Năm 2017 là năm đầu tiên thực hiện
việc lập đề nghị xây dựng VBQPPL theo
quy trình chính sách, nhưng rõ ràng là đã
có sự lúng túng của Chính phủ, của các cơ
quan, tổ chức có liên quan khi triển khai quy
định mới này. Mặc dù đã được chuẩn bị từ
rất sớm, ngay khi Luật Ban hành VBQPPL
năm 2015 có hiệu lực nhưng quy trình lập đề
nghị xây dựng luật, pháp lệnh vẫn chưa đạt
được ý tưởng của nhà làm luật là xây dựng
một quy trình xây dựng chính sách thực sự
hiệu quả. Đối với các địa phương thì hầu
như việc triển khai xây dựng nghị quyết của
HĐND theo quy trình chính sách rất hạn chế
do đây là vấn đề mới mà địa phương chưa
từng được tiếp cận; việc hướng dẫn đánh giá
tác động của chính sách cũng chưa thực sự
hiệu quả nên hầu hết các địa phương chưa
chủ động trong việc xây dựng nghị quyết
của HĐND theo quy trình chính sách. Sự
lúng túng trong việc thực hiện quy trình xây
dựng chính sách, trong đó có đánh giá tác
động của chính sách, một phần xuất phát từ
quy định của Luật và Nghị định số 34 chưa
thực sự rõ ràng và phần lớn xuất phát từ việc
cơ quan nhà nước chưa bắt nhịp được với
những thay đổi cơ bản trong quy trình lập
pháp với những đòi hỏi phức tạp về hồ sơ và
yêu cầu, đòi hỏi khắt khe về trình tự, thủ tục.
Để khắc phục những hạn chế trong
việc thực hiện quy trình chính sách, Bộ Tư
pháp đã có những hướng dẫn cụ thể về xây
dựng chính sách và đánh giá tác động của
chính sách. Có thể tin tưởng rằng, với việc
hướng dẫn cụ thể, bồi dưỡng nghiệp vụ
thường xuyên về xây dựng chính sách, đánh
giá tác động của chính sách cộng với tâm
huyết của những người làm công tác xây
dựng pháp luật, chúng ta sẽ có được những
chính sách đồng bộ, khả thi, đáp ứng được
yêu cầu của đời sống xã hội
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 211 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vướng mắc về xây dựng chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bài viết phân tích những bất cập, hạn chế trong quy trình xây dựng
chính sách hiện hành, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng xây dựng chính sách trong quy trình xây dựng và ban
hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bùi Thu Hằng*
Abstract:
This article provides analysis of the limitations, shortcomings in
the current policy making process and also recommendations for
solutions to improve the quality of policy developments in the process
of developing and promulgating the legal documents and laws.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật; quy trình chính
sách; thẩm định chính sách
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 14/06/2017
Biên tập: 02/08/2017
Duyệt bài: 07/08/2017
Article Infomation:
Keywords: Development of legal
documents; policy process; policy
appraisal
Article History:
Received: 14 Jun 2017
Edited: 02 Aug. 2017
Appproved: 07 Aug. 2017
* Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật - Bộ Tư pháp
NHỮNG VƯỚNG MẮC VỀ XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH
TRONG ĐỀ NGHỊ XÂY DỰNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1. Mối quan hệ giữa chính sách và pháp luật
1.1 Khái niệm chính sách
Khái niệm “chính sách” được sử dụng
phổ biến trong quy trình xây dựng và ban
hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL).
Ngay từ khi Luật Ban hành VBQPPL năm
1996 ra đời, khái niệm “chính sách” đã xuất
hiện trong mục đích ban hành Luật này: “để
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây
dựng pháp luật, kịp thời thể chế hoá đường
lối, chính sách của Đảng, đáp ứng yêu cầu
quản lý xã hội bằng pháp luật, xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam”.
Như vậy, có thể nói rằng, việc xây
dựng chính sách đã được đưa vào quy trình
lập pháp từ năm 1996, tuy nhiên, quy trình
xây dựng chính sách chưa rõ ràng và cụ thể
như quy định của Luật Ban hành VBQPPL
năm 2015. Điều 22 Luật Ban hành VBQPPL
năm 1996 quy định: “Lập chương trình,
thông qua chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh được xây dựng trên cơ sở đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh và yêu cầu quản lý nhà nước trong từng
thời kỳ, bảo đảm các quyền, nghĩa vụ của
công dân”.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
39Số 20(348) T10/2017
Vấn đề xây dựng chính sách và đánh
giá tác động của chính sách được đặc biệt đặt
ra kể từ khi sửa đổi Luật Ban hành VBQPPL
vào năm 2008. Tuy nhiên, trong giai đoạn
này, việc tiếp cận trong xây dựng chính sách
chủ yếu chỉ tập trung xây dựng chính sách
đối với hình thức luật, pháp lệnh, nghị quyết
của Quốc hội, nghị quyết của Ủy ban thường
vụ Quốc hội (UBTVQH). Chỉ đến khi xây
dựng Luật Ban hành VBQPPL năm 2015,
khái niệm chính sách, quy trình xây dựng
chính sách, thẩm định chính sách và việc
mở rộng phạm vi loại văn bản cần xây dựng
theo quy trình chính sách mới được đặt ra.
Mặc dù Luật Ban hành VBQPPL năm
2015 không giải thích thuật ngữ chính sách
nhưng để cụ thể hóa quy định của pháp luật,
Nghị định số 34/2016/NĐ-CP của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật Ban hành VBQPPL (sau
đây gọi là Nghị định số 34) giải thích thuật
ngữ “chính sách” như sau: “Chính sách là
định hướng, giải pháp của Nhà nước để giải
quyết vấn đề của thực tiễn nhằm đạt được
mục tiêu nhất định”.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện
đã nảy sinh nhiều vấn đề khác nhau liên
quan đến thuật ngữ “chính sách”. Cụ thể là:
Thứ nhất, nếu “chính sách” là định
hướng, giải pháp của Nhà nước thì liệu có
bao quát hết quy định tại khoản 2 Điều 19
Luật Ban hành VBQPPL năm 2015: “Các
biện pháp cụ thể để tổ chức thi hành Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của UBTVQH, lệnh, quyết
định của Chủ tịch nước; các biện pháp để
thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách,
thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục,
y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối
ngoại, chế độ công vụ, cán bộ, công chức,
viên chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và
các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lý,
điều hành của Chính phủ...” và khoản 3 Điều
19: “Vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của
Quốc hội, UBTVQH nhưng chưa đủ điều
kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để
đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý
kinh, tế, quản lý xã hội”. Vì theo quy định
của Nghị định số 34 thì các nghị định quy
định tại khoản 2 và 3 đều phải lập đề nghị
xây dựng nghị định, nghĩa là phải xây dựng
theo quy trình chính sách.
Thứ hai, nếu “chính sách” là định
hướng, giải pháp của Nhà nước thì khái
niệm này có phù hợp với quy định tại khoản
2, 3 và 4 Điều 27 Luật Ban hành VBQPPL
năm 2015: “2. Chính sách, biện pháp nhằm
bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, VBQPPL
của cơ quan nhà nước cấp trên; 3. Biện
pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội, ngân
sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương; 4.
Biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương”?
Hiểu theo quy định hiện hành thì chính
sách là định hướng/giải pháp cụ thể nhằm
giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, an
ninh, quốc phòng đã hoặc mới phát sinh
trong thực tiễn. Loại chính sách này chỉ có
thể được thực thi với điều kiện được chuyển
tải vào các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, từ
những câu hỏi đặt ra trong quá trình triển
khai thi hành luật, nảy sinh một số vấn đề
cần tiếp tục nghiên cứu và thống nhất cách
hiểu về thuật ngữ “chính sách”.
Một là, nếu hiểu theo nghĩa hẹp “chính
sách là giải pháp” là cách thức để giải quyết
vấn đề hoặc phương pháp để giải quyết vấn
đề (giải pháp hữu ích, giải pháp nâng cao
năng lực quản lý, lãnh đạo) và có nhiều giải
pháp để thực hiện thì vì sao không thống
nhất một cách sử dụng thuật ngữ “chính
sách là biện pháp” để phù hợp với quy định
tại khoản 2 và 3 Điều 19 và khoản 2, 3 và 4
Điều 27 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015?
Hai là, nếu hiểu chính sách theo nghĩa
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
40 Số 20(348) T10/2017
“biện pháp” là cách thức xử lý công việc
hoặc cách thức để giải quyết vấn đề (biện
pháp trừng phạt kinh tế, biện pháp ưu đãi
thuế, biện pháp điều tiết tiền tệ, biện pháp
chống lạm phát, biện pháp kỷ luật lao động)
là khái niệm rộng, bao trùm thì có vẻ như
là “chính sách là giải pháp” sẽ có nghĩa hẹp
hơn là “chính sách là biện pháp”.
Ba là, liệu có cách hiểu khác về khái
niệm “chính sách”, theo đó, chính sách là
việc can thiệp của nhà nước vào các quan hệ
xã hội phát sinh nhằm giải quyết các vấn đề
của thực tiễn?
Tóm lại, dù hiểu theo nghĩa nào thì
thuật ngữ “chính sách” vẫn là khái niệm
mơ hồ, gây nhiều tranh cãi. Cách hiểu thiếu
thống nhất về khái niệm này sẽ dẫn đến
những bất cập trong quy trình xây dựng
chính sách như đánh giá tác động của chính
sách, thẩm định chính sách.
2.2 Vì sao phải xây dựng chính sách
trước khi soạn thảo văn bản quy phạm
pháp luật?
Việc xây dựng một VBQPPL có thể
được ví như việc xây dựng một ngôi nhà,
trong đó, khâu hoạch định chính sách là quá
trình chủ đầu tư "đặt hàng" cho kiến trúc sư.
Theo đó, kiến trúc sư sẽ đưa ra thiết kế phù
hợp với nhu cầu của chủ đầu tư, giải quyết
được những bất cập trong cuộc sống hàng
ngày. Nếu việc "đặt hàng" càng rõ ràng, chi
tiết, cụ thể, có định hướng ổn định, thì bản
vẽ của kiến trúc sư càng chính xác và đáp
ứng được yêu cầu của chủ đầu tư.
Nhiều quốc gia trên thế giới coi trọng
việc xây dựng chính sách trước khi bắt tay
vào soạn thảo dự án luật. Mặc dù quy định
1 Báo cáo kết quả nghiên cứu khảo sát quy trình lập pháp của Canada của Bộ Tư pháp (năm 2013).
2 Báo cáo tổng kết thi hành Luật Ban hành VBQPPL (năm 2013).
3 Báo cáo kinh nghiệm nước ngoài Luật Ban hành VBQPPL (năm 2014).
4 Bản thuyết minh dự án Luật Ban hành VBQPPL (năm 2014).
5 Báo cáo kết quả nghiên cứu khảo sát quy trình lập pháp tại Hồng Kông và Nhật Bản của Văn phòng Chính phủ
(năm 2014).
không giống nhau nhưng ở đa số các nước,
quy trình xây dựng chính sách đều xuất phát
từ Chính phủ. Ở Canada, quy trình chính
sách được chia thành nhiều giai đoạn và quy
định rõ trách nhiệm của từng chủ thể từ xây
dựng đến phê duyệt chính sách1. Quy trình
xây dựng chính sách thường bắt đầu bằng
công đoạn đề xuất xây dựng chính sách và
kết thúc bằng công đoạn phê duyệt chính
sách2. Ở Nhật Bản, các ý tưởng hoặc đề xuất
chính sách sẽ được xem xét ưu, nhược điểm,
so sánh các phương pháp khác nhau để giải
quyết vấn đề đặt ra3; toàn bộ quá trình xây
dựng và hoạch định chính sách được coi
là giai đoạn quan trọng nhất và được thực
hiện theo một quy trình rất chuyên nghiệp
và nghiêm túc, như các chương trình nghiên
cứu thực tiễn, thu thập thông tin từ nghiên
cứu điều tra cơ bản, tham khảo kinh nghiệm
nước ngoài, các điều ước quốc tế, lấy ý kiến
nhân dân4...
Trong quy trình lập pháp, ở Uganda,
người ta chú trọng đến tăng cường hiệu quả
của việc phân tích chính sách và hình thành
chính sách trước khi soạn thảo luật5. Tiếp đó,
khi đã có chính sách chuẩn, chính sách được
quy phạm hóa thành các quy định pháp luật
để bảo đảm tính khả thi của các quy định.
Việc quy phạm hóa chính sách là nhiệm vụ
của cơ quan soạn thảo chuyên biệt, độc lập,
có chuyên môn cao, gắn với cơ quan đã hình
thành chính sách. Trong công đoạn phân tích
chính sách ở Uganda, người ta cho rằng, làm
luật là một hoạt động rất tốn kém, vì vậy,
trước hết cần xem xét có nhất thiết phải ban
hành luật không, hay có thể áp dụng các
biện pháp khác với chi phí thấp hơn là ban
hành luật mà vẫn mang lại kết quả mong
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
41Số 20(348) T10/2017
muốn6. Để trả lời câu hỏi này, Uganda cho
rằng không thể thiếu việc phân tích tương
quan chi phí, lợi ích của phương án chính
sách được đưa ra. Những tuyên ngôn đơn
thuần về chính sách không tạo ra nghĩa vụ
bắt buộc phải thi hành, mà cần phải chuyển
hóa chúng thành các quy định pháp luật7.
Như vậy, không riêng gì ở Việt Nam,
việc xây dựng chính sách, đánh giá tác động
của chính sách là yêu cầu bắt buộc trước khi
soạn thảo VBQPPL. Trong xây dựng pháp
luật, khâu xây dựng chính sách có vai trò rất
quan trọng, thể hiện đường lối, quyết tâm
chính trị của Đảng, Nhà nước, nguyện vọng
của nhân dân, của các đối tượng thi hành đối
với vấn đề mà dự án, dự thảo VBQPPL điều
chỉnh. Khi một chính sách được đề ra thì cần
xem xét, đánh giá sự cần thiết, mức độ tác
động về các mặt kinh tế - xã hội, tính khả thi,
điều kiện bảo đảm thực hiện chính sách, từ
đó, cơ quan, tổ chức được giao thiết kế các
quy phạm cụ thể để thể hiện nội dung chính
sách, thực thi chính sách.
Nếu chính sách không được xây dựng
trước khi soạn thảo VBQPPL thì VBQPPL
có tính dự báo thấp, nhất là về những vấn
đề kinh tế - xã hội mới phát sinh, dẫn đến
việc có những chính sách không đi vào được
cuộc sống. Hệ quả là pháp luật được ban
hành nhưng không được dự liệu và bảo đảm
đầy đủ các điều kiện về thiết chế tổ chức thi
hành, nguồn lực tài chính, tổ chức thi hành
pháp luật.
Vì sao chính sách, tự bản thân nó,
không thể tác động trực tiếp đến hành vi
của từng chủ thể mà phải qua một công cụ
"trung gian" đó là pháp luật? Vì, khác với
chính sách, pháp luật có những đặc tính mà
chính sách không thể có được, đó là tính bắt
buộc chung và quy tắc về quyền lực công.
6 Statutory Intrument Act, Canada 2003.
7 Legislation Act, 2006, bang Ontario, Canada
Có thể thấy rằng, giữa chính sách và
pháp luật có mối quan hệ khăng khít không
thể tách rời. Một VBQPPL sẽ bị coi là không
có mục tiêu nếu thiếu một định hướng chính
sách. Ngược lại, một chính sách sẽ bị coi là
không có ý nghĩa, vô thưởng vô phạt, nếu
nó không được thực hiện thông qua một
VBQPPL cụ thể. Như vậy, việc Nhà nước
ban hành pháp luật chính là để thực thi chính
sách của mình. Chính sách của VBQPPL là
tư tưởng cốt lõi đối với vấn đề mà dự án, dự
thảo VBQPPL dự định điều chỉnh.
2. Những hạn chế trong quy trình chính
sách hiện hành
2.1 Loại văn bản xây dựng theo quy
trình chính sách
Theo quy định, các loại văn bản Luật,
Nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, Nghị
quyết của UBTVQH; Nghị định của Chính
phủ; Nghị quyết của Hội đồng nhân dân
(HĐND) cấp tỉnh là các VBQPPL phải xây
dựng chính sách trước khi soạn thảo. Nhưng
trong số các loại văn bản nêu trên, pháp luật
hiện hành về ban hành VBQPPL cũng loại
trừ một số văn bản không phải xây dựng
chính sách trước khi soạn thảo.
Thứ nhất, tất cả các luật, pháp lệnh
đều phải xây dựng chính sách khi lập đề
nghị xây dựng VBQPPL.
Thứ hai, những nghị quyết sau đây của
Quốc hội, UBTVQH, HĐND tỉnh phải xây
dựng theo quy trình chính sách gồm:
- Nghị quyết của Quốc hội (1) về thực
hiện thí điểm một số chính sách mới thuộc
thẩm quyền quyết định của Quốc hội nhưng
chưa có luật điều chỉnh; (2) Tạm ngưng
hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc
một phần luật, nghị quyết của Quốc hội đáp
ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
42 Số 20(348) T10/2017
công dân;
- Nghị quyết của UBTVQH tạm
ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn
bộ hoặc một phần pháp lệnh, nghị quyết của
UBTVQH đáp ứng các yêu cầu cấp bách về
phát triển kinh tế - xã hội;
- Nghị quyết của HĐND tỉnh quy định
(1) Chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm
thi hành Hiến pháp, luật, VBQPPL của cơ
quan nhà nước cấp trên; (2) Biện pháp nhằm
phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách, quốc
phòng, an ninh ở địa phương; (3) Biện pháp
có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Thứ ba, chỉ những nghị định sau mới
phải xây dựng chính sách: (1) Nghị định quy
định các biện pháp cụ thể để tổ chức thi hành
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH, lệnh,
quyết định của Chủ tịch nước; các biện pháp
để thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách,
thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục,
y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối
ngoại, chế độ công vụ, cán bộ, công chức,
viên chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và
các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lý,
điều hành của Chính phủ; những vấn đề liên
quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của từ hai bộ,
cơ quan ngang bộ trở lên; nhiệm vụ, quyền
hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ
quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ;
(2) Nghị định quy định các vấn đề cần thiết
thuộc thẩm quyền của Quốc hội, UBTVQH
nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành
luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản
lý nhà nước, quản lý kinh, tế, quản lý xã hội.
Trước khi ban hành nghị định này phải được
sự đồng ý của UBTVQH.
Việc giới hạn phạm vi loại văn bản
phải xây dựng theo quy trình chính sách là
hợp lý. Tuy nhiên, quy trình xây dựng chính
sách là hết sức phức tạp, nhiều công đoạn
gồm: tổng kết những vấn đề thực tiễn, đánh
giá tác động của chính sách, lấy ý kiến đề
nghị xây dựng chính sách, thẩm định đề nghị
xây dựng chính sách. Thông thường, quy
trình lập đề nghị xây dựng VBQPPL phải
mất ít nhất từ 4 đến 6 tháng. Trong khi đó
Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 mở rộng
phạm vi loại văn bản cần xây dựng chính
sách bao gồm cả nghị định của Chính phủ
về biện pháp tổ chức thi hành Hiến pháp,
luật, pháp lệnh, nghị quyết và Nghị quyết
của HĐND cấp tỉnh để quy định về chính
sách và biện pháp nhằm bảo đảm thi hành
VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên là
chưa thực sự phù hợp với thực tế.
Trên thực tế, đối với loại văn bản
mang tính chất quản lý điều hành, đòi hỏi
phải xử lý nhanh nhưng lại phải xây dựng
theo quy trình chính sách hết sức phức tạp
làm hạn chế khả năng phản ứng nhanh của
Chính phủ và chính quyền địa phương đối
với những vấn đề cấp bách của xã hội. Việc
quy định nhiều loại văn bản phải xây dựng
theo quy trình chính sách sẽ gây tốn kém,
lãng phí và mất nhiều thời gian để xây dựng
chính sách và có thể ở khía cạnh nào đó làm
giảm hiệu quả quản lý, điều hành của Chính
phủ, chính quyền địa phương.
Chúng tôi cho rằng, không phải tất cả
các loại nghị định quy định tại khoản 2 Điều
19 và khoản 2 và 3 Điều 27 của Luật Ban
hành VBQPPL năm 2015 nhất thiết phải xây
dựng theo quy trình chính sách, bởi vì, có
một số trường hợp, nếu các VBQPPL không
được ban hành ngay sẽ phá vỡ sự đồng bộ
của hệ thống pháp luật. Ví dụ, khi ban hành
nghị định của Chính phủ để bãi bỏ nghị định
của Chính phủ thì liệu có cần thiết phải xây
dựng theo quy trình chính sách? Chưa rõ
mức độ thành công của quy định này nhưng
ít nhất với việc phải thông qua chính sách
trước khi soạn thảo nghị định theo quy định
tại khoản 2 Điều 19 sẽ làm Chính phủ phải
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
43Số 20(348) T10/2017
dành quá nhiều thời gian cho công tác xây
dựng chính sách. Bên cạnh đó, với tính mơ
hồ của khái niệm “chính sách” cũng dẫn đến
sự lúng túng trong quá trình thực hiện.
Theo quy định của Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015, địa phương là
cấp tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật.
Do đó, HĐND tỉnh ban hành VBQPPL chủ
yếu thực hiện các biện pháp để tổ chức thi
hành Hiến pháp, luật và VBQPPL của cơ
quan nhà nước cấp trên. Phần lớn các văn
bản do HĐND tỉnh ban hành đều căn cứ vào
VBQPPL của trung ương thì liệu có phải
xây dựng chính sách không? Vì nếu ra nghị
quyết lại phải xây dựng theo quy trình chính
sách là một áp lực lớn đối với các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương.
Như vậy, việc áp dụng quy trình chính
sách đối với các loại VBQPPL theo quy định
tại khoản 2 Điều 19 và khoản 2, 3 Điều 27
cần phải cân nhắc và nghiên cứu lại. Thiết
nghĩ, chúng ta nên giới hạn phạm vi loại
VBQPPL cần thực hiện theo quy trình chính
sách và sẽ hợp lý hơn nếu chỉ tập trung vào
một số loại văn bản có tính chất đặc thù cần
phải thực hiện theo quy trình chính sách
theo quy định tại khoản 3 Điều 19 và khoản
4 Điều 27.
2.2 Những bất cập về đánh giá tác
động của chính sách
Đánh giá tác động của chính sách là
vấn đề rất khó, đòi hỏi kỹ thuật và quy trình
phức tạp, vì vậy, Quốc hội đã giao cho Chính
phủ quy định chi tiết Điều 35 của Luật Ban
hành VBQPPL năm 2015. Tuy nhiên, quy
định của Luật có những vấn đề chưa chặt
chẽ khi tách giữa xây dựng nội dung chính
sách theo quy định tại Điều 34 với đánh giá
tác động của chính sách theo quy định tại
Điều 35. Nếu không tách bạch giữa nội dung
chính sách và đánh giá tác động của chính
sách thì quy trình xây dựng chính sách và
đánh giá tác động chính sách sẽ khả thi hơn.
Do việc tách bạch giữa xây dựng nội
dung của chính sách và đánh giá tác động của
chính sách nên trong Nghị định số 34, Chính
phủ quy định Điều 5 (xây dựng nội dung
chính sách) với Điều 6 (Đánh giá tác động
của chính sách) thành hai Điều riêng. Việc
tách thành hai Điều như vậy dẫn đến cách
hiểu là phải xây dựng nội dung chính sách
trước rồi mới thực hiện đánh giá tác động của
chính sách. Cách tiếp cận này tương đối khó
hiểu và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế -
đánh giá tác động của chính sách để tìm ra
chính sách và chứng minh chính sách đó là
cần thiết. Sẽ hoàn hảo hơn nếu cả luật và nghị
định không quy định tách bạch giữa xây dựng
nội dung chính sách và đánh giá tác động của
chính sách thành hai Điều độc lập.
Có thể nói rằng, đánh giá tác động của
chính sách trước khi soạn thảo VBQPPL là
một quy định tiến bộ nhưng việc triển khai
thi hành thì còn rất hình thức do nguồn kinh
phí hạn hẹp. Trong bối cảnh ngân sách nhà
nước càng ngày càng bị thu hẹp mà chúng
ta lại mở rộng phạm vi loại VBQPPL của
cả trung ương và địa phương cần phải xây
dựng chính sách và đánh giá tác động của
chính sách thì chưa thực sự phù hợp.
Bên cạnh đó, còn có sự thiếu nhất
quán trong việc sử dụng cụm từ đánh giá tác
động của chính sách và đánh giá tác động
của văn bản tại điểm c, khoản 2 Điều 128
của Luật Ban hành VBQPPL: “c) Đánh giá
tác động văn bản trong trường hợp dự thảo
quyết định có quy định cụ thể các chính sách
đã được quy định trong văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên; đánh giá tác động của thủ
tục hành chính trong trường hợp được luật
giao, đánh giá tác động về giới (nếu có)”.
Việc quy định thiếu thống nhất như vậy sẽ
dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau và khó
khăn trong việc áp dụng quy trình đánh giá
tác động của chính sách.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
44 Số 20(348) T10/2017
2.3 Quy trình thẩm định chính sách
Theo quy định của Điều 39 Luật Ban
hành VBQPPL năm 2015, Bộ Tư pháp tiến
hành thẩm định đề nghị xây dựng luật, pháp
lệnh, nghị quyết trong thời hạn 20 ngày kể
từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Điểm mới
của Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 là
cho phép các chủ thể có thể gửi đề nghị xây
dựng luật, pháp lệnh, đề nghị xây dựng nghị
định cho Bộ Tư pháp bất kỳ thời điểm nào
trong năm và khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ thì Bộ
Tư pháp có trách nhiệm thẩm định đề nghị
xây dựng luật, pháp lệnh, đề nghị xây dựng
nghị định. Đối với những đề nghị xây dựng
luật, pháp lệnh, nghị định có nội dung phức
tạp và những đề nghị do Bộ Tư pháp chủ trì
thì Hội đồng tư vấn thẩm định có không quá
1/3 số thành viên là người của Bộ Tư pháp.
Ngoài ra, khi thẩm định đề nghị xây dựng
VBQPPL phải có sự tham gia của đại diện
Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ.
Quy trình thẩm định đề nghị xây dựng
luật, pháp lệnh là một quy trình tương đối
phức tạp, gồm nhiều nội dung, hồ sơ đề nghị
đòi hỏi cao về cả số lượng lẫn chất lượng.
Tuy nhiên, việc tổ chức thẩm định trong thời
gian qua chưa đáp ứng được yêu cầu của
việc thẩm định đề nghị xây dựng VBQPPL.
Hội đồng tư vấn thẩm định đề nghị xây dựng
luật, pháp lệnh do lãnh đạo cấp vụ chủ trì,
trong khi đó thẩm định dự thảo luật, pháp
lệnh thì Chủ tịch Hội đồng là lãnh đạo cấp
bộ với thành phần tham gia gồm nhiều bộ,
ngành, có sự tham gia của nhiều chuyên
gia, nhà khoa học. Bên cạnh đó, thành phần
tham gia Hội đồng tư vấn thẩm định khi lập
đề nghị xây dựng VBQPPL thiếu rất nhiều
cơ quan quan trọng như Bộ Nội vụ, Bộ Tài
chính, hoặc nếu có tham gia thì cũng chưa
phát biểu được về những nội dung mà Luật
yêu cầu. Vai trò của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội trong việc thẩm định đánh
giá tác động xã hội hiện đang hết sức mờ
nhạt.
Bên cạnh đó, quy định báo cáo thẩm
định phải thể hiện rõ quan điểm của Bộ Tư
pháp về việc đề nghị xây dựng luật, pháp
lệnh đủ hoặc chưa đủ điều kiện trình chưa
thực hiện được vì rất khó để kết luận đề nghị
xây dựng VBQPPL đủ hay chưa đủ điều
kiện trình do vấn đề chính sách còn nhiều
tranh cãi, hồ sơ thẩm định thiếu những dữ
liệu cần thiết để đánh giá và vẫn còn sự nể
nang, châm chước đối với cơ quan chủ trì
soạn thảo.
Như đã phân tích ở trên, việc triển
khai xây dựng nghị quyết của HĐND tỉnh
còn ít nên việc thẩm định đề nghị xây dựng
nghị quyết theo quy trình thẩm định chính
sách cũng gặp nhiều vướng mắc do các Sở
Tư pháp chưa có kinh nghiệm và kỹ năng
thẩm định chính sách nên chưa tổ chức được
các Hội đồng tư vấn thẩm định chính sách
theo đúng nghĩa.
Ngoài ra, quy trình thẩm định chính
sách cũng chưa bảo đảm sự công bằng về
trình tự, thủ tục giữa các chủ thể có thẩm
quyền đề nghị xây dựng VBQPPL. Trên thực
tế, chỉ có các bộ, cơ quan ngang bộ khi lập
đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh mới phải
thẩm định đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh.
Đối với các chủ thể khác khi lập đề nghị thì
không phải qua bước thẩm định và phê duyệt
đề nghị mà chỉ cần gửi xin ý kiến Chính phủ.
Khi góp ý đề nghị xây dựng VBQPPL của
các chủ thể có thẩm quyền đề nghị khác, do
không quy định bắt buộc nên với đề nghị xây
dựng VBQPPL của các chủ thể khác thường
không thành lập Hội đồng tư vấn thẩm định
đề nghị. Như vậy, dường như quy trình xây
dựng chính sách, thẩm định chính sách của
Chính phủ chặt chẽ hơn so với các chủ thể có
quyền trình đề nghị khác.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
45Số 20(348) T10/2017
2.4 Về áp dụng trình tự, thủ tục rút
gọn với quy trình chính sách
Một câu hỏi rất thực tế là liệu có được
áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn đối với đề
nghị xây dựng VBQPPL không?
Luật Ban hành VBQPPL năm 2015
dành 01 chương (Chương XII) để quy định về
việc xây dựng, ban hành VBQPPL theo trình
tự, thủ tục rút gọn. Vấn đề đặt ra là trường
hợp luật, pháp lệnh, nghị định (tại khoản
2, 3 Điều 19) hoặc nghị quyết của HĐND
tỉnh (tại khoản 2, 3 và 4 Điều 27) thuộc một
trong các trường hợp được áp dụng trình tự,
thủ tục rút gọn theo quy định tại Điều 146
thì trước khi soạn thảo, cơ quan đề nghị xây
dựng VBQPPL có phải thực hiện quy trình
lập đề nghị xây dựng VBQPPL (xây dựng,
phân tích, đánh giá, thẩm định, thông qua
chính sách) không? Do chưa có quy định cụ
thể nên có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác
nhau.
Cách hiểu thứ nhất:
Không được áp dụng trình tự, thủ tục
rút gọn khi lập đề nghị xây dựng VBQPPL.
Chỉ được áp dụng quy định tại Chương XII
(xây dựng, ban hành VBQPPL theo trình tự,
thủ tục rút gọn), Luật Ban hành VBQPPL
năm 2015 cho quy trình soạn thảo dự án, dự
thảo VBQPPL.
Cách hiểu thứ hai:
Không áp dụng trình tự, thủ tục rút
gọn đối với luật, pháp lệnh, nghị quyết của
Quốc hội, UBTVQH mà vẫn phải thực hiện
quy trình chính sách trước khi tiến hành soạn
thảo. Vì theo quy định của Luật Ban hành
VBQPPL năm 2015, việc soạn thảo các dự
án luật, pháp lệnh, nghị quyết chỉ được tiến
hành sau khi được đưa vào chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh. Về thẩm quyền quyết
định xây dựng, ban hành VBQPPL theo quy
định tại Điều 147 của Luật thì cơ quan nào
ban hành văn bản cơ quan đó sẽ quyết định
việc ban hành văn bản theo trình tự, thủ tục
rút gọn. Quy định này chưa rõ là có được
phép rút gọn đối với quy trình xây dựng
chính sách không. Bên cạnh đó, Điều 51 của
Luật quy định về việc điều chỉnh chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh yêu cầu việc
chuẩn bị hồ sơ theo quy trình xây dựng
chính sách, mà không cho phép áp dụng
trình tự, thủ tục rút gọn. Trong khi đó, việc
bổ sung vào chương trình thường là những
vấn đề cấp bách, đòi hỏi phải ban hành văn
bản ngay hoặc các trường hợp khác theo quy
định tại Điều 146 của Luật.
Điều 37 Nghị định số 34 quy định về
thẩm quyền đề nghị và quyết định ban hành
VBQPPL theo thủ tục rút gọn cũng chỉ quy
định về thẩm quyền đề nghị áp dụng trình
tự thủ tục rút gọn đối với đề nghị xây dựng
nghị định của Chính phủ, đề nghị xây dựng
nghị quyết của HĐND tỉnh. Nếu hiểu theo
quy định của Điều 37 thì cũng không áp
dụng trình tự, thủ tục rút gọn khi lập đề nghị
xây dựng luật, pháp lệnh. Việc áp dụng trình
tự, thủ tục rút gọn đối với đề nghị xây dựng
nghị định của Chính phủ, đề nghị xây dựng
nghị quyết của HĐND tỉnh theo quy định
tại khoản 4 Điều 37 của Nghị định số 34 thì
nội dung văn bản đề nghị Thủ tướng Chính
phủ, Thường trực HĐND tỉnh quyết định áp
dụng trình tự, thủ tục rút gọn chỉ phải nêu
rõ: (1) căn cứ áp dụng; (2) tên văn bản; (3)
sự cần thiết ban hành; (4) đối tượng, phạm
vi điều chỉnh; (5) nội dung chính của văn
bản; (6) dự kiến cơ quan chủ trì soạn thảo
và thời gian trình văn bản. Theo quy định
trên, có thể hiểu rằng, cơ quan đề nghị xây
dựng nghị định, nghị quyết của HĐND cấp
tỉnh sẽ không phải thực hiện các bước lập đề
nghị (như trong trường hợp thông thường).
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
46 Số 20(348) T10/2017
Trường hợp đề nghị được chấp thuận, việc
soạn thảo sẽ được tiến hành theo quy định
tại Điều 148 của Luật Ban hành VBQPPL
năm 2015.
Cách hiểu khác nhau trong việc áp
dụng quy trình rút gọn dẫn tới việc thực
hiện quy định này cũng rất khác nhau. Nếu
hiểu theo hướng khi lập đề nghị xây dựng
VBQPPL mà không được áp dụng trình tự,
thủ tục rút gọn thì sẽ không phù hợp với quy
định về các trường hợp được áp dụng trình
tự, thủ tục rút gọn theo quy định tại Điều
146 của Luật Ban hành VBQPPL năm 2015.
*
Năm 2017 là năm đầu tiên thực hiện
việc lập đề nghị xây dựng VBQPPL theo
quy trình chính sách, nhưng rõ ràng là đã
có sự lúng túng của Chính phủ, của các cơ
quan, tổ chức có liên quan khi triển khai quy
định mới này. Mặc dù đã được chuẩn bị từ
rất sớm, ngay khi Luật Ban hành VBQPPL
năm 2015 có hiệu lực nhưng quy trình lập đề
nghị xây dựng luật, pháp lệnh vẫn chưa đạt
được ý tưởng của nhà làm luật là xây dựng
một quy trình xây dựng chính sách thực sự
hiệu quả. Đối với các địa phương thì hầu
như việc triển khai xây dựng nghị quyết của
HĐND theo quy trình chính sách rất hạn chế
do đây là vấn đề mới mà địa phương chưa
từng được tiếp cận; việc hướng dẫn đánh giá
tác động của chính sách cũng chưa thực sự
hiệu quả nên hầu hết các địa phương chưa
chủ động trong việc xây dựng nghị quyết
của HĐND theo quy trình chính sách. Sự
lúng túng trong việc thực hiện quy trình xây
dựng chính sách, trong đó có đánh giá tác
động của chính sách, một phần xuất phát từ
quy định của Luật và Nghị định số 34 chưa
thực sự rõ ràng và phần lớn xuất phát từ việc
cơ quan nhà nước chưa bắt nhịp được với
những thay đổi cơ bản trong quy trình lập
pháp với những đòi hỏi phức tạp về hồ sơ và
yêu cầu, đòi hỏi khắt khe về trình tự, thủ tục.
Để khắc phục những hạn chế trong
việc thực hiện quy trình chính sách, Bộ Tư
pháp đã có những hướng dẫn cụ thể về xây
dựng chính sách và đánh giá tác động của
chính sách. Có thể tin tưởng rằng, với việc
hướng dẫn cụ thể, bồi dưỡng nghiệp vụ
thường xuyên về xây dựng chính sách, đánh
giá tác động của chính sách cộng với tâm
huyết của những người làm công tác xây
dựng pháp luật, chúng ta sẽ có được những
chính sách đồng bộ, khả thi, đáp ứng được
yêu cầu của đời sống xã hội
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo kết quả nghiên cứu khảo sát quy trình lập pháp của Canada của Bộ Tư pháp (năm 2013).
2. Báo cáo tổng kết thi hành Luật Ban hành VBQPPL (năm 2013).
3. Báo cáo kinh nghiệm nước ngoài Luật Ban hành VBQPPL (năm 2014).
4. Bản thuyết minh dự án Luật Ban hành VBQPPL (năm 2014).
5. Báo cáo kết quả nghiên cứu khảo sát quy trình lập pháp tại Hồng Kông và Nhật Bản của Văn phòng Chính
phủ (năm 2014).
6. Statutory Intrument Act, Canada 2003.
7. Legislation Act, 2006, bang Ontario, Canada.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
47Số 20(348) T10/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_vuong_mac_ve_xay_dung_chinh_sach_trong_de_nghi_xay_dun.pdf