Những vấn đề phải chứng minh tại điều 417 dự thảo sửa đổi bộ luật tố tụng hình sự

Theo Điều 311 Bộ luật TTHS hiện hành và Điều 416 Dự thảo Bộ luật TTHS (sửa đổi) thì việc quyết định vấn đề năng lực trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người thực hiện HVNH thuộc thẩm quyền của Viện Kiểm sát hoặc Tòa án tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng cụ thể. Tuy nhiên, để Viện Kiểm sát hoặc Tòa án thực hiện được quyền năng của mình theo quy định của pháp luật thì trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra cần phải tiến hành điều tra thu thập chứng cứ, chứng minh “ai là người thực hiện HVNH và người đó có căn cứ cho rằng mắc BTT hoặc một bệnh lý khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hay không; người bệnh khi thực hiện HVNH có tình trạng tâm thần và loại BTT gì; người đã thực hiện HVNH có mất đi khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình trong khi thực hiện tội phạm hay không; tính chất và mức độ thiệt hại do HVNH gây ra v.v.”8 Căn cứ vào kết quả điều tra, kết luận giám định pháp y tâm thần và hồ sơ vụ án, Viện Kiểm sát hoặc Tòa án mới có cơ sở để quyết định vấn đề năng lực trách nhiệm hình sự và quyết định áp dụng hay không áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người thực hiện HVNH. Nghiên cứu quy định tương ứng trong pháp luật TTHS một số nước, đặc biệt là trong pháp luật TTHS Liên bang Nga cho thấy, bên cạnh việc quy định những tình tiết phải chứng minh như pháp luật TTHS của nước ta, pháp luật TTHS Liên bang Nga còn quy định thêm khi giải quyết vụ án hình sự do người bị bệnh lý làm rối loạn tâm thần gây ra thì cơ quan có thẩm quyền phải chứng minh, làm rõ các tình tiết về thời gian, địa điểm, phương pháp và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi nguy hiểm gây ra; thời điểm mắc bệnh của người có HVNH; dự báo tình huống nguy hiểm mới để có biện pháp bảo vệ hoặc phòng ngừa đối với họ9.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 172 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề phải chứng minh tại điều 417 dự thảo sửa đổi bộ luật tố tụng hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHÛÄNG VÊËN ÀÏÌ PHAÃI CHÛÁNG MINH TAÅI ÀIÏÌU 417 DÛÅ THAÃO SÛÃA ÀÖËI BÖÅ LUÊÅT TÖË TUÅNG HÒNH SÛÅ VŨ XUÂN THAO* 1. Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự do người bị mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thực hiện Khoản 1 Điều 13 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 quy định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm (HVNH) cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần (BTT) hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự, đối với người này phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh”1. Tuy nhiên, theo Điều 311 Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) hiện hành thì chỉ có Viện Kiểm sát hoặc Tòa án mới có thẩm quyền quyết định vấn đề năng lực trách nhiệm hình sự của người có HVNH2. Vì vậy, khi người thực hiện HVNH có dấu hiệu bị BTT hoặc bệnh khác làm rối loạn tâm thần (kể cả trong trường hợp biết rõ người thực hiện HVNH là người mất khả năng nhận thức, hoặc khả năng điều khiển hành vi do mắc BTT hoặc bệnh khác), thì Cơ quan điều tra vẫn phải khởi tố vụ án hình sự để tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật. Khi giải quyết vụ án hình sự, việc chứng minh người thực hiện HVNH có bị mắc BTT hoặc bệnh lý khác làm mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi hay không, không chỉ có ý nghĩa trong việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định trách nhiệm hình sự của người đã thực hiện HVNH; xác định phương hướng điều tra, thu thập chứng cứ để giải quyết đúng đắn vụ án Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc kết luận người thực hiện HVNH có mắc BTT hoặc bệnh khác làm rối loạn tâm thần hay không, người bệnh có mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi hay không thuộc thẩm quyền của Hội đồng giám định pháp y tâm thần. Vì vậy, trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ của vụ án, nếu có nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của bị can, hoặc có căn cứ cho rằng bị can mắc BTT hoặc bệnh lý khác ảnh hưởng đến khả năng 37NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 22 (302) T11/2015 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT * ThS. Bệnh viện Y học cổ truyền, Bộ Công an. 1 Xem: BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2009, tr. 46. 2 Xem: GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật TTHS, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2012, tr. 680. nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của họ, thì sau khi xác định được HVNH và người đã thực hiện HVNH, Cơ quan điều tra cần phải trưng cầu giám định pháp y tâm thần theo quy định để kết luận người đã thực hiện HVNH có bị mắc BTT hoặc bệnh khác làm rối loạn tâm thần hay không, người bệnh có mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi hay không. Căn cứ kết luận giám định của Hội đồng giám định pháp y, nếu người thực hiện HVNH không bị mắc BTT hoặc bệnh khác làm mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức, hoặc khả năng điều khiển hành vi thì việc điều tra, thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án được thực hiện như các vụ án thông thường khác (chứng minh các nhóm tình tiết làm căn cứ để xác định tội phạm, các nhóm tình tiết làm căn cứ để xử lý người phạm tội và nhóm tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết toàn bộ vụ án hình sự đúng đắn, khách quan, đúng quy định của pháp luật). Nếu người thực hiện HVNH bị mắc BTT hoặc bệnh khác làm mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì Cơ quan điều tra phải chứng minh các tình tiết sau: - Chứng minh thời điểm mắc bệnh của người thực hiện HVNH. Nếu kết quả giám định pháp y cho thấy người thực hiện HVNH mắc BTT hoặc bệnh khác ảnh hưởng đến khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì Cơ quan điều tra cần phải chứng minh, làm rõ người thực hiện HVNH bị mắc bệnh khi nào? Trước, tại thời điểm hay sau khi thực hiện hành vi? Việc chứng minh tình tiết này có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định trách nhiệm hình sự của người đã thực hiện HVNH và việc ra quyết định của Cơ quan điều tra trong quá trình điều tra giải quyết vụ án. Bởi vì: + Trường hợp người thực hiện HVNH mắc bệnh sau khi thực hiện hành vi thì sẽ xảy ra một trong hai khả năng sau: (i) Nếu bệnh mà người đó mắc không ảnh hưởng hoặc chỉ hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người thực hiện HVNH thì Cơ quan điều tra phải tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án như các vụ án thông thường khác. Đối với người bệnh mà tình trạng bệnh làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã thực hiện nhưng được xét hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm n, khoản 1 Điều 46 BLHS hiện hành; (ii) Nếu người thực hiện HVNH mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003, Cơ quan điều tra phải đề nghị Viện Kiểm sát cùng cấp ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với bị can và ra quyết định tạm đình chỉ điều tra đối với bị can nếu như Viện Kiểm sát ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với họ. Trong quá trình áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh nếu bị can khỏi bệnh thì theo khoản 2 Điều 13 BLHS hiện hành, người thực hiện HVNH có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà họ đã thực hiện. + Trường hợp người thực hiện HVNH bị mắc bệnh trước hoặc tại thời điểm thực hiện hành vi thì Cơ quan điều tra phải chứng minh, làm rõ tại thời điểm thực hiện hành vi, người thực hiện HVNH có mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi hay không. Ở trường hợp này sẽ xảy ra một trong hai khả năng sau: (i) Nếu tại thời điểm thực hiện hành vi, tình trạng bệnh làm cho người thực hiện HVNH mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì theo quy định tại khoản 1 Điều 13 BLHS hiện hành, người thực hiện HVNH không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã thực hiện. Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003, Cơ quan điều tra phải đề nghị 38 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 22 (302) T11/2015 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT Viện Kiểm sát cùng cấp ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người đã có HVNH, nếu Viện Kiểm sát ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với bị can thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can; (ii) Nếu tại thời điểm thực hiện hành vi, tình trạng bệnh không ảnh hưởng hoặc chỉ làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người thực hiện HVNH thì Cơ quan điều tra phải điều tra, thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án như các vụ án thông thường khác vì người thực hiện HVNH vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã thực hiện. Người thực hiện HVNH được xét hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 46 BLHS hiện hành nếu như họ bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Từ sự phân tích như trên cho thấy, để xác định đúng đắn trách nhiệm hình sự của người thực hiện HVNH thì đối với những người bị mắc bệnh trước hoặc tại thời điểm thực hiện hành vi, Cơ quan điều tra phải chứng minh tại thời điểm thực hiện hành vi, người thực hiện HVNH có mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi hay không. - Chứng minh tại thời điểm thực hiện hành vi, người thực hiện HVNH có mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi hay không Theo khoản 1 Điều 13 BLHS hiện hành thì người thực hiện HVNH không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mình đã thực hiện nếu tại thời điểm thực hiện hành vi, người thực hiện hành vi có đồng thời hai điều kiện sau: Một là, đang mắc BTT hoặc bệnh khác làm rối loạn tâm thần. Hai là, mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Việc chứng minh thời điểm mắc bệnh của người thực hiện HVNH sẽ là căn cứ để xác định điều kiện thứ nhất. Chứng minh tại thời điểm thực hiện hành vi, người thực hiện HVNH có mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi hay không sẽ là cơ sở để xác định điều kiện thứ hai. Để chứng minh tình tiết này, trước hết cần phải phân biệt BTT và bệnh khác (không phải là BTT nhưng cũng làm rối loạn hoạt động tâm thần) ảnh hưởng đến khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người bệnh. Các BTT thường gặp là: trầm cảm, tâm thần phân liệt, bệnh mất trí, bệnh tâm lý, các rối loạn tăng động ở trẻ em, ảo giác, hoang tưởng và ở những mức độ nhất định các BTT đều gây ra các rối loạn tâm thần và hành vi cho người bệnh3. Ngoài BTT thì các bệnh khác như: trạng thái đi khi đang ngủ, lú lẫn sau chấn thương sọ não hoặc lú lẫn sau cơn động kinh, các bệnh về thần kinh có thể hạn chế hoặc làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người bệnh. Điều này đã được y học nghiên cứu và khẳng định: “trạng thái đi khi đang ngủ, lú lẫn sau chấn thương sọ não hoặc lú lẫn sau cơn động kinh, tội phạm mắc phải trong các trạng thái trên có thể được lợi từ việc tuyên án là hành động vô thức song không phải là người điên (BTT), có nghĩa là sự tuyên bố trắng án”4. Các tài liệu nghiên cứu về y học nêu trên cho thấy BTT có nguồn gốc và biểu hiện phức tạp, đa dạng. Ngoài BTT thì một số bệnh khác như lú lẫn sau chấn thương sọ não, lú lẫn sau cơn động kinh hoặc các bệnh về thần kinh ít hay nhiều đều gây ra các rối loạn về tâm thần và hành vi của người bệnh. Nhưng BTT và các bệnh lý nêu trên không 39NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 22 (302) T11/2015 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 3 Xem: Tổ chức Y tế thế giới (1992), Phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và hành vi, (Nhóm tác giả dịch, GS Nguyễn Việt hiệu đính), Viện Sức khỏe tâm thần - Bệnh viện Tâm thần Trung ương, Hà Nội. 4 Xem: Sidney Bloch và Bruce S.Singh (2003), Cơ sở của lâm sàng tâm thần học, Nxb. Y học, Hà Nội, tr. 427. phải lúc nào và bệnh nào cũng làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người bệnh mà khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người bệnh phụ thuộc vào bệnh người đó bị mắc là bệnh gì, mức độ bệnh như thế nào, bệnh đang ở giai đoạn nào v.v.. Điều này đã được khẳng định trong Phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và hành vi của Tổ chức Y tế thế giới: “Trong một môi trường văn hóa xã hội ít đòi hỏi kết quả học tập, một số mức độ chậm phát triển tâm thần nhẹ bản thân nó có thể không gây ra vấn đề gì”5. Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành, việc kết luận người thực hiện HVNH bị mắc bệnh hay không, nếu mắc bệnh thì bệnh đó là bệnh gì, bệnh đang ở giai đoạn nào, khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người bệnh ra sao thuộc chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan giám định tâm thần pháp y và kết luận này chỉ có ý nghĩa chính xác, sát thực tại thời điểm người thực hiện hành vi được giám định. Một tài liệu nghiên cứu về bệnh học tâm thần đã viết: “Trong các trường hợp phạm tội có bệnh lý rối loạn tâm thần và phạm tội một cách vô thức, các bác sĩ tâm thần có thể được yêu cầu để cho ý kiến: Trạng thái tâm thần cụ thể của bị cáo ra sao tại thời điểm phạm tội, có thể có ảnh hưởng ra sao tới năng lực bị cáo khi tạo ra một chủ ý phạm tội”6. Trên thực tế, việc trưng cầu giám định pháp y thường được tiến hành sau khi HVNH được thực hiện nên việc kết luận của Cơ quan giám định pháp y về tình trạng bệnh và tâm thần cũng như khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người thực hiện hành vi cho xã hội tại thời điểm thực hiện hành vi cũng chỉ mang tính chất tương đối. Vì vậy, để xác định chính xác tại thời điểm thực hiện hành vi, người thực hiện HVNH có bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi hay không thì bên cạnh việc căn cứ vào kết luận giám định pháp y tâm thần, Cơ quan điều tra cần phải căn cứ vào các biểu hiện khách quan (như hoạt động, di chuyển, cách ăn mặc, thái độ, lời nói và các hành động khác v.v..) của họ xung quanh thời điểm thực hiện hành vi và trong quá trình điều tra để đánh giá, kết luận về khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người thực hiện HVNH. Tại thời điểm thực hiện hành vi, nếu người thực hiện HVNH không bị mất mà chỉ bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã thực hiện, nhưng được xét hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 46 BLHS hiện hành. Nếu tại thời điểm thực hiện hành vi, người thực hiện HVNH bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì người thực hiện HVNH không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mình đã thực hiện, trong trường hợp này Cơ quan điều tra đề nghị Viện Kiểm sát cùng cấp ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người đã có HVNH, nếu Viện Kiểm sát ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với bị can thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can. - Chứng minh tình trạng bệnh và tâm thần của họ có liên quan đến sự nguy hiểm cho bản thân họ, cho những người xung quanh hoặc có thể gây nên những thiệt hại khác cho xã hội hay không. Trong trường hợp người thực hiện HVNH bị mắc BTT hoặc bệnh lý khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì Cơ quan điều tra cần phải 40 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 22 (302) T11/2015 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 5 Xem: tldđ, tr. 217. 6 Xem: Sidney Bloch và Bruce S.Singh (2003), Cơ sở của lâm sàng tâm thần học, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 426. chứng minh tình trạng bệnh và tâm thần của họ có liên quan đến sự nguy hiểm cho bản thân họ, hoặc có thể gây nên các thiệt hại khác cho cộng đồng hay không. Việc chứng minh tình tiết này thực chất nhằm bảo vệ người có HVNH, đồng thời còn nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn chặn họ thực hiện hành vi nguy hiểm mới. Bởi vì, nếu tình trạng bệnh làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì họ có thể gây nên những nguy hiểm cho chính bản thân họ (rơi từ trên cao xuống, ngã xuống ao hồ, lao vào phương tiện giao thông), hoặc họ bị tấn công lại từ các nguồn nguy hiểm khác (bị người khác đánh đập, sát hại), hoặc cũng có thể họ sẽ gây nên những nguy hiểm khác cho những người xung quanh, hoặc gây ra các thiệt hại khác về vật chất cho xã hội. Vì vậy, cần phải chứng minh tình tiết này để thấy được có cần thiết phải áp dụng biện pháp bảo vệ đối với họ hay không hoặc có cần áp dụng biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi nguy hiểm mới mà họ có thể gây ra hay không. 2. Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự tại Điều 417 Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) Đối chiếu Điều 312 Bộ luật TTHS hiện hành cho thấy, Điều 417 Dự thảo Bộ luật TTHS được bổ sung, sửa đổi tương đối nhiều7. Một là, sửa đổi khoản 2 với nội dung: Khi tiến hành tố tụng, Cơ quan điều tra phải bảo đảm có người bào chữa tham gia tố tụng từ khi xác định được người thực hiện HVNH mắc bệnh khác (không phải là BTT) làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi. Hai là, bổ sung mới khoản 3 và khoản 4 để phân định rõ ràng trách nhiệm giữa Cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát trong việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người có HVNH trong giai đoạn điều tra, đồng thời định hướng giải quyết cho Cơ quan điều tra khi Viện kiểm sát ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với bị can. Những sửa đổi, bổ sung nêu trên là căn cứ pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi cho bị can là người không có năng lực trách nhiệm hình sự khi họ thực hiện HVNH. Tuy nhiên, những tình tiết cần làm sáng tỏ tại khoản 1 của điều luật để xác định tại thời điểm thực hiện hành vi, người thực hiện HVNH có năng lực trách nhiệm hình sự hay không hoặc năng lực trách nhiệm của họ có hạn chế hay không lại chưa được bổ sung, sửa đổi. Từ lý luận chung về những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự do người bị hạn chế hoặc mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi thực hiện cho thấy, khoản 1 Điều 417 Dự thảo Bộ luật TTHS (sửa đổi) còn một số hạn chế sau: - Thứ nhất, chưa quy định việc chứng minh bệnh khác (không phải BTT) mà bệnh đó cũng có thể làm mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người thực hiện HVNH. - Thứ hai, chưa quy định việc chứng minh thời điểm mắc bệnh của người thực hiện HVNH. - Thứ ba, chưa quy định việc chứng minh tại thời điểm thực hiện hành vi, người thực hiện HVNH có mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi hay không. - Thứ tư, chưa quy định việc chứng minh tình trạng bệnh và tâm thần của họ có liên quan đến sự nguy hiểm cho bản thân họ, cho những người xung quanh hoặc có thể gây nên những thiệt hại khác cho xã hội hay không. 41NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 22 (302) T11/2015 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 7 Xem: Dự thảo Bộ luật TTHS (sửa đổi, bổ sung), 3. Kiến nghị bổ sung, hoàn thiện quy định về những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự tại Điều 417 Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) Theo Điều 311 Bộ luật TTHS hiện hành và Điều 416 Dự thảo Bộ luật TTHS (sửa đổi) thì việc quyết định vấn đề năng lực trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người thực hiện HVNH thuộc thẩm quyền của Viện Kiểm sát hoặc Tòa án tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng cụ thể. Tuy nhiên, để Viện Kiểm sát hoặc Tòa án thực hiện được quyền năng của mình theo quy định của pháp luật thì trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra cần phải tiến hành điều tra thu thập chứng cứ, chứng minh “ai là người thực hiện HVNH và người đó có căn cứ cho rằng mắc BTT hoặc một bệnh lý khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hay không; người bệnh khi thực hiện HVNH có tình trạng tâm thần và loại BTT gì; người đã thực hiện HVNH có mất đi khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình trong khi thực hiện tội phạm hay không; tính chất và mức độ thiệt hại do HVNH gây ra v.v..”8 Căn cứ vào kết quả điều tra, kết luận giám định pháp y tâm thần và hồ sơ vụ án, Viện Kiểm sát hoặc Tòa án mới có cơ sở để quyết định vấn đề năng lực trách nhiệm hình sự và quyết định áp dụng hay không áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người thực hiện HVNH. Nghiên cứu quy định tương ứng trong pháp luật TTHS một số nước, đặc biệt là trong pháp luật TTHS Liên bang Nga cho thấy, bên cạnh việc quy định những tình tiết phải chứng minh như pháp luật TTHS của nước ta, pháp luật TTHS Liên bang Nga còn quy định thêm khi giải quyết vụ án hình sự do người bị bệnh lý làm rối loạn tâm thần gây ra thì cơ quan có thẩm quyền phải chứng minh, làm rõ các tình tiết về thời gian, địa điểm, phương pháp và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi nguy hiểm gây ra; thời điểm mắc bệnh của người có HVNH; dự báo tình huống nguy hiểm mới để có biện pháp bảo vệ hoặc phòng ngừa đối với họ9. Trên cơ sở nhận thức lý luận về những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự do người bị mất hoặc bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thực hiện và trên cơ sở tham khảo quan điểm của một số chuyên gia trong lĩnh vực tư pháp hình sự trong nước, tham khảo kinh nghiệm lập pháp trong pháp luật TTHS nước ngoài về nội dung này, chúng tôi xin đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định về những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự tại Điều 417 Dự thảo Bộ luật TTHS (sửa đổi) như sau: Điều 417. Áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn điều tra 1. Đối với vụ án có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 416 của Bộ luật này, Cơ quan điều tra phải làm sáng tỏ: 1.1. HVNH đã xảy ra và ai là người thực hiện hành vi đó; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi đã thực hiện gây ra; và trưng cầu giám định pháp y tâm thần theo quy định tại khoản 1 Điều 416 Bộ luật này. 1.2. Kết quả giám định pháp y tâm thần kết luận người thực hiện HVNH mắc BTT hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi thì cần phải làm rõ những tình tiết sau: 42 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 22 (302) T11/2015 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 8 Xem: GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật TTHS, Sđd. tr. 680, 681. 9 Xem: Viện Khoa học kiểm sát – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ luật TTHS của nước Cộng hòa Liên bang Nga, (tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội, 2002, tr. 190. (Xem tiÕp trang 55)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhung_van_de_phai_chung_minh_tai_dieu_417_du_thao_sua_doi_bo.pdf