Kết hợp bảng số liệu trên và bảng 4 ta thấy: Với tổng mức DTTT năm 2001 tăng so với kế hoạch đặt ra là 25.715,9 triệu đồng thì tổng mức độ ảnh hưởng của các nhân tố: số lượng, giá bán, kết cấu của các loại sản phẩm so sánh được đến DTTT là 21.488,95 triệu đồng. Xem xét cụ thể từng nhân tố, từng nhóm hàng ta thấy có cả yếu tố làm tăng, có cả yếu tố làm giảm.
Xem xét số liệu trong bảng tổng hợp mức độ ảnh hưởng của các nhân tố, của các nhóm mặt hàng kinh doanh đến DTTT ta thấy:
- Ảnh hưởng của nhân tố sản lượng tiêu thụ: Số lượng tiêu thụ của các hàng hoá, dịch vụ trong năm 2001 thay đổi so với kế hoạch đặt ra làm DTTT tăng khá lớn, mức tăng là: 26.426,073 triệu đồng, điều đó phản ánh kết quả của việc tích cực, chủ động áp dụng các biện pháp mà Công ty đã sử dụng để tăng khối lượng hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ, góp phần mở rộng DTTT .
Nhìn chung sự tăng lên về khối lượng của các mặt hàng đều làm DTTT tăng lên, nhiều nhất vẫn là mặt hàng than cám, khối lượng tiêu thụ than cám 3 và than cám 4a tăng so với kế hoạch làm DTTT tăng lên17.233,36 triệu đồng. Các mặt hàng xi măng, vận có khối lượng tiêu thụ tăng lên cũng làm cho DTTT tăng lên đáng kể. Riêng các loại phụ gia thì sự thay đổi của khối lượng lại làm cho DTTT giảm 740,667 triệu đồng.
81 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1301 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những vấn đề về tiêu thụ sản phẩm và các biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng dttt sản phẩm của doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở các chi nhánh của Công ty mà còn thực hiện phục ụ khách hàng tuỳ theo yêu cầu, có thể mua tại cảng, tại kho thậm chí phục vụ đến tận chân công trình.
- Vấn đề thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ: Công ty đã tạo mọi diều kiện cho khách hàng trong việc thanh toán thông qua việc cho áp dụng đa dạng các phương tiện thanh toán tuỳ theo sự đề nghị của khách hàng: tiền mặt, séc chuyển khoản, séc bảo chi...
Và hình thức thanh toán cũng được sử dụng rất linh hoạt, cả thanh toán chậm và thanh toán nhanh, trong đó thanh toán chậm là chủ yếu và Công ty luôn có biện pháp để khuyến khích khách hàng thanh toán ngay nhưng chưa có hiệu quả nên thanh toán chậm ở Công ty vẫn là phổ biến. Tuy nhiên do các khoản phải thu của khách hàng lớn nên để quản lý chặt các khoản phải thu thì trong các HĐKT bao giờ cũng phải xác định rõ thời hạn thanh toán và một số quy định cụ thể đối với các trường hợp nợ quá hạn và Công ty chỉ thực hiện bán chịu cho các khách hàng có uy tín có quan hệ làm ăn lâu dài với Công ty. Thông qua cách thức này mà Công ty không chỉ giữ vững được quan hệ bạn hàng lâu dài mà còn góp phần thực hiện đúng kế hoạch DTTT, đảm bảo an toàn vốn kinh doanh cho mình.
Thứ ba, sử dụng linh hoạt các đòn bẩy tài chính cho việc kinh doanh xi măng.
Để đẩy mạnh tiêu thụ mặt hàng xi măng trong quý I năm 2001, Công ty đã thực hiện khuyến mại bằng giá trị và có sử dụng cả hình thức hỗ trợ vận chuyển.
Việc khuyến mại của Công ty cho các khách hàng được quy định theo từng khu vực thị trường, từng loại hình bán hàng, mức khuyến mại dao động từ 10.000- 25.000 đồng/ tấn xi măng. Có thể lấy ví dụ về các mức khuyến mại nà Công ty áp dụng từ 1/1/2001 đến 29/2/2001 đối với xi măng Bút Sơn PC 30 và PC40 bao như sau:
Bảng 08: Các mức khuyến mại
(áp dụng từ ngày 1/1/2001 đến 29/2/2001 đối với XM BútSơn)
ĐVT: Đồng
Địa điểm
Tại ga
Tại kho
Tại cửa hàng, đại lý
Tại chân công trình
XM chuyển từ nhà máy
XM chuyển từ ga, kho
-Bắc Hà nội
25.000
25.000
12.000
25.000
15.000
-Vĩnh phúc
+ Phúc Yên
25.000
20.000
12.000
25.000
-
+Vĩnh Yên
25.000
10.000
12.000
25.000
-
-Phú Thọ
15.000
12.000
12.000
-
-
-Thái nguyên
25.000
25.000
12.000
25.000
-
-Yên Bái
22.000
-
-
-
-
Thông qua ví dụ trên có thể thấy các mức khuyến mại mà Công ty áp dụng khá đa dạng, linh hoạt theo từng đối tượng, địa điểm và quy định rõ cụ thể từng mức.
Ngoài hình thức khuyến mại trên Công ty còn áp dụng việc hỗ trợ vận chuyển cho một số loại xi măng ở một số địa điểm, mức hỗ trợ từ 20.000- 40.000 đồng/ tấn.
Thứ tư, về tổ chức, điều hành công việc: Trong những năm qua và đặc biệt trong năm 2001 để thực hiện được các phương hướng, kế hoạch đề ra, thực hiện tốt việc tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT cho công ty thì công tác tổ chức, quản lý điều hành cũng đã được củng cố một bước, thể hiện trên một số khía cạnh sau:
- Quan tâm công tác tổ chức mua, bán, giữa đầu nguồn và cuối nguồn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp đầy đủ các loại vật tư, dịch vụ cho khách hàng, tăng hiệu quả kinh doanh nói chung của công ty.
- Khai thác tạo lập vốn được triển khai có hiệu quả, góp phần đảm bảo đủ nguồn vốn phục vụ cho hoạt động mua hàng dự trữ, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tiêu thụ hàng hoá.
- Tổ chức điều hành hoạt động của đoàn vận tải, đặc biệt là lĩnh vực vận chuyển clinker, từ đó, tạo điều kiện tốt cho công tác vận chuyển hàng hoá, dịch vụ.
Ngoài ra trong kinh doanh, để đẩy mạnh công tác tiêu thụ công ty còn có những biện pháp và cơ chế thích hợp như việc đổi mới phương thức kinh doanh trong mua bán vật tư, trong vận tải hàng hoá, cải thiện mối quan hệ với các NMXM. Cụ thể như: điều hành tương đối linh hoạt giữa việc mua than của TCTthan và mua của các đơn vị có chức năng kinh doanh than ngoài TCTthan để tăng khả năng cạnh tranh của công ty và đảm bảo được hiệu quả kinh doanh.
d. Những vấn đề đặt ra đối với công tác tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ tại Công ty Vật tư- Vận tải- Xi măng.
Trong những năm qua, cụ thể là trong năm 2001, mặc dù còn nhiều khó khăn đối với hoạt động SXKD nói chung của công ty và công tác tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ của công ty nói riêng. Song công ty cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể, năm 2001 với mức DTTT mang lại là 330.855 triệu đồng, đạt lợi nhuận là 2.178 triệu đồng.
Có được thành quả đó, Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng đã phải nỗ lực phấn đấu rất nhiều, đặc biệt là trong công tác tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ, Công ty đã có những biện pháp linh hoạt để thúc đẩy tiêu thụ, tăng doanh thu, song cũng trong lĩnh vực này, còn một số vấn đề mà công ty chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa tốt, nó chưa thúc đẩy được tiêu thụ và tăng DTTT của công ty. Cụ thể một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Công ty chưa thực sự chú trọng đến công tác nghiên cứu thị trường. Việc điều tra nghiên cứu thị trường, là một vấn đề quan trọng trong công tác tiêu thụ các hàng hoá, dịch vụ của mọi doanh nghiệp làm tốt vấn đề này sẽ tạo ra thuận lợi rất lớn cho việc tăng khối lượng cũng như mở rộng DTTT của công ty. Song công viêc này tại Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng chưa được quan tâm thoả đáng, chưa chú trọng nghiên cứu sâu vấn đề này. Việc thăm dò thị trường chủ yếu chỉ được thực hiện thông qua các đợt đi thanh toán công nợ với khách hàng hoặc thông qua những thông tin từ phía TCTXMVN chứ chưa có đội ngũ marketing chuyên sâu về vấn đề này, do đó khả năng tìm hiểu và thâm nhập vào thị trường còn hạn chế.
Thứ hai: Chưa có nhiều biện pháp linh hoạt để hạ thấp chi phí, để nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ.
Để hàng hoá, dịch vụ có tính cạnh tranh trên thị trường thì nhân tố quan trọng là giá hàng hoá dịch vụ cung cấp phải thấp, muốn như vậy phải tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm. Thực tế vấn đề này trong năm qua tại công ty chưa được thực hiện tốt, giá thành hàng hoá, dịch vụ còn cao, do vậy khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ mà công ty cung cấp chưa cao.
Như đã biết giá thành toàn bộ của các hàng hoá, dịch vụ mà Công ty cung cấp chủ yếu là giá vốn hàng mua vào và chi phí lưu thông.
Đối với giá vốn hàng mua vào tuy Công ty đã có những biện pháp để tìm được nguồn hàng có giá mua vào thấp nhất song chưa rộng mới chỉ được thực hiện ở một số mặt hàng như than cám, Công ty không chỉ mua than của TCTthan Việt nam mà còn tìm được một số bạn hàng bán than khác ngoài TCTthan, việc mua than của các đơn vị này được thực hiện với giá mua là 305.000 đồng/tấn, thấp hơn so với giá than mua của TCTthan là 17.000 đồng/tấn, còn nhìn chung các mặt hàng kinh doanh khác vấn đề tìm kiếm bạn hàng chưa được thực hiện.
Đối với chi phí lưu thông, đây là yếu tố cơ bản làm giá thành tăng cao từ đó làm giảm tính cạnh tranh. Nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động của đoàn vận tải còn gặp nhiều khó khăn do chưa được đầu tư để bảo dưỡng, sửa chữa thoả đáng, hơn nữa việc quản lý chi phí đặc biệt là chi phí tại các chi nhánh chưa hiệu quả chưa thực hiện tiết kiệm, tuy đã thực hiện khoán chi phí điện thoại đối với các đơn vị nhưng chưa triệt để, chính vì vậy chi phí lưu thông cao từ đó làm giá thành cao.
Thứ ba, các đòn bẩy kinh tế mà Công ty áp dụng mới chỉ được thực hiện đối với mặt hàng xi măng còn các mặt hàng kinh doanh khác chưa được áp dụng, đặc biệt là các hình thức khuyến mại như: giảm giá, tặng thưởng, hỗ trợ một phần vận chuyển đối với mặt hàng than cám cho các khách hàng quen thuộc, khách hàng lâu năm, khách hàng mua với khối lượng lớn cũng chưa được thực hiện, do đó chưa thực sự khuyến khích khách hàng và chưa tăng cường được mối quan hệ với các bạn hàng.
Thứ tư, việc bán hàng và thu tiền hàng còn rất chậm. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình hình tài chính của Công ty không lành mạnh, từ đó làm ảnh hưởng lớn tới việc thực hiện kế hoạch tiêu thụ hàng hoá. Vốn kinh doanh của Công ty nhiều thời điểm hết sức khó khăn, không đảm bảo tiến độ thanh toán cho các nhà cung cấp như đã thoả thuận, làm ảnh hưởng lớn đến việc kế hoạch mua hàng để thực hiện kế hoạch cung ứng.
Thứ năm, việc xử lý công việc của các phòng ban trong Công ty tuy đã vó sự phối hợp nhưng còn mang nặng tính bị động, đặc biệt là sự phối hợp giải quyết các công việc giữa các đơn vị trong việc xử lý các tình huống trong kinh doanh xi măng. Các đơn vị cơ sở, các chi nhánh, đại lý vẫn có thói trông chờ, ỷ lại cấp trên, chưa chủ động, linh hoạt trong kinh doanh.
Thứ sáu, Công ty chưa mạnh dạn áp dụng hình thức đấu thầu vận tải để giảm cước vận chuyển và chọn hình thức vận chuyển phù hợp, thuận tiện nhất.
Ngoài ra, để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT thì Công ty còn chưa thực hiện tốt một số biện pháp khác như vấn đề bán hàng, các hoạt động phụ trợ....
Trên đây là những đánh giá cơ bản nhất về những mặt làm được cũng như những mặt còn tồn tại trong công tác tiêu thụ các hàng hoá, dịch vụ trong thời gian qua tại Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng. Để thực hiện tốt việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT các hàng hoá, dịch vụ thì trong thời gian tới Công ty vẫn phải tiếp tục phát huy, làm tốt hơn nữa những mặt đã làm được đồng thời phải có những giải pháp đúng đắn, kịp thời để giải quyết những vấn đề còn tồn tại ở trên.
chương 3
định hướng phát triển và các biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và tăng DTTT tại Công ty Vật tư- Vận tải- Xi măng
3.1. Định hướng kế hoạch phát triển trong năm 2002 và những năm tới.
3.1.1.Đặc điểm tình hình tiêu thụ trong những năm tới.
- Về tổng cung xi măng trong cả nước:
Tổng cung xi măng trong những năm tới sẽ có sự gia tăng tương đối nhanh chóng do hàng loạt các NMXM sẽ lần lượt ra đời có sản phẩm tham gia vào thị trường trong đó có xi măng liên doanh Nghi Sơn đang phấn đấu đạt công suất thiết kế vào năm 2002, hơn nữa, TCTXMVN đang có kế hoạch khẩn trương triển khai đầu tư mới và cải tạo một số NMXM, cụ thể như hoàn thành xây dựng đưa vào sản xuất NMXM Hải Phòng mới vào năm 2002; có công suất 1,4 triệu tấn/ năm; hoàn thành công tác cải tạo và hiện đại hoá dây chuyền số 2 của NMXM Bỉm Sơn, tăng công suất nhà máy này lên 1,8 triệu tấn/ năm.... Như vậy, khối lượng cung ứng xi măng trong những năm sẽ là rất lớn, ước tính riêng sản lượng xi măng sản xuất trong nước có khả năng đạt trên 85 triệu tấn( giai đoạn 2002-2005).
- Về tổng cầu xi măng trong cả nước:
Từ năm 2002 đến năm 2005 dự doán nhu cầu xi măng vào khoảng 80-85 triệu tấn, tăng 50-60% so với thời kỳ 1998-2001. Bình quân mỗi năm nhu cầu tiêu dùng khoảng 16-17 triệu tấn, riêng năm 2005 là 18-19 triệu tấn.
Giai đoạn 2006-2010, với sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế các nước trong khu vực đồng thời Việt nam đã thực hiện đầy đủ lộ trình để tham gia khu vực mậu dịch tự do(AFTA) và dần dần hội nhập quốc tế sẽ tạo đà cho kinh tế Việt Nam phát triển với tốc độ cao(dự kiến GDP hàng năm của giai đoạn này vào khoảng 8-10%). Nhu cầu đầu tư và phát triển hạ tầng sẽ kích thích tiêu thụ xi măng với khối lượng lớn hơn. Dự báo ở mức trung bình thì nhu cầu tiêu thụ xi măng nội địa 2006-2010 có mức tăng hàng năm là 10-15%/năm.
Như vậy, xét về nhu cầu xi măng trong những năm tới cũng sẽ có sự gia tăng mạnh. Song xét tương quan giữa tổng cung và tổng cầu trong những năm tới có thể thấy tổng cung xi măng sẽ lơns hơn tổng cầu xi măng rất nhiều. Vì vậy, cái khó của ngành xi măng trong giai đoạn này là thị trường tiêu thụ. Xét về năng lực cạnh tranh trên thị trường thì các doanh nghiệp xi măng nội địa mà trước hết là các công ty xi măng thuộc TCTXMVN được đánh giá là yếu kém hơn các NMXM liên doanh về nhiều mặt: vốn, công nghệ, kỹ thuật, trình độ quản lý và đặc biệt là kinh nghiệm hoạt động thị trường. Hơn nữa, ngành xi măng sẽ phải đối mặt với sức ép của mặt hàng này từ các nước láng giềng. Theo lịch trình giảm thuế của Việt Nam để thực hiện AFTA, xi măng Việt nam được cắt giảm thuế suất từ 15% xuống còn 5% vào năm 2006. Đối với một số nước ASEAN sẽ thực hiện lịch trình giảm thuế này từ 25% xuống 5% vào năm 2003. Như vậy, từ sau năm 2003 các nước trong khu vực giảm 20% thuế suất mặt hàng xi măng khi hoà nhập vào thị trường các nước trong khối. Năm 2006 khi tham gia vào thị trường Việt nam có thể hạ 10% so với trước, theo ước tính khi hoà nhập giá có thể dưới 55USD/tấn xi măng lò ngang và dưới 44 USD/tấn xi măng lò đứng, đây là mức giá gây ra nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh của sản phẩm xi măng Việt nam. Vậy vấn đề đặt ra là: làm thế nào để các doanh nghiệp thuộc TCTXMVN có thể cạnh tranh được với các công ty xi măng liên doanh được đánh giá là mạnh hơn rất nhiều. Và bằng cách nào để tạo ra lợi thế cạnh tranh bằng giá cả của xi măng Việt nam với của các nước trong khu vực? Nếu không có hướng đi đúng, các doanh nghiệp xi măng của ta sẽ có thể gặp nguy cơ bị thu hẹp thị phần, thậm chí mất dần tính chủ đạo của một công ty Nhà nước trên thị trường.
Với tình hình cung cầu trên thị trường xi măng như trên và những khó khăn mà ngành xi măng nói chung. TCTXMVN nói riêng đang gặp phải thì Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng - với tư cách là một thành viên trong TCTXMVN thực hiện chức năng cung ứng vật tư và dich vụ vận tải phục vụ sản xuất xi măng - khi tham gia vào thị trường cũng phải đương đầu với những khó khăn nhất định theo tình hình chung đó.
Bên cạnh đó, bản thân Công ty cũng còn phải đối mặt với một ssó khăn khác như:
+ Hiện nay, NMXM đang có xu hướng muốn mua than trực tiếp của các nhà cung cấp và TCTthan Việt nam cũng đang theo đuổi mục tiêu bán than trực tiếp cuối nguồn cho các NMXM với giá bán rất cạnh tranh. Bên cạnh đó, lĩnh vực vận chuyển clinker cũng đang gặp phải bất lợi này. Các NMXM luôn đặt ra tình huống để tự đảm nhận vận chuyển một phần khối lượng clinker, và liên tục đề nghị giảm cước vận chuyển.
+ Công ty đang còn chịu tác động mạnh từ phía TCTXMVN do vậy hoạt động còn nhiều bị động....
Với những vấn đề trên đòi hỏi Công ty phải có định hướng phát triển phù hợp, đúng hướng để góp phần mang lại hiệu quả hoạt động kinh doanh cao, đảm bảo lợi nhuận, từ đó để đứng vững và khẳng định vị thế của mình trong cơ chế thị trường hiện nay.
3.1.2. Định hướng kế hoạch phát triển của Công ty trong năm 2002 và những năm tới.
- Chủ động điều hành để nắm vững thị phần, đảm bảo thị trường các mặt hàng vật tư đầu vào phục vụ cho các NMXM, kết hợp với những kinh nghiệm có tính truyền thống và những đòi hỏi của thị trường trong sự diều tiết của TCTXMVN trên cơ sử các HĐKT đã ký kết với các NMXM.
- Mở rộng thị trường phụ gia phục vụ sản xuất xi măng : Xỉ pyrit, Xỉ Phả Lại, quặng sắt Quảng Ninh, đá bô xít Lạng Sơn, đá đen Mạo Khê và các loại phụ gia khác theo yêu cầu của các NMXM kể cả xi măng liên doanh(đã ký kết được hợp đồng bán Xỉ pyrit cho NMXM Nghi sơn); phấn đấu phục vụ tối đa nhu cầu phụ gia cho sản xuất xi măng.
- Tiếp tục nhận nhiệm vụ vận chuyển clinker Bắc - Nam, duy trì việc vận chuyển than, vận chuyển xi măng đi miền Trung theo yêu cầu của các NMXM, tìm kiếm nguồn hàng vận chuyển của mọi khách hàng khác ngoài TCTXMVN.
- Tăng cường đầu tư cho các đoàn xà lan của Công ty, trước mắt năm 2002 trình TCTXMVN xin đầu tư thêm hai đoàn xà lan để vận hành ngày càng có hiệu quả hơn. Đề xuất việc liên kết các công ty vận tải biển, TCTđường sông trong nước để điều hành tham gia vận chuyển clinker nhập khẩu từ nước ngoài về các NMXM theo định hướng của TCTXMVN.
- Tổ chức lại các cơ sử sản xuất công nghiệp. Tuyển Xỉ Phả Lạitiếp tục sản xuất để tiêu thụ phụ gia cho các NMXM, các công trình xây dựng thuỷ lợi. Chuẩn bị phương án tiếp nhận vận chuyển nguồn tro bay chất lượng tốt (không phải tuyển) để cung ứng cho nhu cầu pha phụ gia của các NMXM.
Chuẩn bị cung ứng than cám Quảng Ninh cho NMXM Hà Tiên II sau khi nhà máy đầu tư cải tiến từ sử dụng dầu sang nhiên liệu than.
- Lập các phương án cung ứng, vận tải đầu vào (than cám, Xỉ pyrit, phụ gia...) cho NMXM Hoàng Mai (Nghệ An), trước mắt Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng đã chuẩn bị về nguồn hàng, vận tải, bốc dỡ... để thực hiện việc cung ứng phục vụ sản xuất thử của nhà máy trong năm 2002.
Kế hoạch kinh doanh vật tư của Công ty trong năm 2002 được lập cụ thể như sau:
Bảng 9 :Kế hoạch kinh doanh vật tư của Công ty năm 2002
Mặt hàng
Sản lượng(tấn)
Đơn giá bình quân (đồng)
Doanh thu (1000đồng)
1.Than cám:
580.000
- Bỉm sơn
140.000
417.723
58.481.220
- Hoàng thạch
135.000
355.238
47.957.130
- Hải phòng
78.000
331.429
25.851.426
- Bút sơn
125.000
384.000
48.000.000
- Nghệ an
30.000
397.143
11.214.285
2. Xỉ Lâm thao
17.300
2.539.380
- Bỉm sơn
6.000
100.372
602.232
- Nghi sơn
11.300
171.429
1.937.148
3. Đá bô xít
15.000
186.364
2.795.460
4. Quặng sắt
15.000
101.363
1.520.445
5. Kinh doanh khác
56.647.338
Tổng
255.066.720
3.2. Một số biện pháp góp phần thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ và tăng DTTT trong thơì gian tới tại Công ty Vật tư- Vận tải - Xi măng
Xét đến cùng, mọi doanh nghiệp khi tiến hành mọi hoạt động SXKD đều nhằm mục tiêu là tăng được doanh thu để thu được lợi nhuận tối đa. Qua nghiên cứu tình hình tiêu thụ của Công ty Vật tư- Vận tải - Xi măng trong năm 2001, ta thấy công tác tiêu thụ hàng hoá dich vụ của công ty nhìn chung tương đối hiệu quả, doanh số tăng mặn ở một số mặt hàng chủ yếu như than cám, kinh doanh vận chuyển. Qua xem xét cũng thấy được những biện pháp mà công ty đã áp dụng để góp phần thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá, dich vụ, tăng DTTT như: đảmm bảo và nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ cung cấp; đa dạng hoá các hình thức tiêu thụ và phương thức thanh toán; và một số giải pháp mang tính chất đòn bẩy tài chính, cũng như một số giải pháp tạo điều kiện để thực hiện khác. Tuy nhiên, bên cạnh những vấn đề làm được đó, vẫn còn những tồn tại chưa tạo ra sự thúc đẩy tiêu thụ và tăng doanh thu như: hoạt động nghiên cứu mở rộng thị trường chưa được sâu rộng, quan tâm triệt để; tính cạnh tranh của hàng hoá, dich vụ cung cấp chưa cao, đặc biệt là cạnh tranh về giá cả; chưa thực sự chú trong đầu tư, đổi mới để phục vụ cho công tác tiêu thụ...
Trên cơ sở những định hướng kế hoạch phát triển công ty trong năm 2002 và những năm tới, cũng như xem xét những mặt tồn tại của công ty, mặc dù thời gian có hạn và kiến thức còn hạn chế nhưng em cũng xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp góp phần thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ và tăng doanh thu của công ty như sau:
Thứ nhất: Tăng cường công tác điều tra, nghiên cứu mở rộng thị trường tiêu thụ.
Nghiên cứu thị trường thực chất là nghiên cứu nơi mà công ty sẽ mua hoặc bán những sản phẩm, hàng hoá của mình. Đối với việc nghiên cứu thị trường tiêu thụ, đó là việc xác định khả năng tiêu thụ hay bán một mặt hàng, một nhóm hàng của công ty, trên cơ sở đó nâng cao được khả năng thích ứng với thị trường, chỉ kinh doanh và tiêu thụ những mặt hàng mà thị trường đòi hỏi.
Trong thời gian qua, công tác điều tra ngiên cứu thị trường của Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng tuy có được đề cập đến song thực hiện chưa sâu và còn nhiều bị động trong việc tìm kiếm, mở rộng khách hàng tiêu thụ. Thông tin về khách hàng mới chỉ được thu thập thông qua các đợt đi thanh toán tiền hàng và thông qua sự phản hồi thông tin từ phía TCTXMVN. Công ty chưa thực sự chú trọng và chủ động trong vấn đề này.
Với mục tiêu, phương hướng đặt ra trong những năm tới và trong năm 2002 là mở rộng khối lượng cung ứng vật tư phục vụ sản xuất xi măng, phấn đấu phục vụ tối đa nhu cầu phụ gia cho sản xuất xi măng của các NMXM; chuẩn bị cung ứng than cám Quảng Ninh cho NMXM Hà Tiên II sau khi nhà máy này đầu tư cải tiến từ sử dụng dầu sang sử dụng nhiên liệu than. Ngoài mục tiêu trên thì trong vấn đề mở rộng thị trường, Công ty cũng nên nghiên cứu có biện pháp để tiến tới cung cấp than cho NMXM Nghi Sơn và tiếp cận để cung cấp vật tư cho NMXM Hoàng Mai sẽ đi vào hoạt động trong thời gian sắp tới.
Để thực hiện các mục tiêu trên, trước hết cần thực hiện tốt công tác điều tra nghiên cứu thị trường mà cụ thể là việc tìm hiểu, thu thập thông tinvề các đối tượng khách hàng trên. Yêu cầu của công tác này đặt ra là Công ty phải chủ động điều tra để nắm bắt được các thông tin liên quan đến các khách hàng. Đối với các khách hàng cũ lâu năm của Công ty, Công ty không chỉ nắm bắt tình hình khách hàng đơn thuần qua việc nhận các thông tin phản hồi từ TCTXMVN và báo cáo của các cán bộ đi thu tiền hàng mà cần phải chủ động thu thập các thông tin về nhu cầu từng loại vật tư của họ để từ đó có những biên pháp tiếp cận để đáp ứng nhu cầu. Có thể cử cán bộ chuyên nghiên cứu về thị trường đến tận các nhà máy để nắm bắt, tìm hiểu cụ thể các thông tin về các nhu cầu này, ngoài ra cũng cần tổ chức các hội nghị khách hàng để thăm dò ý kiến của các khách hàng về chất lượng, giá cả... của các loại vật tư, hàng hoá nà Công ty đã cung cấp, từ đó phân tích, rút ra những điểm đạt được cũng như những điểm chưa đạt được để có biện pháp, đối sách phù hợp, góp phần giữ vững và mở rông khối lượng tiêu thụ cho các khách hàng này.
Đối với những khách hàng mà Công ty đang hướng tới như: NMXM Hà Tiên II, Nghi Sơn, Hoàng Mai…thì trước hết Công ty cần thu thập các thông tin cần thiết về các khách hàng này cả về đặc điểm sản xuất, cả về nhu cầu các loại vật tư, phụ gia mà các nhà máy này sẽ tiêu thụ, cố gắng tiếp cận để đi đến ký kết các hợp đồng tiêu thụ, trong vấn đề này, ngoài việc dựa vào sự tác động từ phía TCTXMVN thì Công ty cũng cần chủ động hơn trong việc thu thập và tổng hợp, phân tích thông tin một cách nhanh nhạy, kịp thời.
Để thực hiện tốt các vấn đề trên đòi hỏi Công ty phải tổ chức được một đội ngũ cán bộ chuyên điều tra, nghiên cứu thị trường, có nghiệp vụ kinh doanh, có kiến thức về marketing, có khả năng thu thập, tổng hợp và phân tích thông tin nhanh nhạy, xử lý thông tin tốt từ đó đưa ra các dự đoán chính xác về thị trường. Trước hết, trên cơ sở đội ngũ đang làm việc tại các phòng kinh doanh của Công ty hiện nay, Công ty nên lựa chọn để đào tạo sâu hơn nữa về chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ trong việc điều tra, nghiên cứu thị trường. Ngoài việc bỏ chi phí để đào tạo đội ngũ này thì Công ty cũng cần phải đầu tư cho họ các điều kiện làm việc, tạo mọi thuận lợi để họ thực hiện tốt nhất công tác của mình. Bên canh tổ chức bộ phận nnghiên cứu, phân tích thị trường tai văn phòng Công ty, thì Công ty cũng nên bố trí những cán bộ có chuyên môn tại các chi nhánh đặc biệt là các chi nhánh cuối nguồn để thu thập thông tin một cách nhanh chóng, kịp thời. Tuy nhiên, trong vấn đề này Công ty cũng cần phải cân nhắc một cách kỹ lưỡng giữa chi phí bỏ ra và hiệu quả thu được, tránh hiện tượng tổ chức quá rườm rà không hiệu quả làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động chung của Công ty.
Thứ hai: Tạo ra lợi thế cạnh tranh về giá thông qua việc hạ thấp giá thành sản phẩm. Chủ động trong việc điều hành giá cả.
Một trong những yếu tố quyết định sự thắng lợi trong canh tranh của mỗi doanh nghiệp đó là giá cả. Nếu giá cả thấp trong khi chất lượng sản phẩm vẫn được đảm bảo thì doanh nghiệp rất dễ dàng chiến thắng trong cạnh tranh. tuy nhiên để đáp ứng các yêu cầu trên thì doanh nghiệp cần phải có những biện pháp thích hợp để hạ thấp giá thành sản phẩm một cách hợp lý.
Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng là một doanh nghiệp thương mại- dịch vụ, thực hiện cung ứng các loại vật tư, hàng hoá, dịch vụ cho sản xuất xi măng, tuy có nhiều lợi thế hơn so với các đơn vị cung ứng vật tư phục vụ cho sản xuất xi măng khác, vừa là thành viên trong TCTXMVN, vừa có kinh nghiệm hoạt động lâu năm, chất lượng các hàng hoá, dịch vụ cung ứng tốt hơn các đơn vị khác song giá cả các loại hàng hoá, dịch vụ mà Công ty cung cấp lại rất cao, đây một khó khăn cho Công ty trong việc cạnh tranh về giá, đặc biệt là từ khi xuất hiện xu hướng các NMXM muốn mua các vật tư trực tiếp của các đơn vị cung cấp, TCTthan cũng theo đuổi mục tiêu bán than trực tiếp tại đầu nguồn; các NMXM muốn tự đảm nhận một phần clinker vận chuyển Bắc- Nam.
Mặc dù trong thời gian qua Công ty cũng đã có những biện pháp tích cực để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm như việc linh hoạt mua than của các đơn vị bán than khác ngoài TCTthan để có giá mua rẻ hơn, quản lý tốt hoạt động của đội xe để hạ thấp cước phí vận chuyển clinker từ 206.200 đồng/tấn xuống còn 198.000đồng/tấn ; thực hiện khoán chi phí điện thoại đến từng đơn vị, từng chi nhánh... Nhưng trong điều kiện cạnh tranh hiện nay hiệu quả của các biện pháp này mà Công ty đã áp dụng vẫn chưa thể đáp ứng được. Mặt khác, một vấn đề khó khăn mà hiện nay Công ty đang gặp phải đó là cơ chế giá hiện nay rất bị động, cơ chế giá không linh hoạt do hàng năm TCTXMVN vẫn xây dựng một cơ chế giá cụ thể đối với từng loại để làm căn cứ khống chế mức giá, gây khó khăn trong việc điều hành giá cả của Công ty.
Để thực hiện được mục tiêu hạ giá thành, tạo ra lợi thế trong cạnh tranh Công ty nên sử dụng một số giải pháp như sau:
- Tích cực chủ động trong việc tiềm kiếm nguồn hàng có giá mua rẻ, nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng đạt yêu cầu, đặc biệt đối với các lĩnh vực cung cấp than cám, không chỉ lấy than của TCT than mà có thể tìm các bạn hàng mới ngoài TCTcó giá rẻ hơn.
Bên cạnh việc chủ động tìm kiếm nguồn hàng thì việc củng cố mối quan hệ với các bạn hàng, tranh thủ những ưu đãi cũng là một biện pháp cần thiết.
Có thực hiện được tốt được các giải pháp này thì mới có thể giảm bớt giá bán thông qua việc hạ giá hàng mua vào.
- Tập trung đầu tư vào các phương tiện vận tải: Hiện nay mặc dù Công ty có hơn 250 đầu xe hoạt động song hoạt động còn kém hiệu quả, do chưa được đầu tư, sữa chữa thích đáng do đó giá thành cao làm cước phí vận chuyển cao, gây ra khó khăn trong việc tìm nguồn vận chuyển. Do đó, đầu tư sữa chữa bảo dưỡng là một biện pháp cần thiết.
- Thực hiện tốt hơn nữa công tác quản lý chất lượng, định mức hao hụt hầng hoá: Tăng cường quản lý chất lượng hàng hoá, giám sát chặt chẽ khâu giao nhận hàng hoá để giảm hao hụt đến mức thấp nhất. Tổ chức khảo sát việc giao nhận than tuyến ninh Bình - Bỉm Sơn để kịp thời đưa ra các biện pháp quản lý hữu hiệu kho than tại Ninh Binh.
- Quản lý chặt chẽ chi phí đặc biệt là chi phí của các chi nhánh và chi phí quản lý Công ty. Để thực hiện biẹn pháp này không chỉ dòi hỏi tổ chức mặt dân sự một cách hiệu quả, hợp lý, đúng người đúng việc mà còn phải quán triẹt tư tưởng tiết kiệm chi phí trong toàn Công ty.
Đối với văn phòng Công ty nên có những chính sách cụ thể trong từng lĩnh vực đối với từng chi nhánh. Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động SXKD tại các đơn vị cơ sở, kiên quyết không để thất thoát tài sản của Nhà nước.
Đối với các đơn vị cơ sở cần phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật và những văn bản cụ thể hoá cho Công ty. Đặc biệt trong lĩnh vực mua sắm trang thiết bị, đồ dùng, chi phí hội nghị, tiếp khách, chế độ công tác phí... phải thực hiện đúng theo quy định của Công ty.
Chỉ khi nào các vấn đề trên được thực hiện tốt thì Công ty mới có thể thực hiện được chiến lược hạ thấp giá bán để nâng cao khả năng cạnh tranh bên cạnh đó còn loại trừ được hiện tượng các NMXM muốn mua các loại vật tư trực tiếp tại đầu nguồn.
Ngoài ra,trong vấn đề giá cả, để có chính sách giá cả linh hoạt hơn, chủ động trong điều hành thì Công ty cũng nên có những kiến nghị đối TCTXMVN về vấn đề này.
Thứ ba: Tăng cường áp dụng các biện pháp kinh tế tài chính để thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ góp phần tăng DTTT.
Các biện pháp kinh tế tài chính có một vị trí xứng đáng trong việc thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ, nâng cao được khối lượng hàng hoá tiêu thụ và tăng được doanh thu cho Công ty. Ngoài ra áp dụng các biện pháp kinh tế tài chính còn góp phần cũng cố hơn mối quan hệ với khách hàng của Công ty, đặc biệt là đối với khách hàng lâu năm. Đây là hướng đi mà Công ty cũng đã áp dụng, song lĩnh vực, chủng loại mặt hàng áp dụng chưa đa dạng, mới chỉ áp dụng đối với mặt hàng xi măng còn các mặt hàng khác kể cả mặt hàng than cám vẫn chưa được áp dụng do đó chưa thực sự khuyến khích, hấp dẫn các khách hàng của Công ty. Để thúc đấy tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ và tăng DTTT Công ty cần phải áp dụng linh hoạt các biện pháp tài chính, có thể thực hiện theo các hướng sau:
- Thực hiện giảm giá, bớt giá cho một số trường hợp nhất định.
Để khuyến khích khách hàng mua sản phẩm của Công ty thì cần phải quy định mức giảm giá phù hợp với từng định mức khối lượng tiêu thụ được. Khách hàng phải mua với một số lượng đạt đến mức quy định thì mới được giảm giá và Công ty có thể áp dụng hình thức giảm giá luỹ tiến tức là khối lượng hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ được càng lớn thị tỷ lệ giảm giá càng cao như công ty phải xem xét việc quy định tỷ lệ giảm giá có đảm bảo doanh thu, lợi nhuận của Công ty hay không. Bên cạnh đó Công ty có thể giảm giá trong các mùa xây dựng, đây là thời điểm khối lượng tiêu thụ xi măng lớn nhất và công suất hoạt động của các NMXM cũng rất lớn.
Ngoài ra đối với những khách hàng thường xuyên, khách hàng lâu năm cũng nên có hình thức khuyến mại phù hợp để tăng cường mối quan hệ, góp phần mở rộng và tăng khối lượng tiêu thụ.
- áp dụng hình thức chiết khấu có sự điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế của Công ty.
Thực hiện chiết khấu bán hàng nhằm khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh, hạn chế nợ nần dây dưa nhằm nhằm hoàn thành kế hoạch doanh thu và đảm bảo vốn cho kinh doanh. Hình thức chiết khấu này chưa được Công ty áp do vậy, trong thời gian tới Công ty cũng nên xem xét để áp dụng. Tuy nhiên, trong việc áp dụng hình thức chiết khấu Công ty cần đưa ra được tỷ lệ chiết khấu thích hợp để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Việc đưa ra tỷ lệ chiết khấu của Công ty phải đặt trong mối liên hệ với lãi suất vay vốn ngân hàng, bởi vì khi cho khách hàng trả chậm thì trong thời gian đó, để đảm bảo quá trình SXKD Công ty phải tiến hành vay vốn ngân hàng. Do đó Công ty cần phải xác định được hiệu quả đem lại từ việc thực hiện chiết khấu bán hàng. Công ty có thể áp dụng nhiều tỷ lệ chiết khấu khác nhau tuỳ theo từng thời hạn thanh toán chẳng hạn thanh toán càng nhanh thì được hưởng tỷ lệ chiết khấu càng cao và ngược lại, tuy nhiên phải luôn ràng buộc bởi lãi suất vay vốn ngân hàng. Và tất nhiên nếu thanh toán chậm sẽ phải trả lãi suất quá hạn theo lãi suất vay vốn ngân hàng. Với các mức tỷ lệ chiết khấu như vậy sẽ hấp dẫn được khách hàng trong việc thanh toán nhanh cho Công ty, tạo điều kiện cho việc đảm bảo về vốn cho hoạt động SXKD của Công ty, đáp ứng được yêu cầu của công tác tiêu thụ.
- Thực hiện hồi khấu, tặng quà cho khách hàng.
Cũng như hai biện pháp trên thì hồi khấu cải thiện mối quan hệ giữa Công ty với các khách hàng, tăng cường sự hợp tác lâu dài từ đó đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ của Công ty. Muốn thực hiện việc hồi khấu cho khách hàng thì hàng quý Công ty phải lập bảng theo dõi công nợ của từng khách hàng qua đó đối chiếu lựa chọn ra những khách hàng làm tốt công tác thanh toán và mua với khối lượng lớn sẽ được hưởng một khoản giảm trừ nhất định trên tổng số tiền mà khách hàng đã thanh toán. Và tại Hội nghị các khách hàng mà Công ty tổ chức được, Công ty có thể thông báo cho khách hàng biết nhằm khuyến khích việc thanh toán nhanh và tiêu thụ nhiêù sản phẩm cho Công ty.
Ngoài ra thì Công ty có thể thực hiện tặng quà cho các khách hàng nếu họ làm tốt công tác thanh toán cho Công ty.
Thứ tư: Hoàn thiện công tác tổ chức bán hàng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay không thể duy trì cách bán hàng thụ động mà doanh nghiệp phải chủ đông tìm đến với các khách hàng. Do vậy, công tác tổ chức bán hàng cũng cần được quan tâm, chú trọng hơn.
Để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT thì công tác tổ chức bán hàng cần được quan tâm trên một số khía cạnh chủ yếu sau:
- Hệ thống chi nhánh bán hàng: Với hệ thống các chi nhánh rộng khắp của Công ty như hiện nay, để nó thực sự có tác động tích cực đến công tác tiêu thụ sản phẩm thì Công ty cần tập trung hơn nữa cho đầu tư xây dựng, nâng cấp và phát triển hệ thống kho tàng, bến bãi góp phần đảm bảo dư trữ hàng hoá đủ mức cần thiết và chất lượng hàng hoá không bị ảnh hưởng nhất là những loại dễ bị thấm ẩm như clinker. than cám...
Đồng thời với những chi nhánh cuối nguồn, thực hiện khâu giao hàng hoá cho các khách hàng cần được đầy đủ, thoả đáng cả về cơ sở vật chất và việc đào tạo, tuyển chọn đội ngũ lao động ở các chi nhánh này.
Công ty phải thường xuyên theo dõi, giám sát hoạt động của các chi nhánh, đặc biệt là các chi nhánh cuối nguồn cần có những chính sách để nâng cao hiệu quả công tác tiêu thụ, một số biện pháp có thể áp dụng như:
+ Khoán doanh số bán hàng cho các chi nhánh để hưởng lợi.
+ Thưởng cho đơn vị, cá nhân nào có quan hệ tốt với khách hàng.
+ Thưởng cho những sáng kiến mới về tiếp thi, cải tiến công tác quản lý Công ty.
- Tiếp tục đa danhg hoá hình thức thanh toán đồng thời cũng cần tăng cường kỷ luật thanh toán.
Để tạo điều kiện cho khách hàng trong việc thanh toán tiền hàng, Công ty cần tiếp tục đa dạng các hình thức thanh toán. Muốn vậy, Công ty phải có đội ngũ cán bộ thanh toán năng động có trình độ, nắm bắt thu thập các thông tin cần thiết về khả năng thanh toán của các khách hàng, nắm bắt được sự biến động của lãi suất ngân hàng, tỷ lệ chiết khấu tín dụng. Đồng thời với việc áp dụng nhiều hình thức thanh toán, Công ty cần phải thắt chặt thêm kỷ luật thanh toán vì hiện nay việc thu hồi tiền hàng rất chậm gây khó khăn về vốn, từ đó không đảm bảo tiến độ thanh toán cho các nhà cung cấp theo thoả thuận, làm giảm uy tín của Công ty trong quan hệ làm ăn với các bạn hàng. Việc cho phép thanh toán chậm trong điều kiện thanh toán lỏng lẻo cũng sẽ dẫn đến sự thiếu linh hoạt trong khâu bán hàng của các chi nhánh. Để khắc phục tình trạng này, Công ty cần phải nghiên cứu thời gian chậm trả ở một thời hạn phù hợp để vừa khuyến khích tiêu thụ vừa đảm bảo tiến độ kinh doanh. Công ty cũng cần quy định rõ về điều kiện được chậm trả, đó là quy định rõ việc khách hàng mua với khối lượng lớn bao nhiêu thì được chậm trả và được chậm trả trong thời gian bao lâu, điều đó cần phải được cụ thể, rõ ràng. Trong việc thanh toán tiền hàng cũng phải thực hiện nghiêm túc, tránh sự nể nang và hàng tháng yêu cầu khách hàng đối chiếu công nợ, lập biên bản xác nhận công nợ, đốc thúc các khoản nợ đến hạn và nếu khách hàng nợ lâu mà không có lý do chính đáng thì ngoài việc tính lãi suất quá hạn thì Công ty có thể phạt tiền, thu hồi tài sản. Đối với bản thân Công ty cũng cần phải phân định rõ các hợp đồng mua, hợp đồng bám để thuận tiện cho vịc thực hiện các vấn đề trên.
- Tăng cường công tác thông tin quảng cáo.
Đây là một trong những hoạt động quan trọng nhằm tăng khối lượng hàng hoá tiêu thụ. Đây chính là một phương thức giao dịch thương mại, là công cụ chủ chốt của hệ thống thông tin thương mại. Suy cho cùng quảng cáo là kích thích việc mua các loại vật tư hàng hoá, tránh nguy cơ tụt hậu cho doanh nghiệp. Một trong những nguyên nhân mà Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng chưa có được thị phần rộng lớn trên thị trường trong nước và nước ngoài đó là do công tác thông tin quảng cáo để khuyến khích tiêu thụ chưa được chú trọng. Công ty chưa có bộ phận riêng phụ ttrách vấn đề quảng cáo, vì vậy cần phải tổ chức một bộ phận, có thể nằm trong phòng kế hoạch hay phòng marketing để đảm nhận công tác này.
Công tác quảng cáo cần tập trung vào các đơn vị, cơ sở sản xuất xi măng không chỉ đối với NMXM trong TCTXMVN mà cần hướng tới phục vụ cho các công ty xi măng khác kể cả xi măng liên doanh. Công ty có thể thực hiện quảng cáo trên các tạp chí, các tuần báo như: tạp chí Xây dựng, tạp chí Thương mại, tạp chí Thị trường và giá cả, báo Đầu tư... Một đòi hỏi trong việc thực hiện quảng cáo hiện nay là phải tiết kiệm được chi phí song vẫn đảm bảo được hiệu quả, do vậy cần nghiên cứu kỹ và có chiến lược cụ thể về vấn đề này.
Thứ năm: Tăng cường đầu tư, nâng cao hơn nữa hiệu qquả hoạt động của lĩnh vực vận chuyển
Mặc dù trong năm 2001, hoạt động của đoàn vận tải đã có những bước tiến đáng kể, hoàn thành tốt nhiệm vụ vận chuyển clinker Bắc- Nam song xét trên phương diện hiệu quả hoạt động của lĩnh vực này nhìn chung chưa hiệu quả. Do vậy, để hoạt động của đoàn vận tải có hiệu quả, tăng khối lượng vận chuyển, góp phần tăng DTTT thì Công ty nên áp dụng một số biện pháp cơ bản sau:
- Công ty cần phải tổ chức hợp lý quá trình vận chuyển từ nơi mua đến nơi bán, kết hợp tối đa vận chuyển hai chiều như tuyến Quảng Ninh- Ninh Bình, Quảng Ninh - Bút Sơn.
- Tận dụng hết năng lực của phương tiện vận tải thông qua việc điều phối đầu xe linh hoạt hơn và bố trí công tác bảo dưỡng hợp lý nhằm giảm thiểu thời gian chết của đội xe.
- Rà soát lại định mức tiêu hao của các phương tiện vận tải hiện có của Công ty, gồm các định mức tiêu hao nhiên liệu, định mức chi phí giờ.
- Kết hợp những đơn vị vận tải truyền thống( đã có quan hệ lâu dài) để tìm ra các hình thức liên doanh, liên kết: Công ty có nguồn hàng và các đơn vị có phương tiện.
- Tuyển chọn và khen thưởng kịp thời các cán bộ có năng lực, có trình độ tổ chức, quản lý tốt ccông tác tiêu thụ và điều hành có hiệu quả vận chuyển, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tiêu thụ.
Thứ sáu: Nâng cao chất lượng công tác tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động. Khai thác, tạo lập và sử dụng vốn có hiệu quả
Đây là nhóm giải pháp cơ bản, tiền đề để thực hiện hàng loạt các giải pháp trên nhằm thúc đẩy tiêu thụ và tăng DTTT. Chính vì vậy, thực hiện tốt các vấn đề trên sẽ có tác động không nhỏ tới côngtác tiêu thụ.
* Đối với việc nâng cao chất lượng công tác tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động, có thể xem xét các mặt sau:
- Đầu tư hơn nữa vào việc nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý, tạo mọi điều kiện để những người có năng lực phát triển.
- Thường xuyên tổ chức một cách có hiêu quả buổi thảo luận để đề ra các phương hướng, biện pháp, cách thức quản lý phù hợp cũng như rút kinh nghiệm những vấn đề chưa làm được trong công tác quản lý.
* Đối với việc khai thác, tạo lập và sử dụngvốn có hiệu quả.
Để hoạt động SXKD nói chung và công tác tiêu thụ nói riêng được thông suốt thì một trong những vấn đề quan trọng đó là phải đảm bảo được vấn đề về vốn. Do vậy, để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT việc khai thác tạo lập vốn cũng như tổ chức sử dụng vốn một cách có hiệu quả là một vấn đề quan trọng Công ty cần quan tâm thoả đáng, Công ty cần xem xét một số biện pháp sau:
Đối với vốn lưu động, đây là bộ phận chủ yếu trong cơ cấu vốn kinh doanh của Công ty, là một bộ phận rất quan trọng, tác động lớn đến hiệu quả của công tác tiêu thụ. Để đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn lưu động phục vụ cho hoạt động SXKD nói chung và cho công tác tiêu thụ nói riêng thì Công ty có thể khai thác, tạo lập từ một số nguồn chủ yếu như: vốn lưu động do TCTXMVN cấp ban đầu và cấp bổ sung hàng năm; vốn chiếm dụng đương nhiên (của các nhà cung cấp là chủ yếu); vốn vay ngân hàng... Mỗi loại vốn trên khi sử dụng đều có những ưu, nhược điểm nhất định, do vậy sử dụng nguồn nào cần phải được cân nhắc đến để lựa chọn nguồn vốn phù hợp nhất có khả năng đêm lại hiêu quả cao nhất.
Hiện nay, trong cơ cấu vốn lưu động của Công ty chiếm tỷ trọng nhiều nhất vẫn là nguồn vốn chiếm dụng đương nhiên, chiếm tới 78,7% tổng vốn lưu động trong khi vốn lưu động tự có chỉ chiếm 21,3% tổng vốn lưu động(tính theo thời điểm 31/12/200), như vậy tỷ lệ này là chưa hợp lệ, đây đang là xu thế chung mà các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay đang gặp phải do còn gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn, đặc biệt là huy động từ nguồn vốn vay ngân hàng. Trong thời gian tới Công ty cần phải có phương hướng cụ thể để điều chỉnh tỷ lệ này cho hợp lý, nâng cao tỷ trọng vốn tự có, để góp phần lành mạnh hoá tình hình tài chính của Công ty.
Đối với vốn cố định, tuy vốn cố định chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn kinh doanh của Công ty song nhu cầu đầu tư đổi mới trang thiết bị, đặc biệt là đầu tư cho đoàn vận tải của Công ty là rất cần thiết. Cho nên Công ty cũng nên có phương hướng khai thác, tạo lập vốn để đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu này. Các nguồn vốn đáp ứng được nhu cầu này mà hiện nay Công ty đang sử dụng bao gồm các nguồn như nguồn vốn khấu hao, quỹ đầu tư phát triển. Tuy nhiên, trong việc sử dụng các nguồn vốn này chưa thực sự hiệu quả do còn nhiều bất cập trong việc quy định của TCTXMVN về các tỷ lệ trích nộp các quỹ trên cũng như việc bị động trong việc quản lý, sử dụng các quỹ trên. tỷ lệ trích nộp
Sau khi Công ty tiến hành trích lập quỹ thì sẽ nộp toàn bộ quỹ khấu hao lên TCTXMVN, khi có nhu cầu đầu tư thì làm thủ tục rất phức tạp và lâu, gây ra rất nhiều khó khăn cho Công ty trong quá trình thực hiện các kế hoạch kinh doanh của mình. Do vậy, Công ty nên có ý kiến đề xuất với TCTXMVN về các vấn đề này: quy định lại tỷ lệ trích nộp cho phù hợp; có ý kiến đề xuất xin để lại một phần hoặc toàn bộ quỹ khấu hao tại Công ty để Công ty chủ động hơn trong việc sử dụng nguồn vốn quỹ này.
Bên cạnh đó để đáp ứng nhu cầu vốn cố định phục vụ cho việc đầu tư các tài sản cố định của Công ty và góp phần nâng cao hiệu quả vốn thì trong thời gian tới Công ty cũng nên áp dụng hình thức thuê tài chính đây là một hình thức hoạt động có nhiều ưu điểm đối với thực tế của Công ty hiện nay, bởi vì hiện nay trong việc vận chuyển các hàng hoá mua được Công ty vẫn phải thực hiện thêm việc thuê ngoài vận chuyển do vậy không chủ động trong công tác mua hàng từ đó làm ảnh hưởng tới việc thực hiện công tác tiêu thụ, trong khi đó với hình thức thuê tài chính không chỉ góp phần tăng tính chủ động của Công ty mà còn làm giảm đáng kể các chi phí. Do vậy trong thời gian tới Công ty nên nghiên cứu để áp dụng hình thức này.
Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động SXKD, phục vụ cho công tác tiêu thụ của Công ty thì Công ty cũng nên xem xét việc huy động vốn từ cán bộ công nhân viên, đây là biện pháp có nhiều ưu điểm, không chỉ đáp ứng được nhu cầu vốn kinh doanh cho Công ty mà còn nâng cao được trách nhiệm của cán bộ công nhân viên đối với hoạt động SXKD của Công ty, hiện nay Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng chưa áp dụng hình thức này nên trong thời gian tới Công ty cũng nên sớm đưa hình thức huy động này vào thực tế của Công ty nhằm phát huy những lợi thế của nó.
Trong việc tổ chức sử dụng vốn một cách có hiệu quả thì Công ty cần phải thường xuuyên kiểm tra theo dõi các nguồn vốn huy động được, tránh tình trạng sử dụng sai mục đích.
Trước mắt đối với các nguồn vốn, cơ sở vật chất hiện có của Công ty, để nâng cao hiệu quả sử dụng cần có các biện pháp sau:
- Tổ chức bố trí hoạt động của các chi nhánh, các khâu một cách khoa học, hợp lý.
- Theo dõi đầy đủ kịp thời thông qua hệ thống sổ sách, chứng từ có liên quan đến việc sử dụng các nguồn vốn hiện có.
- Đôn đốc công nợ, rà soát, theo dõi sát sao các khoản công nợ đặc biệt là các khoản nợ đến hạn. Trong vấn đề đôn đốc các khoản phải thu Công ty cần phải xây dựng kế hoạch cụ thể.
Mục lục
A. Lời mở đầu
B. Nội dung
Chương 1:
C. Phần Kết luận
D. Danh mục tài liệu tham khảo
E. Nhận xét
Bảng 2: Kết qủa tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ của Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng năm 2001
Mặt hàng
ĐVT
Dư đầu kỳ
Mua vào trong kỳ
Tồn cuối kỳ
Tiêu thụ trong kỳ
Đơn giá bình quân (đồng)
Doanh thu (Triệu đồng)
Tỷ trọng%
1
2
3
4
5
6 = 3 +4 - 5
7
8= 6 x 7
1 Than cám
Tấn
26.094
507.554
36.648
497.000
182.121
55,04
-Cám 3
Tấn
23.601
444.313
31.914
436.000
370.000
161.320
-Cám 4a
Tấn
2.493
63.241
4.734
61.000
341.000
20.801
2. Các phụ gia
Tấn
5.418,78
1,64
-Xỉ pyrit
Tấn
20
20.039
3.613
16.500
145.000
2.392,5
-Đá bô xit
Tấn
533
12.010
2.313
10.230
186.000
1.902,78
-Quặng sắt
Tấn
-
6.811
1.111
5.700
135.000
769,5
-Cát tiêu chuẩn
Tấn
2
13,3
0,016
15,284
17.084.000
261,1
- Đá đen
-
1.659
-
1.659
56.000
92,9
3. Xi măng
Tấn
3.440
88.420
60.449,85
18,25
-XM Hoàng Thạch
Tấn
1.610
55.708
2.718
56.430
687.000
38.767,41
-XM Hải Phòng
Tấn
1.106
12.993
1.263
13.340
710.000
9.471,4
-XM Bút Sơn
Tấn
-
13.569
1.095
13.580
661.000
8.976,38
-XM khác
Tấn
-
-
-
5.070
638.000
3.234,66
4. Vận chuyển
Tấn
80.731
24,35
-Clinker
Tấn
394.000
198.000
78.012
-Than
Tấn
53.000
21.000
1.113
-Vận chuyển khác
Tấn
1.606
5. Kinh doanh khác
Tấn
2.134,37
0,72
Cộng
330.855
100
Bảng 3: Bảng phân tích kết quả tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ năm 2000 và năm 2001 của Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng
Mặt hàng
Năm 2000
Năm 2001
So sánh tăng, giảm
Sản lượng
Doanh thu
Sản lượng ( tấn)
Doanh thu (triệu đồng)
Sản lượng (tấn)
Doanh thu (triệu đồng)
Mức tăng, giảm (tấn)
Tỷ lệ (%)
Mức tăng, giảm(triệu đồng)
Tỷ lệ (%)
1. Than cám
394.000
147.272
497.000
182.121
+103.000
+26,2
+34.849
+23,6
2. Các phụ gia
7.441
6002,1
-1.438,9
-19,3
- Xỉ pyrit
18.447
1.855
16.500
2.392,5
-1.947
-10,6
+537,5
+28,9
- Đá bô xít
5.505
1.051
10.230
1.902,78
+4.725
+85,8
+851,78
+81,0
- Quặng sắt
4.771
486
5.700
769,5
+929
+19,5
+283,5
+58,3
- Cát tiêu chuẩn ISO
2,7
46
15,284
261,1
+12,584
+466
+215,1
+467,6
- Thạch cao
11.233
3.859
-
-
-11.233
-100
-3.859
-
- Giấy Craff
24,526
144
-
-
-24,526
-100
-144
-
- Đá đen
-
-
1.659
92,9
+1.659
-
+92,9
-
3. KD xi măng
346.304
247.243
88.420
60.449,85
-257.884
-74,5
-186.793,15
-75,5
4. Vận chuyển
59.175
447.000
80.731
+21.556
+36,4
- Clinker
281.613
56.582
394.000
78.012
+112.387
+40,0
+21.430
+37,7
- Than
63.345
1.340
53.000
1.113
-10.345
-16,3
-227
-16,9
- Vận chuyển khác
1.253
1.606
+353
+28,2
5. Kinh doanh khác
2.981
2.134,37
-846,63
-28,4
Cộng:
464.112
330.855
-133.257
-28.7
Bảng 1: Kế hoạch tiêu thụ hàng, dịch vụ của Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng năm 2001
Mặt hàng
ĐVT
Dư đầu kỳ
Mua vào trong kỳ
Tồn cuối kỳ
Tiêu thụ trong kỳ
Đơn giá bình quân (đồng)
Doanh thu (triệu đồng)
1
2
3
4
5
6 = 3 +4 - 5
7
8= 6 x 7
1 Than cám
Tấn
25.000
440.000
15.000
450.000
164.032
-Cám 3
Tấn
25.000
384.000
15.000
394.000
368.000
144.992
-Cám 4a
Tấn
-
56.000
-
56.000
340.000
19.040
2. Các phụ gia
Tấn
6.002,1
-Xỉ pyrit
Tấn
20
19.000
20
19.000
145.000
2.755
-Đá bô xit
Tấn
530
12.000
530
12.000
186.000
2.232
-Quặng sắt
Tấn
-
6.000
-
6.000
135.000
810
-Cát tiêu chuẩn
Tấn
-
12
-
12
17.091.000
205,1
3. Xi măng
Tấn
-
82.000
-
82.000
57.192
-XM Hoàng Thạch
Tấn
-
56.000
-
56.000
700.000
39.200
-XM Hải Phòng
Tấn
-
13.000
-
13.000
714.000
9.282
-XM Bút Sơn
Tấn
-
13.000
-
13.000
670.000
8.710
4. Vận chuyển
Tấn
75.072
-Clinker
Tấn
360.000
206.200
74.160
-Than
Tấn
57.000
16.000
912
5. Kinh doanh khác
Tấn
2.841
Cộng
305.139,1
Sơ đồ 2 : Sơ đồ tổ chức hệ thống kế toán của Công ty
Kế toán TSCĐ, trích khấu hao TSCĐ, trích nộp tiền thu sử dụng vốn, quản lý đầu tư XDCB, sửa chữa lớn
Kế toán công cụ dụng cụ, quản lý và cấp phát hoá đơn.
Các chi nhánh hạch toán báo sổ: Quảng Ninh, Hải phòng, Bỉm Sơn, Hoàng Thạch Bút Sơn, Phú Thọ, Đoàn vận tải , TT kinh doanh
Kế toán tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tạm ứng
Kế toán theo dõi công nợ phải thu, công nợ phải trả.
Kế toán theo dõi thuê vận chuyển.
Xử lý số liệu trên máy vi tính
Kế toán theo dõi chi tiêu các đơn vị trực thuộc
Chi nhánh Phả Lại
Tổng hợp quyết toán
Các loại sổ chi tiết hàng mua bán, công nợ
Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh
Bảng cân đối kế toán
Bảng 04: Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ năm 2001 của Công ty Vật tư- Vận tải- Xi măng
Mặt hàng
Sản lượng tiêu thụ (Tấn)
Đơn giá bình quân (Đồng )
Doanh thu tiêu thụ (1000 đồng)
KH
TT
So sánh (±)
KH
TT
So sánh (±)
KH
TT
So sánh (±)
Số tiền
Tỷlệ (%)
Số tiền (±)
Tỷlệ
(%)
Số tiền
Tỷ lệ (%)
1. Than cám
450.000
497.000
+47.000
+10,4
164.032
182.121
+18.089
+11
- Cám 3
394.000
436.000
+42.000
+10,7
368.000
370.000
+2.000
+0,5
144.992
161.320
+16.328
+11,3
- Cám 4a
56.000
61.000
+5.000
+8,9
340.000
341.000
+1.000
+0,3
19.040
20.801
+1.761
+9,2
2.Các phụ gia
37.012
34.104,23
6.002,1
5.418,78
-583,3
-9,7
- Xỉ pyrit
19.000
16.500
-2.500
-13,2
145.000
145.000
-
-
2.755
2.392,5
-362,5
-13,2
- Đá bôxit
12.000
10.230
-1.770
-14,8
186.000
186.000
-
-
2.232
1.902,78
-329,2
-14,8
- Quặng sắt
6.000
5.700
-300
-5,0
135.000
135.000
-
-
810
769,5
-40,5
-5,0
- Cát tiêu chuẩn
12
15,284
+3,284
+27,4
17.091.000
17.084.000
-7.000
-0,04
205,1
261,1
+56
+27,3
-Đá đen
-
1.659
+1.659
-
56.000
-
-
-
92,9
+92,9
-
3. Xi măng măng
82.000
88.420
+6.420
+7,8
-
-
57.192
60.449,85
+3.257,85
+5,7
- Hoàng Thạch
56.000
56.430
+430
+0,8
700.000
687.000
-13.000
-1,9
39.200
38.767,41
-432,6
-1,1
- Hải Phòng
13.000
13.340
+340
+2,6
714.000
710.000
-4.000
-0,6
9.282
9.471,4
+189,4
+2
- Bút Sơn
13.000
13.580
+580
+4,5
670.000
661.000
-9.000
-1,3
8.710
8.976,38
+266,38
+3,1
- Xi măng khác
-
5.070
5.070
-
-
638.000
-
-
-
3.234,66
+3.234,66
-
4.Vận chuyển
417.000
447.000
75.072
80.731
+5.659
+7,5
- Clinker
360.000
394.000
+34.000
+9,4
206.200
198.000
-8.200
-4,0
74.160
78.012
+3.852
+5,2
- Than
57.000
53.000
-4.000
-7,1
16.000
21.000
+5.000
+31,3
912
1.113
+201
+22
-Vận chuyểnạ khác
-
-
1.606
+1.606
-
5. KD khác
2.841
2.134,37
-706,63
-24,9
Cộng
305.139,1
330.855
+25.715,9
+8,43
Bảng 07: Bảng tổng hợp mức độ của các nhân tố đến doanh thu tiêu thụ
ĐVT: Triệu đồng
Mặt hàng
ảnh hưởng của nhân tố só lượng đến doanh thu tiêu thụ
ảnh hưởng của nhân tố kết cấu đến doanh thu tiêu thụ
ảnh hưởng của nhân tố giá bán đến doanh thu tiêu thụ
Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến doanh thu tiêu thụ
1. Than cám
- Cám 3
+15.224,16
+231,84
+872
+16.238
- Cám 4a
+1.999,2
-299,2
+61
+1.761
Cộng:
+17.223,36
-67,3
+933
+18.089
2. Phụ gia
- Xỉ pyrit
-339,967
-22,533
-
-362,5
- Đá bô xít
-275,43
-53,79
-
-329,2
- Quặng sắt
-99,95
+59,45
-
-40,5
- Cát tiêu chuẩn
-25,32
+81,43
-0,12
+56
Cộng:
-740,667
+64,557
-0,12
-676,23
3. Xi măng
- Hoàng thạch
+3.057,6
-2.819,6
-670,6
-432,6
- Hải Phòng
+724
-481,24
-53,36
+189,4
- Bút Sơn
+679,38
-290,78
-122,2
+266,38
Cộng:
+4.460,98
-3.591,62
-846,16
+23,18
4. Vận chuyển
- Clinker
+5.416,7
+1.666,1
-3.230,8
+3.852
- Than
+65,7
-129,7
+265
+201
Cộng:
+5.482,4
+1.536,4
-2.965,8
+4.053
Tổng hợp mức độ ảnh hưởng
+26.426,073
-2.058,023
-2.879,08
+21.488,95
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0240.doc