Một số kiến nghị hoàn thiện các quy
định về an toàn thực phẩm, kiểm dịch
động, thực vật trong khuôn khổ AEC và
các giải pháp thích ứng cho Việt Nam
Thứ nhất, AEC cần tiến tới xây dựng
một hiệp định chuyên biệt về các biện pháp
SPS để đảm bảo nghĩa vụ của các nước
thành viên được thực thi hiệu quả. Trong
thời gian qua, các nước ASEAN đã hướng
đến việc xây dựng khung pháp lý về ATTP
dựa trên mục tiêu chính: thiết lập và thực
hiện các biện pháp ATTP; đẩy nhanh quy
trình hội nhập về các biện pháp và quy trình
kiểm soát ATTP của các nước thành viên
ASEAN; trợ giúp nỗ lực của các nước thành
viên ASEAN trong việc tăng cường hệ
thống ATTP quốc gia20. Các quy định về
ATTP và kiểm dịch động, thực vật trong
khuôn khổ AEC tuy có sự tương thích và
phù hợp với khuôn khổ WTO nhưng còn
mang tính chất chung chung, chưa thật sự rõ
ràng và khó đảm bảo thực hiện trên thực tế.
Điều này có thể xuất phát từ bản chất của
AEC chủ yếu chỉ là sự liên kết, hợp tác giữa
các chính phủ trong ASEAN trong việc mở
cửa và tự do hóa nhiều hơn đối với thương
mại, đầu tư và di cư lao động trong nội khối.
Mặc dù được gọi với cái tên “Cộng đồng
kinh tế”, AEC thực chất chưa thể được coi
là một cộng đồng kinh tế gắn kết như Cộng
đồng châu Âu (EC) bởi AEC không có cơ
cấu tổ chức chặt chẽ và những điều lệ, quy
định có tính chất ràng buộc cao và rõ ràng
như EC21. Muốn đạt được mục tiêu “mở
cửa” và “tự do hóa” đòi hỏi AEC phải hoàn
thiện các quy định pháp lý cũng như xây
dựng một cơ chế hoàn chỉnh để thực thi các
cam kết của các quốc gia thành viên. Đối với
các tiêu chuẩn và quy định về biện pháp
SPS, các nước AEC có thể sử dụng các cam
kết trong khuôn khổ Hiệp định SPS của
WTO. Tuy nhiên, với những điều kiện đặc
thù của khu vực cùng với mục tiêu xây dựng
một cộng đồng kinh tế thống nhất, thiết nghĩ
AEC cần xây dựng một hiệp định quy định
về vấn đề ATTP và kiểm dịch động, thực vật
riêng của khu vực. Trong đó, cần có các quy
định cụ thể và rõ ràng về việc xác định các
biện pháp SPS được cho là phù hợp và cần
thiết mà không nhằm mục đích cản trở
thương mại; xác định rõ các tiêu chuẩn
chung trong việc áp dụng các biện pháp
SPS. Đặc biệt, cần thiết lập quy trình tham
vấn và giải quyết tranh chấp trong trường
hợp có quốc gia thành viên vi phạm nghĩa
vụ. Đương nhiên, việc xây dựng các quy
định này đòi hỏi phải có lộ trình và tham
khảo kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt là kinh
nghiệm của WTO.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 341 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề pháp lý và thực tiễn trong quy định về an toàn thực phẩm, kiểm dịch động, thực vật trong cộng đồng kinh tế Asean, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Các quy định về an toàn thực phẩm,
kiểm dịch động, thực vật trong khuôn
khổ Cộng đồng Kinh tế ASEAN
Trong thương mại quốc tế, các biện
pháp ATTP, kiểm dịch động, thực vật (hay
còn gọi là biện pháp vệ sinh dịch tễ) được
quy định khá chi tiết trong Hiệp định về Các
biện pháp Kiểm dịch động, thực vật (Agree-
ment on the Application of Sanitary and
Phytosanitary Measures - SPS) của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Theo đó, biện
pháp SPS được hiểu là bất cứ biện pháp nào
được áp dụng:
(i) Để bảo vệ sức khoẻ hay động, thực
vật trong phạm vi lãnh thổ của nước thành
viên khỏi các nguy hiểm nảy sinh từ khâu
nhập khẩu, từ sự hình thành và lây lan của
các côn trùng có hại, dịch bệnh, các sinh vật
mang bệnh hoặc các sinh vật gây bệnh.
26
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
NHÛÄNG VÊËN ÀÏÌ PHAÁP LYÁ VAÂ THÛÅC TIÏÎN TRONG QUY ÀÕNH VÏÌ AN TOAÂN
THÛÅC PHÊÍM, KIÏÍM DÕCH ÀÖÅNG, THÛÅC VÊÅT TRONG CÖÅNG ÀÖÌNG KINH TÏË ASEAN
Võ Trung Tín*
Ngô Gia Hoàng**
* ThS. Phó trưởng Bộ môn Luật Đất đai và Môi trường, Khoa Luật Thương mại, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
** GV. Khoa Luật Thương mại, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: an toàn thực
phẩm; kiểm dịch động, thực
vật.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 08/12/2016
Biên tập: 29/12/2016
Duyệt bài: 06/01/2017
Article Infomation:
Keywords: food safety;
quarantine of animals,
plants.
Article History:
Received: 08 Dec. 2016
Edited: 29 Dec. 2016
Approved: 06 Jan. 2017
Tóm tắt:
Bài viết phân tích các quy định về an toàn thực phẩm (ATTP) và kiểm dịch
động, thực vật trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC); đánh
giá tình hình thực thi các cam kết của Việt Nam khi áp dụng các biện pháp
ATTP, kiểm dịch động, thực vật; phân tích những thách thức của các quy
định ATTP, kiểm dịch động, thực vật đối với Việt Nam và kiến nghị một số
giải pháp để Việt Nam thực hiện tốt các cam kết của mình.
Abstract:
This article provides the analysis the regulations on food safety and
quarantine of animals, plants in the framework of the AEC; evaluation of
the implementation of Vietnam’s commitments upon the application of food
safety measures, quarantine of animals, plants; analyzes the challenges of
food safety, quarantine animals, plants regulations to Vietnam and proposes
some solutions for Vietnam to implement its commitments.
(ii) Để bảo vệ sức khoẻ, cuộc sống con
người, động, thực vật trong phạm vi lãnh thổ
của nước thành viên khỏi các nguy hiểm
phát sinh từ các chất phụ gia, chất gây ô
nhiễm, độc tố hay các sinh vật gây bệnh
trong đồ ăn, thức uống, thực phẩm.
(iii) Để bảo vệ sức khoẻ cuộc sống con
người, động, thực vật trong phạm vi lãnh thổ
của nước thành viên khỏi các nguy hiểm
phát sinh từ các dịch bệnh lây từ động, thực
vật và các sản phẩm của nó, hay từ khâu
nhập khẩu, từ sự hình thành và lây lan của
các loại côn trùng có hại 1.
Như vậy, có thể hiểu ngắn gọn, các
biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động, thực vật
là tất cả các quy định, điều kiện, yêu cầu bắt
buộc có tác động đến thương mại quốc tế
nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ của con
người, vật nuôi, động, thực vật thông qua
việc bảo đảm an toàn thực phẩm và/hoặc
ngăn chặn sự xâm nhập của các dịch bệnh
có nguồn gốc từ động, thực vật2. Theo pháp
luật của AEC, các quy định ATTP, kiểm dịch
động, thực vật là một nội dung quan trọng
thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định
Thương mại hàng hóa ASEAN (ASEAN
Trade in Goods Agreement - ATIGA)3. Với
mục tiêu nâng cao sức khỏe cây trồng và vật
nuôi cũng như chất lượng ATTP, các nước
thành viên AEC nhất trí tăng cường và phát
triển nội dung các quy định ATTP, kiểm dịch
động, thực vật trên cơ sở phù hợp với các
nguyên tắc và tiêu chuẩn trong Hiệp định
SPS của WTO. Hình thức của các biện pháp
SPS rất đa dạng, có thể là yêu cầu về chất
lượng, về bao bì, về quy trình đóng gói,
phương tiện và cách thức vận chuyển động,
thực vật, kiểm dịch, phương pháp lấy mẫu,
thống kê
Đối với mỗi quốc gia, việc áp dụng
các biện pháp ATTP, kiểm dịch động, thực
vật là nhu cầu cần thiết và chính đáng trong
việc bảo vệ tính mạng, sức khoẻ con người,
vật nuôi và động, thực vật. Việc áp dụng các
biện pháp cần thiết để bảo vệ cuộc sống
hoặc sức khỏe con người, động, thực vật
được coi là một ngoại lệ chung (Điều 8 Hiệp
định ATIGA), giúp các quốc gia thành viên
AEC thoát khỏi ràng buộc của cam kết mở
cửa thị trường. Tuy nhiên trên thực tế, các
biện pháp này đã bị nhiều quốc gia lạm
dụng, gây ra những cản trở bất hợp lý cho
thương mại quốc tế. Ví dụ nước nhập khẩu
đặt điều kiện, tiêu chuẩn quá cao khiến hàng
hoá nước ngoài khó có thể thâm nhập thị
trường nội địa. Nói cách khác, những biện
pháp này có thể trở thành những rào cản phi
thuế quan làm hạn chế xuất, nhập khẩu hàng
hóa trong thương mại quốc tế và khu vực.
Nhằm hạn chế sự tùy tiện của nước nhập
khẩu, những biện pháp này chỉ được áp
dụng khi thỏa mãn các nguyên tắc:
(i) không được áp dụng theo cách tạo
nên sự phân biệt đối xử không công bằng
hoặc bất bình đẳng giữa các quốc gia thành
viên trong cùng một điều kiện.
Không phân biệt đối xử giữa hàng hoá
nhập khẩu từ các nguồn khác nhau với nhau
(đãi ngộ tối huệ quốc MFN), giữa hàng nhập
khẩu và hàng nội địa (đãi ngộ quốc gia NT)
là một nguyên tắc trụ cột của thương mại
quốc tế. Đối với trường hợp các biện pháp
SPS, nguyên tắc này vẫn áp dụng nhưng
không hoàn toàn tuyệt đối. Nghĩa là Hiệp
định ATIGA không cấm các biện pháp SPS
phân biệt đối xử mà chỉ cấm các biện pháp
SPS tạo nên sự phân biệt đối xử không công
bằng hoặc bất bình đẳng giữa các quốc gia
thành viên trong cùng một điều kiện. Tuy
nhiên, hiểu như thế nào là “không công
bằng” hoặc “bất bình đẳng” và “trong cùng
27
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
1 Phụ lục A, Hiệp định SPS.
2 Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), “Các biện pháp kiểm dịch động, thực vật SPS”,
truy cập ngày 17/11/2016.
3 Chương 8 về các biện pháp vệ sinh dịch tễ (Sanitary and Phytosanitary measures).
một điều kiện” thì Hiệp định ATIGA chưa
có sự giải thích rõ ràng.
(ii) hoặc tạo nên sự hạn chế trá hình
đối với thương mại quốc tế
Điều kiện này đòi hỏi các quốc gia
thành viên phải đảm bảo áp dụng các biện
pháp vệ sinh ATTP và kiểm dịch động, thực
vật trên cơ sở khoa học nhằm bảo vệ sức
khỏe của động, thực vật và con người mà
không được gây cản trở đến thương mại
quốc tế. Nghĩa là không được sử dụng các
biện pháp SPS như là những rào cản thương
mại trá hình. Mỗi quốc gia thành viên cam
kết rằng việc xây dựng, áp dụng hoặc công
nhận bất kỳ biện pháp vệ sinh dịch tễ với
mục đích thuận lợi hóa thương mại giữa và
trong các quốc gia thành viên, đồng thời bảo
vệ tính mạng, sức khoẻ con người, động,
thực vật trong lãnh thổ quốc gia đó.
Để chứng minh những biện pháp SPS
mà mình áp dụng là không nhằm hạn chế trá
hình đối với thương mại trong khu vực, mỗi
quốc gia thành viên phải xây dựng các tiêu
chuẩn, quy chuẩn dựa trên những cơ sở khoa
học. Hiệp định ATIGA cho phép các quốc
gia thành viên trong việc thực hiện các biện
pháp vệ sinh dịch tễ có thể áp dụng các tiêu
chuẩn quốc tế liên quan, hướng dẫn và đề
xuất từ các tổ chức quốc tế như Codex In-
ternational Commission (Codex), Tổ chức
Sức khoẻ động vật thế giới (OIE), Công ước
Bảo vệ thực vật thế giới (IPPC) và ASEAN
(khoản 4 Điều 81 và khoản 2 Điều 84).
Về cơ chế giám sát, việc áp dụng các
biện pháp SPS của các quốc gia thành viên
được giám sát bởi Ủy ban ASEAN về Vệ
sinh và Kiểm dịch (AC-SPS). Mỗi năm, Ủy
ban ASEAN về Vệ sinh và Kiểm dịch tổ
chức họp ít nhất một lần giữa các quốc gia
thành viên (Điều 82 Hiệp định ATIGA). Cơ
quan này được thành lập để thực hiện các
chức năng sau:
(1) Tạo điều kiện trao đổi thông tin về
các vấn đề như các sự cố vệ sinh dịch tễ
trong các quốc gia thành viên và cả các nước
không phải là thành viên ASEAN, sự thay
đổi hay đưa ra các tiêu chuẩn và quy định về
vệ sinh dịch tễ của các quốc gia thành viên
có thể trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng tới
thương mại giữa và trong các quốc gia thành
viên.
(2) Thuận lợi hóa việc hợp tác trong
lĩnh vực vệ sinh hay dịch tễ bao gồm năng
lực xây dựng, hỗ trợ kỹ thuật và trao đổi
chuyên gia, với điều kiện có nguồn tài chính
phù hợp và các bộ luật và quy định hiện
hành của mỗi quốc gia thành viên.
(3) Nỗ lực giải quyết các vấn đề vệ
sinh dịch tễ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
thương mại giữa và trong các quốc gia thành
viên. AC-SPS có thể thành lập các nhóm đặc
trách trên cơ sở khoa học thực thi hoạt động
tham vấn nhằm xác định và giải quyết các
vấn đề cụ thể có thể phát sinh từ việc áp
dụng các biện pháp vệ sinh dịch tễ; và
(4) Đệ trình các báo cáo định kỳ việc
xây dựng và các đề xuất trong quá trình thực
hiện quy định về biện pháp SPS lên Hội
đồng AFTA thông qua Hội nghị Quan chức
cao cấp (SEOM) cho các hoạt động trong
tương lai.
Ngoài ra, một trong những nghĩa vụ
mà các quốc gia thành viên phải thực hiện
khi áp dụng các biện pháp SPS đó là phải
minh bạch chính sách. Theo đó, các quốc gia
thành viên có trách nhiệm liệt kê các bộ luật,
quy định và các thủ tục áp dụng các biện
pháp vệ sinh dịch tễ trong lãnh thổ của mình
tại Phụ lục 9 của Hiệp định ATIGA. Đồng
thời, các quốc gia thành viên cũng đảm bảo
rằng các bộ luật, quy định và thủ tục về vệ
sinh dịch tễ như đã liệt kê trong Phụ lục 9
có hiệu lực và có thể được các quốc gia
thành viên khác áp dụng. Bất kỳ sự sửa đổi
về luật, các quy định và thủ tục áp dụng vệ
sinh dịch tễ của quốc gia phải thực hiện thủ
tục thông báo theo Điều 11 Hiệp định
ATIGA.
Có thể thấy, việc quy định các biện
pháp SPS là nhu cầu chính đáng của mỗi
quốc gia. Mặc dù vậy, trong bối cảnh thương
mại quốc tế, nó có thể bị lợi dụng để đưa ra
28
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
các yêu cầu bất hợp lý nhằm hạn chế sự xâm
nhập của hàng hóa nước ngoài, bảo hộ nền
sản xuất nội địa. Hiệp định ATIGA đã đưa
ra những quy định nền tảng, làm cơ sở để
ràng buộc nghĩa vụ của các quốc gia thành
viên trong việc áp dụng các biện pháp SPS.
Tuy nhiên, các quy định này của ATIGA còn
mang tính chất khung, chưa được giải thích
một cách rõ ràng, cũng như thiếu một cơ chế
thực thi hiệu quả. Việc xác định ranh giới
đâu là các biện pháp SPS cần thiết, có thể
chấp nhận được và đâu là những biện pháp
SPS gây cản trở thương mại quốc tế không
phải là điều dễ dàng. Đặc biệt, nông nghiệp
vốn là ngành kinh tế chủ lực của phần lớn
các quốc gia ASEAN, ngoại trừ Singapore,
Brunei. Nếu các quốc gia AEC áp dụng một
cách tùy tiện các biện pháp SPS thì những
mặt hàng trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản
sẽ là đối tượng chủ yếu chịu tác động tiêu
cực. Do đó, việc tăng cường hợp tác trong
nông nghiệp, từng bước dỡ bỏ các rào cản
phi thuế quan đối với các sản phẩm nông
nghiệp thông qua kiểm soát các biện pháp
SPS được xem là một trong những nội dung
quan trọng của AEC.
2. Tình hình thực thi các cam kết về biện
pháp SPS trong Hiệp định ATIGA của
Việt Nam
Trước khi Hiệp định ATIGA có hiệu
lực, Việt Nam đã là thành viên của WTO và
phải có nghĩa vụ thực hiện các cam kết liên
quan đến biện pháp ATTP, kiểm dịch động,
thực vật được áp dụng trong phạm vi lãnh
thổ theo Hiệp định SPS. Vì vậy, khi AEC
được thành lập, Việt Nam đã có những cơ sở
nền tảng để thực thi các cam kết về biện
pháp SPS. Cơ quan chịu trách nhiệm làm
đầu mối liên hệ phục vụ cho việc hợp tác và
trao đổi thông tin có hiệu quả trong vấn đề
ATTP và kiểm dịch động, thực vật của Việt
Nam là Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn4. Cụ thể, Văn
phòng Thông báo và Điểm hỏi đáp quốc gia
về Vệ sinh Dịch tễ và Kiểm dịch Động thực
vật Việt Nam (gọi tắt là Văn phòng SPS Việt
Nam) trực thuộc Vụ Hợp tác quốc tế, được
chính thức thành lập theo Quyết định
số 99/2005/QĐ-TTg ngày 09/5/2005 của
Thủ tướng Chính phủ, là đầu mối thực hiện
các nghĩa vụ minh bạch hoá theo yêu cầu
của Hiệp định SPS của WTO, thực hiện
chức năng là kênh thông tin chính thức của
Việt Nam về các vấn đề SPS.
Khung pháp lý về các biện pháp ATTP
và kiểm dịch động, thực vật của Việt Nam
tương đối hoàn thiện và được liệt kê đầy đủ
trong Phụ lục 9 của Hiệp định ATIGA tương
ứng với từng lĩnh vực. Có thể điểm qua một
số biện pháp SPS mà Việt Nam áp dụng
trong thời gian qua như sau:
Trong lĩnh vực bảo đảm ATTP: Tại
Phụ lục 9 Hiệp định ATIGA, các biện pháp
đảm bảo ATTP của Việt Nam được liệt kê
tại Pháp lệnh số 12/2003/PL-UBTVQH11
ngày 26/7/2003 về vệ sinh an toàn thực
phẩm và các văn bản hướng dẫn. Sau đó,
Pháp lệnh này được thay thế bởi Luật An
toàn thực phẩm năm 2010. Trong đó, các
điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực
phẩm nhập khẩu được quy định chi tiết tại
Mục I Chương VI Luật An toàn thực phẩm
năm 2010. Theo đó, để kiểm soát thực phẩm
nhập khẩu, Việt Nam áp dụng hai biện pháp
chính: kiểm tra trước khi cho vào thị trường
và biện pháp dựa vào giấy chứng nhận lưu
hành tự do.
- Biện pháp kiểm tra trước khi cho vào
thị trường: thực phẩm, phụ gia thực phẩm,
chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, dụng cụ, vật
liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm nhập
khẩu phải được kiểm tra nhà nước về ATTP,
trừ một số thực phẩm được miễn kiểm tra
nhà nước về ATTP theo quy định của Chính
phủ5. Theo đó, có 3 phương thức kiểm tra là
29
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Phụ lục 10 Hiệp định ATIGA.
5 Khoản 1 Điều 39 Luật An toàn thực phẩm năm 2010.
kiểm tra chặt, kiểm tra thông thường và
kiểm tra giảm. Chỉ những thực phẩm được
cấp “Thông báo kết quả xác nhận thực phẩm
đạt yêu cầu nhập khẩu” đối với từng lô hàng
của cơ quan kiểm tra được chỉ định theo quy
định của Bộ trưởng Bộ quản lý ngành thì
mới đủ điều kiện nhập khẩu. Như vậy, cơ
chế kiểm tra áp dụng cho tất cả các loại thực
phẩm được nhập khẩu vào Việt Nam. Chỉ
những thực phẩm nhập khẩu không nhằm
mục đích kinh doanh mới được miễn kiểm
tra như thực phẩm mang theo người nhập
cảnh để tiêu dùng cá nhân trong định mức
được miễn thuế nhập khẩu, thực phẩm trong
túi ngoại giao, túi lãnh sự, thực phẩm quá
cảnh, chuyển khẩu6, Điều này đảm bảo sự
an toàn tuyệt đối cho bất kỳ một loại thực
phẩm nào nhập khẩu vào Việt Nam nhưng
nó cũng có thể là một rào cản thương mại.
Bởi lẽ, phương pháp này không dựa trên
một cơ sở khoa học nào và làm tốn kém thời
gian, chi phí cho Nhà nước cũng như doanh
nghiệp. Khi một doanh nghiệp lần đầu tiên
muốn nhập khẩu một loại thực phẩm vào
Việt Nam thì thực phẩm này phải được kiểm
tra, cho dù một thực phẩm giống hệt như nó
do một doanh nghiệp khác nhập vào vừa
được kiểm tra trước đó. Như vậy, để được
đưa ra thị trường, sản phẩm nội địa chỉ cần
được kiểm tra một lần. Trong khi đó, sản
phẩm nhập khẩu sẽ bị kiểm tra nhiều lần,
mỗi khi nó được nhập bởi một nhà nhập
khẩu mới. Điều này có thể bị chỉ trích là vi
phạm nguyên tắc không phân biệt đối xử và
quy tắc theo đó các biện pháp SPS không
được gây hạn chế thương mại hơn các biện
pháp cần có để đạt được mức bảo vệ động,
thực vật “cần thiết”7.
- Biện pháp dựa vào giấy chứng nhận
lưu hành tự do: đối với thực phẩm chức
năng, thực phẩm tăng cường vi chất dinh
dưỡng, thực phẩm biến đổi gen, thực phẩm
đã qua chiếu xạ phải có giấy chứng nhận lưu
hành tự do hoặc giấy chứng nhận y tế theo
quy định của Chính phủ8. Giấy chứng nhận
lưu hành tự do (Certificate of Free Sale -
CFS) là giấy chứng nhận do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của nước xuất khẩu cấp
cho thương nhân xuất khẩu sản phẩm, hàng
hóa ghi trong CFS để chứng nhận rằng sản
phẩm, hàng hóa đó được sản xuất và được
phép lưu hành tự do tại nước xuất khẩu9.
Điều kiện này chỉ áp dụng đối với hàng hóa
nhập khẩu nên nó có thể tạo nên sự phân biệt
đối xử quốc gia so với những loại thực phẩm
cùng chức năng được sản xuất trong nước.
Mặt khác, nó cũng có thể vi phạm nguyên
tắc đối xử tối huệ quốc vì điều kiện để cấp
giấy chứng nhận lưu hành tự do giữa các
quốc gia khác nhau là khác nhau.
Trong vấn đề kiểm dịch động, thực
vật, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống văn
bản pháp luật khá hoàn thiện. Cụ thể, đối với
kiểm dịch thực vật có Luật Bảo vệ và kiểm
dịch thực vật năm 2013; về thủy sản có Luật
Thủy sản năm 2003; về kiểm dịch động vật
có Luật Thú y năm 2015. Kiểm dịch động,
thực vật là hoạt động mang tính kỹ thuật
chuyên ngành nhằm ngăn chặn, phát hiện,
kiểm soát đối tượng kiểm dịch động, thực
vật, đối tượng phải kiểm soát và sinh vật lạ
gây hại xâm nhập vào Việt Nam. Do vậy,
việc kiểm dịch trước hết cần phải thực hiện
tại cửa khẩu là nơi đầu tiên mà từ đó các loài
động, thực vật được đưa vào Việt Nam.
Theo đó, khi nhập khẩu vật thể thuộc diện
30
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Điều 1 Thông tư số 28/2013/TT-BCT ngày 06/11/2013 của Bộ Công thương quy định kiểm tra nhà nước về ATTP
nhập khẩu thuộc trách nhiệm của Bộ Công thương.
7 Trần Thị Thùy Dương (2016), “Đi tìm điểm cân bằng giữa tuân thủ luật WTO và bảo đảm an toàn thực phẩm: Đáp
án nào cho Việt Nam?”, tham luận tại Hội thảo “Khía cạnh pháp lý về an toàn thực phẩm và cơ chế đảm bảo thực
hiện”, tổ chức tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh ngày 10/6/2016.
8 Điều 38 Luật An toàn thực phẩm năm 2010.
9 Điều 4 Quyết định số 10/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Quy định Giấy chứng nhận lưu hành tự do đối với
sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu.
kiểm dịch thực vật, chủ vật thể phải làm thủ
tục kiểm dịch thực vật10. Điều này có nghĩa
là không phải tất cả các loại thực vật nhập
khẩu vào Việt Nam đều phải được kiểm dịch
mà điều này chỉ áp dụng đối với các “vật thể
thuộc diện kiểm dịch thực vật”. Vật thể
thuộc diện kiểm dịch thực vật là thực vật,
phương tiện sản xuất, bảo quản, vận chuyển
hoặc các vật thể khác có khả năng mang
theo đối tượng kiểm dịch thực vật. Bên cạnh
đó, một số loại thực vật khi nhập khẩu vào
Việt Nam có thể phải được phân tích nguy
cơ dịch hại nếu nằm trong Danh mục vật thể
thuộc diện kiểm dịch thực vật phải phân tích
nguy cơ dịch hại trước khi nhập khẩu vào
Việt Nam. Căn cứ kết quả phân tích nguy cơ
dịch hại, cơ quan chuyên ngành bảo vệ và
kiểm dịch thực vật ở trung ương của Việt
Nam cho phép hoặc không cho phép nhập
khẩu vật thể thuộc diện kiểm dịch thực vật
và thông báo bằng văn bản cho cơ quan có
thẩm quyền về kiểm dịch thực vật của nước
xuất khẩu và tổ chức, cá nhân có liên quan
biết. Tương tự, tổ chức, cá nhân khi nhập
khẩu động vật, sản phẩm động vật có trong
Danh mục động vật, sản phẩm động vật trên
cạn thuộc diện phải kiểm dịch nộp hồ sơ
đăng ký kiểm dịch động vật, sản phẩm động
vật. Đối với động vật, sản phẩm động vật có
trong Danh mục động vật, sản phẩm động
vật trên cạn thuộc diện phải phân tích nguy
cơ trước khi nhập khẩu vào Việt Nam phải
được phân tích nguy cơ11. Cục Thú y tổ chức
thực hiện phân tích nguy cơ trên cơ sở thông
tin do cơ quan có thẩm quyền về thú y của
nước xuất khẩu cung cấp và các nguồn thông
tin có liên quan khác. Căn cứ kết quả phân
tích nguy cơ, Cục Thú y quyết định việc
nhập khẩu động vật, sản phẩm động vật.
Tuy nhiên, một trong những yêu cầu
đối với động, thực vật nhập khẩu là phải có
Giấy chứng nhận kiểm dịch do cơ quan có
thẩm quyền của nước xuất khẩu cấp12. “Giấy
chứng nhận kiểm dịch phải được cung cấp
bởi nước có sản phẩm xuất khẩu và sản
phẩm xuất khẩu phải được giám định bởi cơ
quan chức năng có thẩm quyền của nước
xuất khẩu, đảm bảo rằng sản phẩm xuất
khẩu không bị nhiễm khuẩn hay dư lượng
kháng sinh”13. Việt Nam không phải là nước
duy nhất áp dụng biện pháp này. Theo
những quy định về y tế công cộng của Thái
Lan thì đối với các loại hạt, thực vật và động
vật cũng cần phải có giấy chứng nhận kiểm
dịch được cấp bởi cơ quan chức năng của
nước xuất xứ. Mặt hàng thịt nhập khẩu vào
Thái Lan cần phải có giấy chứng nhận an
toàn thú y được ký bởi nhà chức trách địa
phương tại nước xuất xứ và cần xác
nhận14. Vấn đề đặt ra là việc phải có Giấy
chứng nhận kiểm dịch là tùy theo yêu cầu
của nước nhập khẩu và phải tuân thủ các yêu
cầu do nước nhập khẩu đặt ra. Đồng thời,
việc không có một tiêu chuẩn chung khi đưa
ra các yêu cầu đối với giấy Giấy chứng nhận
kiểm dịch sẽ gây khó khăn cho các doanh
nghiệp nhập khẩu và tiềm ẩn nguy cơ phân
biệt đối xử.
Có thể thấy, khung pháp lý về bảo
đảm ATTP và kiểm dịch động, thực vật của
Việt Nam tương đối hoàn thiện. Việt Nam
đã thực thi một cách nghiêm túc các nghĩa
vụ về minh bạch các biện pháp SPS theo
Hiệp định ATIGA. Tuy nhiên, một số quy
định vẫn còn tiềm ẩn khả năng phân biệt đối
xử và có thể trở thành đối tượng khởi kiện
trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
31
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Khoản 1 Điều 29 Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật năm 2013.
11 Điều 43 Luật Thú y năm 2015.
12 Điều 44 Luật Thú y năm 2015 và Điều 26 Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật năm 2013.
13 Nguyễn Thị Tường Anh (2014), “Xây dựng rào cản phi thuế quan tại một số nước trên thế giới”, Tạp chí Tài chính,
số 6 (596), tr. 25.
14 Trung tâm Hỗ trợ hội nhập WTO TP. Hồ Chí Minh, “Những lưu ý về hàng rào kỹ thuật của Thái Lan”,
<
lan.html>, truy cập ngày 26/11/2016.
3. Một số thách thức trong việc thực thi
các cam kết về biện pháp an toàn thực
phẩm và kiểm dịch động, thực vật
Trở thành viên của AEC đồng nghĩa
với việc Việt Nam phải mở cửa thị trường,
từ đó làm gia tăng khối lượng hàng hóa liên
quan đến thực phẩm, động, thực vật từ các
nước ASEAN nhập khẩu vào Việt Nam. Quá
trình này có hai mặt: một mặt mang lại lợi
ích cho người tiêu dùng và thúc đẩy các nhà
sản xuất trong nước vươn lên, nhưng mặt
khác, có thể gây khó khăn cho nền sản xuất
nông nghiệp nội địa cũng như đặt ra áp lực
cho việc đảm bảo ATTP vốn đã rất phức tạp.
Trước hết, nền sản xuất nông nghiệp
trong nước sẽ bị ảnh hưởng bởi sức ép cạnh
tranh từ hàng hóa các nước trong khu vực.
ASEAN là thị trường mà Việt Nam nhập
khẩu khá nhiều các mặt hàng nông, lâm sản
như dầu thực vật thô, gỗ nguyên liệu, đường
ăn, trái cây, nguyên liệu thức ăn chăn nuôi...
Riêng ngành công nghiệp đường sẽ gặp khó
khăn lớn trong AEC vì Thái Lan là nước xuất
khẩu đường lớn thứ 3 thế giới, có giá thành
sản xuất thấp hơn Việt Nam rất nhiều15.
Ngoài ra, Việt Nam còn nhập khẩu các mặt
hàng nhạy cảm từ ASEAN như lá thuốc lá,
muối, trứng, đường. Trong khi đó, nền nông
nghiệp nước ta phổ biến là quy mô sản xuất
nhỏ lẻ, manh mún, hạn chế trong áp dụng
khoa học công nghệ vào sản xuất Quy
trình sản xuất theo lối nông hộ khá phổ biến
khiến chất lượng nông sản khó đồng nhất,
nhiều khi không đáp ứng các tiêu chuẩn về
vệ sinh ATTP của thị trường quốc tế16. Trước
những cam kết của AEC, nền nông nghiệp
Việt Nam chắc chắn sẽ phải đối mặt với sức
ép cạnh tranh với nông, lâm, thủy sản nhập
khẩu, nguy cơ thu hẹp sản xuất.
Một vấn đề đáng lưu tâm nữa là tình
trạng các loại thực phẩm bẩn, quá hạn sử
dụng đang ồ ạt tràn vào Việt Nam, gây ảnh
hưởng đến sức khỏe con người, vật nuôi
trong nước. Khâu kiểm tra vệ sinh ATTP đối
với nông sản nhập khẩu đang bị lơ là. Không
chỉ hải sản như mực, cá, ngao, sò ngoại nhập
giá rẻ mà còn các loại thịt, từ thịt bò, thịt
cừu, thịt gia cầm, thịt lợn, phủ tạng các
loại... đều đã được nhập lậu bán với giá rẻ
mà sản xuất trong nước không thể cạnh
tranh. Mặc dù pháp luật Việt Nam đã có
những quy định chi tiết để kiểm soát ATTP,
kiểm dịch động, thực vật nhưng lại thiếu
một cơ chế thực thi hiệu quả. Đội ngũ cán
bộ còn thiếu và trình độ khoa học kỹ thuật
chưa cao khiến cho khâu kiểm dịch tại cửa
khẩu chỉ mang tính hình thức. “Việc kiểm
tra gần như chỉ được thực hiện về mặt ngoại
quan, nhìn qua kính lúp để xem có bị dịch
bệnh hay không. Không thực hiện bất kỳ
một xét nghiệm, phân tích hóa chất, hay tồn
dư chất bảo quản, bảo vệ thực vật trong sản
phẩm nông sản”17.
Ngược lại, đối với hoạt động xuất
khẩu, việc hình thành AEC sẽ buộc các nước
trong khu vực phải từng bước dỡ bỏ các rào
cản kiểm dịch đối với hàng hóa của Việt
Nam. Điều này mở ra cơ hội cho các doanh
nghiệp Việt Nam tăng cường xuất khẩu các
mặt hàng nông sản sang các nước ASEAN.
Tuy nhiên, điều này chỉ có thể đạt được khi
các doanh nghiệp Việt Nam hiểu rõ các quy
định của AEC nói chung và các biện pháp
kiểm dịch của từng quốc gia thành viên nói
riêng. Thực tế cho thấy, doanh nghiệp và
người dân rất thiếu thông tin về AEC hoặc
lúng túng trước các quy chuẩn kỹ thuật khắt
khe cũng như pháp luật của các nước trong
32
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15 Lưu Tiến Dũng (2015), “Tác động của Cộng đồng kinh tế ASEAN đến ngành nông nghiệp Việt Nam”, Tài liệu Hội
thảo “Cộng đồng Kinh tế chung ASEAN (AEC): cơ hội, thách thức và giải pháp cho doanh nghiệp”, do Trường Đại
học Kinh tế TP. Đà Nẵng tổ chức ngày 12/9/2015.
16 Hải Quan Online, “Nông nghiệp Việt Nam gập ghềnh hội nhập”, <
viet-nam-gap-ghenh-hoi-nhap>, truy cập ngày 18/11/2016.
17 Bạch Hoàn - Trần Mạnh, “Thả cửa cho nông sản ngoại”, <
truong/20101116/tha-cua-cho-nong-san-ngoai/411146.html>, truy cập ngày 18/11/2016.
khu vực. “Đến cả những cán bộ của Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam còn
phản ánh là các cơ quan quản lý không cập
nhật thông tin gì về các hiệp định thương
mại, về tiến trình ký kết hay các đối tác cạnh
tranh... Các chuyên gia kinh tế phải tìm kiếm
thông tin từ các báo nước ngoài hay một số
cơ quan nước ngoài”18. Chính việc thiếu
thông tin đã khiến doanh nghiệp Việt Nam
không thể chủ động khi gia nhập thị trường.
Bên cạnh đó, chất lượng hàng hóa,
dịch vụ xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng
nông sản của Việt Nam còn nhiều hạn chế.
Hiện nay, các mặt hàng nông sản chủ yếu
của Việt Nam xuất khẩu sang các nước
ASEAN là gạo, cà phê, hồ tiêu, điều, chè,
rau quả, trong đó, lớn nhất là gạo. Một khi
hàng rào thuế quan bị dỡ bỏ theo các cam
kết AEC thì các biện pháp SPS được dự
đoán sẽ trở thành công cụ chủ yếu để các
quốc gia gây khó khăn cho hàng hóa nhập
khẩu nhằm mục đích bảo hộ sản xuất trong
nước. Điều này đòi hỏi các mặt hàng nông
sản của Việt Nam phải đáp ứng đầy đủ các
quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật mà nước
nhập khẩu yêu cầu. Tuy nhiên, người nông
dân Việt Nam vốn quen với tập quán sản
xuất nhỏ lẻ, sử dụng nhiều thuốc bảo vệ thực
vật, thuốc kháng sinh để bảo vệ cây trồng,
vật nuôi trước những đợt bệnh, dịch hại.
Hơn nữa, “những vùng đất canh tác, sản
xuất của Việt Nam đều được khai thác từ lâu
và thời gian nghỉ đất, phơi đất, phơi trại quá
ngắn để tái sản xuất nên mức độ tiêu diệt
những mầm bệnh tiềm ẩn không cao. Vì vậy,
điểm yếu về chất lượng sản phẩm sẽ tạo ra
thách thức lớn cho cả ngành hàng nông
nghiệp”19. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt
Nam cũng chưa thực sự quan tâm đến việc
nâng cao chất lượng sản phẩm và uy tín
hàng xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp còn
chưa đáp ứng được các quy định về an toàn
vệ sinh thực phẩm và các quy định về chất
lượng. Việc thâm nhập thị trường ASEAN
sẽ trở nên khó khăn đối với những doanh
nghiệp, nông hộ không có khả năng áp dụng
những quy trình sản xuất, quản lý chất lượng
theo quy định của AEC.
4. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy
định về an toàn thực phẩm, kiểm dịch
động, thực vật trong khuôn khổ AEC và
các giải pháp thích ứng cho Việt Nam
Thứ nhất, AEC cần tiến tới xây dựng
một hiệp định chuyên biệt về các biện pháp
SPS để đảm bảo nghĩa vụ của các nước
thành viên được thực thi hiệu quả. Trong
thời gian qua, các nước ASEAN đã hướng
đến việc xây dựng khung pháp lý về ATTP
dựa trên mục tiêu chính: thiết lập và thực
hiện các biện pháp ATTP; đẩy nhanh quy
trình hội nhập về các biện pháp và quy trình
kiểm soát ATTP của các nước thành viên
ASEAN; trợ giúp nỗ lực của các nước thành
viên ASEAN trong việc tăng cường hệ
thống ATTP quốc gia20. Các quy định về
ATTP và kiểm dịch động, thực vật trong
khuôn khổ AEC tuy có sự tương thích và
phù hợp với khuôn khổ WTO nhưng còn
mang tính chất chung chung, chưa thật sự rõ
ràng và khó đảm bảo thực hiện trên thực tế.
Điều này có thể xuất phát từ bản chất của
AEC chủ yếu chỉ là sự liên kết, hợp tác giữa
các chính phủ trong ASEAN trong việc mở
cửa và tự do hóa nhiều hơn đối với thương
mại, đầu tư và di cư lao động trong nội khối.
Mặc dù được gọi với cái tên “Cộng đồng
kinh tế”, AEC thực chất chưa thể được coi
là một cộng đồng kinh tế gắn kết như Cộng
đồng châu Âu (EC) bởi AEC không có cơ
33
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Phương Nhung, “Chủ động cứu lấy mình”, <
2015022822594851.htm>, truy cập ngày 18/11/2016.
19 Vietnamplus, “Nông sản Việt trước hội nhập: Bài toán chất lượng sản phẩm”, <
tuc-cap-nhat/1024-nong-san-viet-truoc-hoi-nhap-bai-toan-chat-luong-san-pham.htm>, truy cập ngày 18/11/2016.
20 Thanh Hằng, “Hướng đến thực phẩm an toàn”, , truy
cập ngày 18/11/2016.
cấu tổ chức chặt chẽ và những điều lệ, quy
định có tính chất ràng buộc cao và rõ ràng
như EC21. Muốn đạt được mục tiêu “mở
cửa” và “tự do hóa” đòi hỏi AEC phải hoàn
thiện các quy định pháp lý cũng như xây
dựng một cơ chế hoàn chỉnh để thực thi các
cam kết của các quốc gia thành viên. Đối với
các tiêu chuẩn và quy định về biện pháp
SPS, các nước AEC có thể sử dụng các cam
kết trong khuôn khổ Hiệp định SPS của
WTO. Tuy nhiên, với những điều kiện đặc
thù của khu vực cùng với mục tiêu xây dựng
một cộng đồng kinh tế thống nhất, thiết nghĩ
AEC cần xây dựng một hiệp định quy định
về vấn đề ATTP và kiểm dịch động, thực vật
riêng của khu vực. Trong đó, cần có các quy
định cụ thể và rõ ràng về việc xác định các
biện pháp SPS được cho là phù hợp và cần
thiết mà không nhằm mục đích cản trở
thương mại; xác định rõ các tiêu chuẩn
chung trong việc áp dụng các biện pháp
SPS. Đặc biệt, cần thiết lập quy trình tham
vấn và giải quyết tranh chấp trong trường
hợp có quốc gia thành viên vi phạm nghĩa
vụ. Đương nhiên, việc xây dựng các quy
định này đòi hỏi phải có lộ trình và tham
khảo kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt là kinh
nghiệm của WTO.
Thứ hai, Việt Nam cần chủ động hoàn
thiện hệ thống pháp luật về ATTP và kiểm
dịch động, thực vật nhằm góp phần hạn chế
sự tấn công của hàng hóa nhập khẩu. Mặc
dù hệ thống pháp luật của Việt Nam về các
biện pháp SPS tương đối đầy đủ nhưng một
số quy định vẫn còn chứa đựng nguy cơ
phân biệt đối xử. Vì vậy, để đảm bảo thực
thi có hiệu quả các cam kết của mình, Việt
Nam cần điều chỉnh một số quy định theo
hướng thuận lợi về thủ tục hành chính, tiết
kiệm chi phí cho các doanh nghiệp. Ví dụ,
pháp luật cần đưa ra danh mục các loại thực
phẩm cần phải kiểm tra trước khi được nhập
khẩu chứ không cần phải kiểm tra tất cả như
hiện nay; giảm bớt yêu cầu về Giấy chứng
nhận tự do lưu hành hoặc Giấy chứng nhận
kiểm dịch động, thực vật do nước xuất khẩu
ban hành. Đồng thời, việc nâng cao trình độ
của đội ngũ cán bộ và trang bị đầy đủ các
trang thiết bị trong việc kiểm tra, kiểm dịch
cũng là yêu cầu cần thiết. Bởi lẽ, nếu như
chỉ có quy định trên giấy tờ mà khâu thực
thi lại không hiệu quả thì việc bảo vệ sức
khỏe người dân, động, thực vật trong lãnh
thổ sẽ không được đảm bảo.
Thứ ba, về phía doanh nghiệp cần chủ
động tìm hiểu và nắm chắc thông tin về các
biện pháp SPS. Doanh nghiệp cần tìm hiểu
các nguyên tắc và điều kiện thực hiện các
biện pháp SPS, thường xuyên cập nhật tình
hình để tránh việc bị các nước thành viên
AEC lạm dụng các biện pháp này gây cản
trở bất hợp lý đối với hàng xuất khẩu của
Việt Nam, nhất là hàng nông sản, thủy hải
sản - ngành hàng mà Việt Nam có thế mạnh.
Đồng thời, các doanh nghiệp cũng có trách
nhiệm tuân thủ thích hợp, tránh việc hàng
hoá không được thông quan vì các lý do vệ
sinh dịch tễ, gây thiệt hại về uy tín cho
doanh nghiệp nói riêng và Việt Nam nói
chung. Người nông dân cũng như doanh
nghiệp cần thay đổi thói quen sản xuất, đổi
mới công nghệ và nâng cao năng lực cạnh
tranh trước xu thế hội nhập toàn cầu. Thêm
vào đó, Nhà nước cần có cơ chế khuyến
khích, thúc đẩy các nhà sản xuất trong
nước đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả sản
xuất, kinh doanh. Đồng thời, các cơ quan
có thẩm quyền cần tăng cường thông tin,
phổ biến pháp luật, chính sách thương mại
của AEC để doanh nghiệp kịp thời nắm bắt,
chủ động trong tổ chức sản xuất, kinh
doanh xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu về tiêu
chí kỹ thuật, vệ sinh kiểm dịch, về môi
trường, an toàn sức khỏe người tiêu dùng
của nước nhập khẩu n
34
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21 Trung tâm WTO, “Tóm lược Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)”,
luoc-cong-dong-kinh-te-asean-aec, truy cập ngày 18/11/2016.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_van_de_phap_ly_va_thuc_tien_trong_quy_dinh_ve_an_toan.pdf