Trong quá trình thực thi nhiệm vụ tổ
chức thi hành Hiến pháp và pháp luật, cơ
chế xem xét, đánh giá hành vi của các chủ
thể tổ chức THPL chủ yếu được thực hiện
thông qua cơ chế giám sát của Quốc hội và
HĐND với các hình thức như: xem xét báo
cáo hoạt động, chất vấn và yêu cầu trả lời
chất vấn, xem xét đình chỉ, bãi bỏ văn bản
trái Hiến pháp, luật, pháp lệnh, thành lập
Uỷ ban lâm thời điều tra, tổ chức đoàn giám
sát Kết quả của hoạt động giám sát sẽ
đánh giá cụ thể về kết quả thực hiện nhiệm
vụ; trách nhiệm của chủ thể tổ chức THPL,
các vấn đề còn tồn tại, biện pháp giải quyết.
Từ đó Quốc hội và HĐND sẽ yêu cầu chủ
thể tổ chức THPL tiếp tục thực hiện các kết
luận giám sát. Tuy nhiên, Luật Hoạt động
6 Điều 6 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015.
7 Điều 17, 24, 31 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
giám sát của Quốc hội và HĐND chưa thực
sự xây dựng được cơ chế kết nối giữa hậu
quả pháp lý của hoạt động giám sát với cơ
chế bỏ phiếu tín nhiệm đối với đối tượng
giám sát.
Luật Tổ chức THPL cần phải tính đến
cơ chế này. Hoàn thiện thể chế về tổ chức
THPL không chỉ dừng lại ở nhiệm vụ quy
định rõ ràng về trách nhiệm, thẩm quyền,
nội dung tổ chức THPL mà cần tiếp tục hoàn
thiện mạnh mẽ cơ chế xử lý vi phạm trong
quá trình tổ chức THPL, đặc biệt xác định
rõ trách nhiệm và chế độ tín nhiệm đối với
người đứng đầu các ngành, lĩnh vực và địa
phương để góp phần khắc phục những hạn
chế về năng lực tổ chức THPL của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 347 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những yêu cầu đặt ra khi xây dựng luật về tổ chức thi hành pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA
KHI XÂY DỰNG LUẬT VỀ TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT
Tóm tắt:
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII tiếp tục đặt mục tiêu đẩy
mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật.
Xây dựng Luật về Tổ chức thi hành pháp luật theo hướng phát triển
năng lực thực thi pháp luật của các chủ thể tổ chức thi hành pháp
luật là một trong những giải pháp góp phần hoàn thiện thể chế về
thực thi pháp luật nói chung, pháp luật công vụ nói riêng.
Nguyễn Minh Phương*
Vũ Thị Thu Hằng**
* PGS. TS. Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
** TS. Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
Abstract
The Resolution of the 12th Section Party continues an aim at
boosting the completion of the law making associated with law
enforcement. Development of the Law on Arrangement of Law
Enforcement in the direction of building of law enforcement
capacity of law enforcement entities as one of the solutions for
institutional improvements of the law enforcement mechanism in
general, civil laws in particular.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Thi hành pháp luật; ban hành
pháp luật; bảo vệ pháp luật; hệ thống
pháp luật
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 24/07/2018
Biên tập : 07/08/2018
Duyệt bài : 14/08/2018
Article Infomation:
Keywords: Law enforcement; law
issuance; legal protection; law system
Article History:
Received : 24 Jul. 2018
Edited : 07 Aug. 2018
Approved : 14 Aug. 2018
1. Sự cần thiết xây dựng Luật về Tổ chức
thi hành pháp luật
Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ
Chính trị khoá IX về Chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020
đã nêu rõ một trong những nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước là
phải nâng cao năng lực, hiệu quả thi hành
pháp luật (THPL); đổi mới căn bản cơ chế
xây dựng và thực hiện pháp luật, phát huy
vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp
phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính
trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây
dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Sau gần 15 năm thực hiện Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật,
công tác xây dựng và tổ chức THPL đã đạt
được những kết quả nhất định. Hệ thống
pháp luật ngày càng hoàn thiện, cơ bản thể
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
67Số 2+3(378+379) T1/2019
chế hoá kịp thời các chủ trương, đường lối
của Đảng, cụ thể hoá các quy định của Hiến
pháp. Quy trình xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật (VBQPPL) có nhiều đổi mới, tạo
chuyển biến tích cực cả về chất lượng văn
bản và kỹ thuật lập pháp. Công tác tổ chức
THPL được mở rộng. Việc ban hành văn
bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
luật, pháp lệnh kịp thời hơn; công tác giám
sát, kiểm tra, xử lý văn bản pháp luật bước
đầu có chuyển biến tích cực; công tác phổ
biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, trợ
giúp pháp lý được triển khai đồng bộ hơn
với nhiều hình thức phong phú đã góp phần
nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp
hành pháp luật trong cán bộ, đảng viên và
Nhân dân.
Thực tế cho thấy, công tác tổ chức
THPL còn nhiều bất cập, hạn chế. Tình trạng
nợ đọng văn bản quy định chi tiết, hướng
dẫn thi hành còn khá phổ biến; công tác rà
soát, hệ thống hóa và pháp điển hóa chưa
được triển khai hiệu quả; đội ngũ cán bộ,
công chức làm công tác xây dựng pháp luật
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; cơ chế
phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong
xây dựng và tổ chức THPL chưa đồng bộ,
có lúc còn phân tán, có nơi còn cục bộ. Cơ
chế để Nhân dân tích cực tham gia vào các
hoạt động xây dựng pháp luật và giám sát
THPL chưa được phát huy1. Do vậy, Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ XII tiếp tục đặt
mục tiêu đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật
gắn với tổ chức THPL2; bảo đảm pháp luật
vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội,
vừa là công cụ để Nhân dân kiểm tra, giám
sát quyền lực nhà nước.
Quyết định số 242/QĐ-TTg ngày
1 Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ
Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020
2 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.
173 – 176.
26/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt đề án “Đổi mới, nâng cao hiệu quả
công tác tổ chức THPL” giai đoạn 2018-
2020 đề ra nhiệm vụ: “Nghiên cứu, xây
dựng đề xuất chính sách phục vụ việc lập hồ
sơ trình Chính phủ đề nghị xây dựng Luật
về Tổ chức THPL”. Đây là một trong những
nhiệm vụ nhằm góp phần hoàn thiện thể chế
về tổ chức thi hành và theo dõi THPL.
Nội hàm khái niệm THPL là tổ chức
thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thi hành
Hiến pháp và pháp luật; giải quyết khiểu nại,
tố cáo và kiến nghị của công dân; ban hành
văn bản pháp luật, kế hoạch triển khai thực
hiện; phổ biến, giáo dục pháp luật; thanh tra,
kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật.
Tuy nhiên, những quy định về trách nhiệm,
thẩm quyền, nội dung tổ chức THPL chỉ
đạt được hiệu quả nếu các chủ thể có thẩm
quyền, trách nhiệm tổ chức THPL có năng
lực thực thi pháp luật. Do vậy, xây dựng
Luật Tổ chức THPL cần hướng tới phát triển
năng lực thực thi pháp luật của các chủ thể
tổ chức THPL trên các phương diện: 1) quy
định về trách nhiệm đánh giá và phản ứng
chính sách của các cơ quan, tổ chức, cán bộ,
công chức trong THPL; 2) quy định cơ chế
phối hợp giữa cơ quan ban hành pháp luật,
cơ quan tổ chức THPL và cơ quan bảo vệ
pháp luật; 3) quy định trách nhiệm giải trình
của các chủ thể tổ chức THPL; 4) hình thành
cơ chế pháp lý xem xét, xử lý đối với những
vi phạm trong quá trình tổ chức THPL.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong
hoàn thiện thể chế góp phần nâng cao năng
lực thực thi pháp luật công vụ. Bởi lẽ, khi
hoạt động công vụ được hiểu theo nghĩa
rộng là hoạt động mang tính quyền lực -
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
68 Số 2+3(378+379) T1/2019
pháp lý được thực thi bởi đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước hoặc những người khác
được Nhà nước trao quyền nhằm thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
trong quá trình quản lý các hoạt động của
đời sống xã hội thì pháp luật về công vụ là
toàn bộ hệ thống pháp luật; đội ngũ thực thi
pháp luật công vụ chính là các chủ thể tổ
chức THPL. Do vậy, Luật Tổ chức THPL là
một trong những cơ chế bảo đảm cho việc
nâng cao năng lực thực thi pháp luật công
vụ, hiệu quả thực thi pháp luật công vụ trong
giai đoạn hiện nay.
2. Một số yêu cầu cơ bản của Luật Tổ
chức thi hành pháp luật
Thứ nhất, quy định nghĩa vụ và trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cán bộ,
công chức trong đánh giá và phản ứng chính
sách khi THPL.
Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày
14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban
hành VBQPPL đã có các quy định về xây
dựng nội dung của chính sách, đánh giá tác
động của chính sách, phương pháp đánh
giá tác động của chính sách. Tuy nhiên, đây
chủ yếu là những quy định về chính sách
trong xây dựng VBQPPL. Trong khi đó, cơ
chế đánh giá tác động của chính sách trong
VBQPPL cần được thực hiện và bảo đảm
tính kết nối trong cả ba giai đoạn: đề xuất
ban hành, soạn thảo và tổ chức thực hiện.
Trong thực thi pháp luật về công vụ,
đánh giá chính sách là nhiệm vụ rất quan
trọng của các chủ thể thực thi pháp luật công
vụ. Sau nhiều năm thực hiện cải cách nền
hành chính nhà nước, nhiều chính sách đẩy
mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức
cần phải được đánh giá như: chính sách
giảm quy mô công vụ, tinh giản biên chế;
3 Điều 7 Nghị định 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 về theo dõi tình hình THPL.
4 Điều 8 Nghị định 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 về theo dõi tình hình THPL.
chính sách đối với người có tài năng; chính
sách đánh giá công chức; chính sách tiền
lương, bảo hiểm xã hội Đây là hệ thống
các chính sách được đề ra trong triển khai
thực thi Luật Cán bộ, công chức năm 2008,
Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011
của Chính phủ ban hành Chương trình tổng
thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2011 - 2020, Quyết định số 1557/QĐ-TTg
ngày 18/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ
công vụ, công chức” giai đoạn 2012 - 2015.
Tuy nhiên, những chính sách này chưa được
tổng kết và đánh giá cụ thể làm cơ sở cho
việc xây dựng các chính sách công vụ trong
giai đoạn tiếp theo.
Theo quy định của Nghị định số
59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính
phủ quy định về theo dõi tình hình THPL,
trong quá trình theo dõi THPL, các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
Uỷ ban nhân dân các cấp theo dõi tình hình
THPL phải xem xét, đánh giá trên ba nội
dung cơ bản: 1) Tình hình ban hành văn bản
quy định chi tiết thi hành VBQPPL; 2) Tình
hình bảo đảm các điều kiện cho THPL; (3)
Tình hình tuân thủ pháp luật3. Mặc dù khi
xem xét, đánh giá tình hình văn bản quy
định chi tiết thi hành VBQPPL, Nghị định
số 59/2012/NĐ-CP đã đặt ra yêu cầu về nội
dung đánh giá bao gồm: tính kịp thời, đầy
đủ của việc ban hành văn bản quy định chi
tiết; tính thống nhất, đồng bộ; tính khả thi
của văn bản4, tuy nhiên, Nghị định chưa quy
định trách nhiệm đánh giá tính khả thi chính
sách của văn bản pháp luật. Theo chúng tôi,
cần phân biệt nhiệm vụ đánh giá tính khả thi
của văn bản và tính khả thi của chính sách.
Một chính sách có thể rất khả thi nhưng do
kỹ thuật chuyển tải chính sách trong văn bản
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
69Số 2+3(378+379) T1/2019
pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu dẫn đến hiệu
lực, hiệu quả của văn bản thấp hoặc ngược
lại, văn bản được bảo đảm hiệu lực thi hành
nhưng chính sách chưa phù hợp, chưa đáp
ứng yêu cầu của cuộc sống. Do vậy, Luật
Tổ chức THPL cần quan tâm đến biện pháp
nâng cao năng lực thực thi pháp luật thông
qua những quy định cụ thể về trách nhiệm
đánh giá chính sách của các chủ thể tổ chức
thực thi.
Những quy định của Luật Tổ chức
THPL phải thúc đẩy năng lực thu thập thông
tin, năng lực phân tích thông tin và đưa ra
sự đánh giá. Năng lực thu thập thông tin,
phân tích thông tin là những năng lực quan
trọng nhất giúp các chủ thể thực thi pháp
luật hoàn thành việc nâng cao năng lực đánh
thực thi pháp luật. Đây cũng chính là những
giải pháp mang tính nền tảng cho việc nâng
cao năng lực đề xuất và xây dựng chính sách
của Chính phủ trong thực thi pháp luật nói
chung và pháp luật về công vụ nói riêng.
Năng lực đánh giá chính sách và năng
lực phản ứng chính sách luôn là những yêu
cầu cần thiết mang tính song hành trong
tổ chức THPL. Đề án “Đổi mới, nâng cao
hiệu quả công tác tổ chức THPL”giai đoạn
2018 - 2022 đã đặt ra yêu cầu về việc xác lập
quy trình tiếp nhận, xử lý kiến nghị, phản
ánh của cơ quan, tổ chức, cá nhân về tình
hình THPL một cách thống nhất từ trung
ương đến địa phương. Do vậy, Luật Tổ chức
THPL cần dành một chương quy định về
quy trình tiếp nhận, xử lý kiến nghị, phản
ánh của cơ quan, tổ chức, cá nhân về tình
hình THPL bởi đây là cơ chế rất quan trọng
giúp thực hiện quyền hiến định của Nhân
dân (quyền tham gia quản lý nhà nước và
xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với
cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở,
địa phương và cả nước) và là một cơ chế
để Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước.
Cơ chế tiếp nhận, xử lý kiến nghị, phản
ánh của cơ quan, tổ chức, cá nhân về tình
hình THPL phải công khai, minh bạch. Luật
Tổ chức THPL phải quy định rõ quy trình
tiếp nhận kiến nghị, phản ánh về tình hình
THPL; quy trình xử lý kiến nghị, phản hồi
ý kiến; những yêu cầu trong năng lực, hành
vi của cán bộ, công chức khi thực thi công
vụ và đặc biệt là phải quan tâm đến việc quy
định trách nhiệm của Bộ trưởng, người đứng
đầu các cơ quan trong việc xử lý theo thẩm
quyền các phản ánh, kiến nghị của cơ quan,
tổ chức, cá nhân và quy chế phối hợp giữa
Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phản ứng chính
sách, tổ chức THPL đối với những vụ việc
có tính chất phức tạp, liên ngành. Đồng thời
qua đó gắn kết những yêu cầu, phản ánh,
kiến nghị về THPL với quá trình xây dựng,
hoàn thiện pháp luật.
Thứ hai, quy định cơ chế phối hợp
giữa cơ quan ban hành pháp luật, cơ quan
tổ chức THPL và cơ quan bảo vệ pháp luật.
Thước đo hiệu lực, hiệu quả của công
tác thực thi pháp luật bao gồm nhiều tiêu chí
khác nhau như: chất lượng VBQPPL, kết
quả tác động của văn bản đến các quan hệ
xã hội được điều chỉnh, chi phí trong hoạt
động xây dựng, ban hành, tổ chức và giám
sát thực hiện. Do vậy, cơ chế phối hợp giữa
cơ quan ban hành, cơ quan tổ chức THPL
và cơ quan bảo vệ pháp luật có vai trò rất
quan trọng nhằm bảo đảm hiệu lực của pháp
luật. Mục tiêu của hoạt động tổ chức thực thi
pháp luật là phải đo lường, đánh giá được
tác động của văn bản pháp luật trên cả hai
mặt: tích cực và tiêu cực; những thuận lợi,
khó khăn trong quá trình tổ chức thực thi
pháp luật, để từ đó sớm có những đề xuất
với cơ quan ban hành pháp luật điều chỉnh
chính sách, pháp luật kịp thời.
Trong thực thi pháp luật về công vụ,
cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa Quốc
hội và Chính phủ theo hướng kết quả hoạt
động giám sát của Quốc hội đối với hoạt
động tổ chức THPL về công vụ là cơ sở để
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
70 Số 2+3(378+379) T1/2019
thẩm định, thẩm tra những chính sách công
vụ mới do Chính phủ trình. Tiêu chí xem xét
trạng thái của các quan hệ xã hội trước và
sau khi có sự điều chỉnh của hệ thống pháp
luật về công vụ phải được coi là tiêu chí
quan trọng nhất khi đo lường tính hiệu lực,
hiệu quả của hoạt động ban hành pháp luật
về công vụ. Do đó, báo cáo về kết quả giám
sát thực hiện pháp luật công vụ cần phải
xem xét được được tiến hành thẩm tra kỹ
lưỡng để trở thành cơ sở quan trọng cho hoạt
động xây dựng và ban hành pháp luật công
vụ. Thêm vào đó, cần nghiên cứu vai trò, cơ
chế phối hợp của Toà án trong việc đề nghị
xem xét tính hợp pháp, tính hợp lý của các
VBQPPL khi quy định của các VBQPPL đó
được áp dụng để giải quyết các vụ việc cụ
thể tại Toà án, trên cơ sở đề nghị của Toà án
với tư cách là chủ thể có thẩm quyền tổ chức
THPL, Quốc hội thực hiện quyền giám sát
tối cao. Như vậy, Luật Tổ chức THPL cần
ghi nhận quyền kiến nghị giám sát của các
chủ thể tổ chức THPL trong mối tương quan
với Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội
và Hội đồng nhân dân (HĐND) năm 2015.
Thứ ba, quy định rõ trách nhiệm giải
trình của các chủ thể tổ chức THPL làm
cơ sở cho cơ chế giải trình của các chủ thể
THPL trên mọi lĩnh vực, trong đó có pháp
luật về công vụ.
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội
và HĐND năm 2015 đã có những quy định
về cơ chế giải trình trước Quốc hội, trong
đó có cơ chế giải trình tại Hội đồng Dân tộc
và các Uỷ ban của Quốc hội. Theo đó, Hội
đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có quyền
yêu cầu thành viên Chính phủ giải trình về
những vấn đề thuộc lĩnh vực Hội đồng Dân
tộc, Uỷ ban của Quốc hội phụ trách. Sau
phiên giải trình, Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban
của Quốc hội xem xét, thông qua kết luận về
5 Điều 43 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015.
vấn đề được giải trình. Cơ quan, cá nhân có
liên quan có trách nhiệm thực hiện kết luận
của Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc
hội; trường hợp không thực hiện hoặc thực
hiện không đầy đủ thì Hội đồng Dân tộc, Uỷ
ban của Quốc hội báo cáo Uỷ ban thường vụ
Quốc hội (UBTVQH) xem xét, quyết định5
Tuy nhiên, cơ chế giải trình trước
Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội là cơ
chế giải trình trong hoạt động giám sát tối
cao của Quốc hội. Luật Tổ chức THPL cần
xây dựng cơ chế giải trình tổ chức thực thi
pháp luật trong hoạt động giám sát của Nhân
dân; cơ chế phản hồi ý kiến đóng góp của
Nhân dân đối với hoạt động tổ chức THPL
của Chính phủ, các bộ, ngành và chính
quyền địa phương.
Theo quy định của Hiến pháp năm
2013, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015,
Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ phải thực hiện chế
độ báo cáo trước Nhân dân về những vấn
đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý.
Tổ chức THPL là một trong những nhiệm
vụ rất quan trọng của quyền hành pháp. Khi
thực hiện quyền hành pháp, Chính phủ cần
có cơ chế giải trình trước Nhân dân nhằm
bảo đảm sự kiểm soát của Nhân dân đối với
hoạt động của các cơ quan tổ chức THPL.
Nội dung giải trình phải tập trung làm rõ
tình hình ban hành văn bản quy định chi
tiết thi hành VBQPPL (tính kịp thời, thống
nhất, đồng bộ); tình hình tuân thủ pháp luật
của các chủ thể tổ chức thi hành và các đối
tượng thi hành; đánh giá về tính khả thi của
các VBQPPL được tổ chức thi hành; các giải
pháp khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật
trong công tác tổ chức thi hành. Trên cơ sở
đó, xây dựng quy trình để Nhân dân có thể
thực hiện được quyền bãi nhiệm đại biểu
Quốc hội đã được Hiến pháp quy định.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
71Số 2+3(378+379) T1/2019
Thứ tư, quy định khung tiêu chí đánh
giá năng lực thực thi pháp luật về công vụ
của đội ngũ cán bộ, công chức
Để thực hiện mục tiêu đến năm 2025
xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp đáp
ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và
khung năng lực theo quy định, một trong
năm đột phá phải thực hiện là đổi mới công
tác đánh giá theo hướng: xuyên suốt, liên
tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản
phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả
và so sánh với chức danh tương đương. Đây
chính là định hướng quan trọng cho việc xây
dựng bộ tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức
nói chung và cán bộ, công chức thực thi
pháp luật công vụ nói riêng trong giai đoạn
từ năm 2020 đến năm 2030.
Căn cứ tiêu chuẩn chức vụ, chức danh,
tiêu chuẩn ngạch công chức, chức vụ lãnh
đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ, công chức
làm công tác tổ chức thi hành và theo dõi
THPL, Luật Tổ chức THPL có thể xác định
những tiêu chí cơ bản trong đánh giá năng
lực tổ chức thi hành và theo dõi THPL để
các cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng cán
bộ, công chức xây dựng tiêu chí cụ thể để
đánh giá năng lực tổ chức THPL của cán bộ,
công chức. Trên cơ sở đó, Bộ Nội vụ xây
dựng tiêu chí cụ thể đánh giá năng lực tổ
chức THPL công vụ của cán bộ, công chức
trên 04 lĩnh vực cơ bản: 1) Năng lực đánh giá
chính và phản ứng chính sách về công vụ; 2)
Năng lực soạn thảo văn bản pháp luật điều
chỉnh quan hệ công vụ bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp; 3) Trách nhiệm giải trình;
4) Năng lực rà soát, kiểm tra, đánh giá tình
hình THPL công vụ. Từ đó, bổ sung các tiêu
chí đánh giá năng lực tổ chức THPL công
vụ của đội ngũ cán bộ, công chức được giao
nhiệm vụ tổ chức và theo dõi THPL công vụ.
Xây dựng tiêu chí cụ thể đánh giá năng
lực thực thi pháp luật công vụ của đội ngũ cán
bộ, công chức sẽ là một trong những giải pháp
góp phần thực hiện nhiệm vụ trọng tâm về đổi
mới công tác đánh giá cán bộ, công chức; nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực trong tổ chức
THPL; thông qua đó nghiên cứu, xây dựng các
tiêu chí cụ thể, định lượng để xác định được
mức độ thực thi pháp luật, cũng như đánh giá
được chính xác, toàn diện hiệu quả, tác động
của VBQPPL trong thực tiễn.
Thứ năm, quy định cơ chế pháp lý xem
xét, xử lý đối với những vi phạm trong quá
trình tổ chức THPL.
Cơ chế xem xét, xử lý vi phạm pháp
luật trong quá trình tổ chức THPL được tiếp
cận điều chỉnh ở hai góc độ: xử lý vi phạm
pháp luật đối với chủ thể tổ chức THPL và
xử lý vi phạm pháp luật đối với những hành
vi phạm được phát hiện trong quá trình quản
lý, tổ chức THPL.
Đối với cơ chế xử lý vi phạm đối với
chủ thể tổ chức THPL, Luật Tổ chức THPL
cần quy định cụ thể các nhiệm vụ, quyền
hạn tổ chức THPL của Chính phủ và chính
quyền địa phương các cấp làm cơ sở cho
việc xem xét, đánh giá hành vi vi phạm pháp
luật của các chủ thể. Đồng thời xác định rõ
cơ chế xử lý vi phạm đối với từng hành vi đó
(thông qua hậu quả pháp lý trong hoạt động
giám sát tối cao của Quốc hội hay hoạt động
tài phán hành chính).
Theo quy định của pháp luật hiện hành,
Chính phủ có trách nhiệm ban hành kịp thời
và đầy đủ các văn bản pháp luật để thi hành
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH, lệnh,
quyết định của Chủ tịch nước và để thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; bảo
đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống
nhất trong các VBQPPL của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ và của chính quyền địa
phương; kiểm tra việc thi hành các văn bản
đó và xử lý các văn bản trái Hiến pháp và
pháp luật; tổng hợp đánh giá tình hình thi
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
72 Số 2+3(378+379) T1/2019
hành Hiến pháp, pháp luật và báo cáo Quốc
hội, UBTVQH, Chủ tịch nước theo quy định
của pháp luật6. Chính quyền địa phương ở
các cấp đơn vị hành chính có trách nhiệm tổ
chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và
pháp luật trên địa bàn7.
Trong quá trình thực thi nhiệm vụ tổ
chức thi hành Hiến pháp và pháp luật, cơ
chế xem xét, đánh giá hành vi của các chủ
thể tổ chức THPL chủ yếu được thực hiện
thông qua cơ chế giám sát của Quốc hội và
HĐND với các hình thức như: xem xét báo
cáo hoạt động, chất vấn và yêu cầu trả lời
chất vấn, xem xét đình chỉ, bãi bỏ văn bản
trái Hiến pháp, luật, pháp lệnh, thành lập
Uỷ ban lâm thời điều tra, tổ chức đoàn giám
sát Kết quả của hoạt động giám sát sẽ
đánh giá cụ thể về kết quả thực hiện nhiệm
vụ; trách nhiệm của chủ thể tổ chức THPL,
các vấn đề còn tồn tại, biện pháp giải quyết.
Từ đó Quốc hội và HĐND sẽ yêu cầu chủ
thể tổ chức THPL tiếp tục thực hiện các kết
luận giám sát. Tuy nhiên, Luật Hoạt động
6 Điều 6 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015.
7 Điều 17, 24, 31 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
giám sát của Quốc hội và HĐND chưa thực
sự xây dựng được cơ chế kết nối giữa hậu
quả pháp lý của hoạt động giám sát với cơ
chế bỏ phiếu tín nhiệm đối với đối tượng
giám sát.
Luật Tổ chức THPL cần phải tính đến
cơ chế này. Hoàn thiện thể chế về tổ chức
THPL không chỉ dừng lại ở nhiệm vụ quy
định rõ ràng về trách nhiệm, thẩm quyền,
nội dung tổ chức THPL mà cần tiếp tục hoàn
thiện mạnh mẽ cơ chế xử lý vi phạm trong
quá trình tổ chức THPL, đặc biệt xác định
rõ trách nhiệm và chế độ tín nhiệm đối với
người đứng đầu các ngành, lĩnh vực và địa
phương để góp phần khắc phục những hạn
chế về năng lực tổ chức THPL của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
Ngoài ra, Luật Tổ chức THPL cần hình
thành cơ chế pháp lý để Chính phủ thực hiện
quyền yêu cầu xem xét, xử lý bằng thủ tục
tư pháp đối với mọi vi phạm nghiêm trọng
được phát hiện trong quá trình quản lý, tổ
chức THPL.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2016), Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020
2. Bộ Tư pháp (2018), Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 02/01/2018 về Tổng kết công tác tư pháp năm 2017 và phương
hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2008.
3. Chính phủ (2012), Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 về theo dõi tình hình THPL.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
5. Quốc hội (2015), Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015.
6. Thủ tướng Chính phủ (2012); Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày 18/10/2012 phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải
cách chế độ công vụ, công chức”.
7. Thủ tướng Chính phủ (2016); Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 phê duyệt kế hoạch cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2016 – 2020.
8. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 242/QĐ-TTg ngày 26/02/2018 phê duyệt đề án “Đổi mới, nâng cao
hiệu quả công tác tổ chức THPL” giai đoạn 2018-2020.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
73Số 2+3(378+379) T1/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_yeu_cau_dat_ra_khi_xay_dung_luat_ve_to_chuc_thi_hanh_p.pdf