giải pháp và kiến nghị để thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty Haprosimex
Giải pháp đối với công ty
Trong thời gian qua hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của công ty HAPROSIMEX SAI GON đã đạt được một số thành tựu đáng kể tuy nhiên cũng còn không ít tồn tại. Những tồn tại này có thể bị tác động bởi các yếu tố chủ quan xuất phát từ phía công ty mà công ty hoàn toàn có thể điều chỉnh được song cũng có thể nó bị tác động bởi một vài yếu tố khách quan. Sau đây em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị đối với công ty HAPROSIMEX SAI GON và đối với nhà nước để góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản ở công ty .
Tổ chức tốt công tác thu thập, xử lý thông tin và xúc tiến thương mại.
Mặc dù công tác thu thập, xử lý thông tin và xúc tiến thương mại của công ty tương đối hiệu qủa song công ty nên đẩy mạnh hơn nữa những công tác này
Xúc tiến các hoạt động mở văn phòng giao dịch tại những khu vực thị trường trọng điểm của công ty, tăng cường các hoạt động quảng cáo, khuếch trương, và tuyên truyền thế mạnh của công ty thông qua báo chí, phim ảnh,...cải tiến hình thức quảng cáo sản phẩm để phù hợp với từng nước.
Tích cực tham gia các hội chợ triển lãm được tổ chức trong và ngoài nước. Đây là một cơ hội tốt cho công ty nâng cao uy tín, trao đổi thông tin, nắm bắt nhu cầu thị trường, chào hàng và tìm đối tác kinh doanh.
Quan hệ với các nhà phân phối lớn, có uy tín để lợi dụng uy tín của họ nâng cao uy tín hàng nông sản của công ty. Đồng thời đưa hàng nông sản của công ty vào kênh phân phối của họ qua đó nâng cao khả năng xâm nhập thị trường.
Tạo điều kiện để các cán bộ làm công tác thị trường tiếp xúc với thị trường trong và ngoài nước. Từ đó nâng cao khả năng phân tích, phán đoán, xử lý thông tin và đưa ra các giải pháp thích hợp nhằm ứng phó trước những biến động của thị trường.
Tranh thủ triệt để cơ hội tiếp xúc, thu thập thị trường từ các tổ chức kinh tế, thương nhân nước ngoài đến thăm và tìm kiếm cơ hội kinh doanh tại Việt Nam. Thời gian gần đây, nước ta đã đón rất nhiều tổ chức kinh tế nước ngoài, các thương nhân đến thăm và tìm kiếm cơ hội làm ăn tại Việt Nam. Công ty cần tranh thủ thu thập thông tin, tiếp xúc với các doanh nhân để chọn cho mình hướng kinh doanh thích hợp. Thực tiễn cho thấy các năm qua, qua các cuộc viếng thăm, công ty đã ký kết được những hợp đồng xuất khẩu hàng với khối lượng lớn.
Đa dạng hoá mặt hàng, mở rộng thị trường xuất khẩu bên cạnh việc duy trì những mặt hàng xuất khẩu truyền thống tại các thị trường truyền thống.
Các nước thuộc ASEAN là những thị trường truyền thống tiêu thụ sản phẩm công ty. Do vậy trong thời gian tới khu vực này vẫn nên được xem là thị trường trọng điểm của công ty.
Ngoài ra trong sự biến động mạnh mẽ của tình hình cung cầu một số mặt hàng nông sản trên thế giới như hiện nay, để hạn chế rủi ro và tăng kim ngạch xuất khẩu thì việc đa dạng hoá mặt hàng và mở rộng thị trường xuất khẩu đối với công ty là thực sự cần thiết. Những thị trường mà công ty cần đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa trong tương lai là: thị trường EU, thị trường Nhật Bản, thị trường Mỹ, thị trường Đông Âu. Đây là những thị trường có nhu cầu tiêu thụ hàng nông sản lớn, có khả năng chi trả cao nhưng yêu cầu về chất lượng, mẫu mã bao bì hàng hóa cũng cao. Vì vậy, để thâm nhập vào những thị trường này buộc công ty phải cải tiến mẫu mã bao bì và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Tăng cường huy động các nguồn vốn để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hiện nay, vốn có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô sản xuất hàng hóa, chất lượng hàng hóa, đến công tác thu mua hàng hóa, đến quá trình nghiên cứu và tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hóa của bất kỳ một công ty nào. Đối với công ty HAPROSIMEX SAI GON cũng thế. Chính vì vậy trong thời gian tới để tăng thêm vốn phục vụ cho công tác kinh doanh, ngoài nguồn vốn của mình công ty phải huy động thêm từ các nguồn trong và ngoài nước. Cụ thể công ty có thể huy động từ các nguồn sau:
Vốn vay từ các ngân hàng.
Hiện nay việc vay vốn tại các ngân hàng đã thuận lợi hơn. Công ty có thể vay vốn ngắn hạn hoặc dài hạn với các mức lãi suất khác nhau. Tuy nhiên công ty cần phải tính toán xem nên vay như thế nào để phục vụ cho công tác kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Hoạt động thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty mang tính thời vụ nên công ty nên vay các nguồn vốn ngắn và trung hạn. Tuy nhiên trong thời gian tới, trước những yêu cầu là phải tiến hành đầu tư xây dựng các cơ cở bảo quản, chế biến, liên doanh liên kết để sản xuất hàng hóa thì công ty nên vay vốn dài hạn với lãi suất thấp.
Huy động vốn từ cán bộ công nhân viên trong công ty.
Hiện nay lượng vốn nhàn rỗi trong lực lượng lao động này là khá lớn. Sử dụng nguồn vốn này công ty có thể phải trả lãi suất cao hơn một chút nhưng lại thu được lợi về nhiều mặt. Thời hạn thanh toán nợ cho các cán bộ công nhân viên không bị khắt khe như tại các ngân hàng, công ty có thể chủ động hơn trong kinh doanh. Hơn thế nữa với hình thức vay vốn này công ty có thể huy động được một cách tối đa năng lực và lòng nhiệt của cán bộ công nhân viên.
Huy động vốn từ chính lợi nhuận tích luỹ được của công ty.
Đây là nguồn vốn cơ bản lâu dài để mở rộng phạm vi kinh doanh của công ty.
Ngoài việc huy động vốn từ các nguồn trong nước thì vay vốn nước ngoài cũng là giải pháp quan trọng và có hiệu quả mà công ty cần lưu ý. Nguồn vốn có ưu điểm lớn nhưng huy động lại khó vì các chủ hàng nước ngoaì thường đòi hỏi công ty phải có những tài sản đáng tin cậy như tài sản thế chấp, tình hình sản xuất và xuất khẩu của công ty.
Tận dụng nguồn vốn của các bạn hàng thông qua thanh toán trả chậm hoặc xin ứng trước vốn trước khi xuất hàng. Hình thức này thường chỉ được thực hiện khi công ty xuất hoặc nhập khẩu một số lượng lớn hàng hóa và là bạn hàng quen thuộc của họ. Một điều quan trọng nữa ở phương thức này mà công ty cũng phải thực hiện được là chữ “tín” trong kinh doanh. Tức là công ty phải thanh toán đủ tiền hàng cho nhà xuất khẩu khi đã đến thời hạn thanh toán.
Khi đã huy động được vốn, vấn đề tiếp theo mà công ty cần quan tâm là làm thế nào để sử dụng nguồn vốn này một cách có hiệu quả. Muốn vậy công ty cần phải thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu, phải có biện pháp quản lý nguồn vốn một cách có hiệu quả. Vốn của công ty phải được tập trung vào những dự án mang tính khả thi cao. Đặc biệt, công ty phải dần dần giảm bớt kinh doanh những mặt hàng thô có khối lượng lớn nhưng trị giá kinh tế không lớn, lợi nhuận thu được không cao để dần chuyển sang kinh doanh mặt hàng tinh có giá trị kinh tế cao và có sức cạnh tranh lớn.
Thực hiện tốt hơn công tác thu mua hàng nông sản xuất khẩu
Công ty cần xây dựng mối quan hệ tốt hơn với các địa phương sản xuất hàng xuất khẩu của công ty. Khi đó, quá trình thu mua của công ty sẽ thuận lợi hơn, khối lượng thu mua được sẽ nhiều hơn. Muốn xây dựng được mối quan hệ tốt này, công ty nên tiến hành các công việc như: Gặp gỡ các đại biểu ở các địa phương ngay từ đầu vụ sản xuất để trao đổi, bàn bạc và ký hợp đồng, hỗ trợ một phần cho sản xuất như hỗ trợ vốn, hỗ trợ phân bón..
Công ty cần đưa ra những biện pháp để khuyến khích hoạt động thu mua có hiệu quả như: Quy định một tỷ lệ hoa hồng mà cán bộ thu mua được hưởng nếu khối lượng mua được lớn, chất lượng đảm bảo. Đồng thời xử lý nghiêm túc đối với những trường hợp gian lận, tráo hàng làm giảm chất lượng và uy tín hàng xuất khẩu của công ty.
Cải tiến công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm khi thu mua. Hoạt động kiểm tra chất lượng sản phẩm khi thu mua sẽ quyết định cơ bản đến chất lượng hàng xuất khẩu của công ty.
Nâng cao trình độ chuyên môn cho CBCNV.
Bất kỳ một công ty nào dù có vốn lớn, có trang thiết bị hiện đại, mà nguồn nhân lực không đảm bảo cho yêu cầu sản xuất, quản lý, kinh doanh thì công ty đó cũng không thể phát triển được bởi con người là chủ thể quyết định sự thành công hay thất bại của công ty. Do vậy, để tồn tại và phát triển thì buộc mỗi công ty phải chăm lo đào tạo và phát triển nguồn nhân lực một cách thường xuyên, liên tục. Sau đây là một số giải pháp để nâng cao năng lực chuên môn của cán bộ công nhân viên:
Mở các lớp học, khoá học đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ các phòng ban, có chế độ bồi dưỡng khuyến khích cán bộ theo học.
Thường xuyên hoán đổi công tác của cán bộ giữa 2 miền Nam - Bắc để tích luỹ thêm kinh nghiệm
Đào tạo đội ngũ nhân viên kỹ thuật làm nhiệm vụ giám định hàng hóa.
Bố trí để các nhân viên trẻ, có năng lực, năng động nhưng còn thiếu kinh nghiệm trong công ty cùng làm việc với những nhân viên lớn tuổi và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn để các nhân viên trẻ học hỏi thêm kinh nghiệm.
Có được đội ngũ lao động tốt là điều kiện cần đối với bất kỳ một công ty nào. Tuy nhiên để đội ngũ lao động này làm việc một cách có hiệu qủa, trung thành với công ty thì công ty cần phải có chế độ khen thưởng hợp lý, xử phạt nghiêm minh đối với những trường hợp làm tổn hại đến toàn công ty. Ngoài ra công ty cần cất nhắc những cá nhân làm việc có hiệu quả lên những vị trí cao nhằm nêu gương, tạo động lực cho những cá nhân khác.
Kiến nghị với Nhà nước
Tăng cường hỗ trợ các hoạt động sản xuất và chế biến hàng nông sản.
Hoạt động sản xuất và chế biến các mặt hàng nông sản chính là khâu tạo ra hàng cho xuất khẩu. Nó có ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu và chất lượng hàng xuất khẩu. Trong thời gian qua, nhà nước đã có quan tâm đến các hoạt động sản xuất và chế biến hàng nông sản nhưng chưa nhiều nên chất lượng hàng nông sản của Việt Nam nói chung và của công ty HAPROSIMEX SAI GON nói riêng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cao của những thị trường khó tính nhưng có khả năng chi trả lớn. Do vậy hiệu quả từ hoạt động xuất khẩu hàng nông sản vẫn chưa cao. Vì vậy trong thời gian tới, nhà nước cần tăng cường hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất và chế hàng nông sản để tạo ra các sản phẩm có hàm lượng giá trị cao, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Các biện pháp tiến hành bao gồm:
Hỗ trợ vốn ban đầu cho nông dân.
Hỗ trợ về giống, phổ biến kiến thức cho người nông dân.
Tổ chức tốt công tác thu mua nông sản cho nông dân
Đầu tư mạnh cho phát triển công nghiệp chế biến hàng nông sản.
Đổi mới và hoàn thiện chính sách hỗ trợ xuất khẩu nông sản
Tín dụng xuất khẩu: thủ tục để xin được vay ưu đãi quỹ hỗ trợ xuất khẩu hiện nay còn rườm rà, có thể mất cơ hội . Vì vậy Nhà nước nên đơn giản hoá những thủ tục này để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được những nguồn vốn lớn
Chính sách bảo hiểm xuất khẩu nông sản: xuất khẩu nông sản có tính rủi ro cao vì nó không những phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên của khâu sản xuất mà còn phụ thuộc vào thị trường. Việc bảo hiểm tiêu thụ nông sản là hết sức cần thiết
Cần phát huy hơn nữa vai trò của các cơ quan thương vụ xúc tiến thương mại
Nhanh chóng ban hành các quy chế thông thoáng hơn nữa cho các doanh nghiệp và hiệp hội về việc lập các cơ quan đại diện và chi nhánh ở nước ngoài, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực tiếp thị chủ động thâm nhập vào thị trường nước ngoài, tạo lập và phát triển các quan hệ bạn hàng lâu dài
Kết luận
MụC LụC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0498.doc