Liên quan đến thái độ đối với việc khám thai
của phụ nữ sau khi sinh, nghiên cứu chỉ ra rằng
có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa thái
độ đối với việc khám thai và việc đi khám thai
trong khi mang thai (p < 0,001 ) và tỉ số chênh
bằng 1,05. Phát hiện này cho thấy rằng đối với
mỗi một điểm gia tăng trên tổng điểm của thái
độ đối với việc khám thai thì phụ nữ sẽ đi khám
thai ít nhất một lần trong ba tháng đầu của thai
kỳ nhiều hơn gấp 1,05 lần. Kết quả nghiên cứu
này phù hợp với nghiên cứu của Effendi6, trong
đó tiết lộ rằng bà mẹ sau sinh có thái độ tiêu cực
đối với việc đi khám thai thì có nhiều khả năng
không thường xuyên khám thai lần so với các bà
mẹ có thái độ tích cực. Phát hiện này cũng phù
hợp với nghiên cứu của Ye16, trong đó chỉ ra
rằng những phụ nữ có thái độ tích cực đối với
việc đi khám thai đã có một tỷ lệ cao hơn của
thăm khám thai với tỷ số chênh bằng 3,0 so với
những người có thái độ tiêu cực. Dựa trên mô
hình hành vi của việc sử dụng dịch vụ y tế của
Andersen và Neuman (1973) thì những gì một
người phụ nữ nghĩ về dịch vụ chăm sóc thai sản
có thể ảnh hưởng đến việc đi khám thai1. Gần
một nửa số người được hỏi trong nghiên cứu
này đồng ý rằng thời gian chờ đợi trong quá
trình khám thai là quá dài cho họ. Vì vậy, một
trong những chiến lược để tăng điểm số của thái
độ đối với việc khám thai là cải thiện thời gian
để nhận được dịch vụ chăm sóc thai sản. Bằng
cách này phụ nữ sẽ có động lực đủ để đi khám
thai thường xuyên hơn. Việc thay đổi thái độ và
hành vi là những nhiệm vụ khó khăn nhất cho
nhân viên y tế nhưng đây lại là phương pháp ít
tốn kém nhất. Vì vậy, chiến dịch giáo dục thích
hợp và phổ biến tầm quan trọng của khám thai,
mở rộng nguồn thông tin về lợi ích của việc
khám thai là đầu tư lâu dài để góp phần tăng tỷ
lệ đi khám thai trong ba tháng đầu cho thai phụ
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
6 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 492 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Những yếu tố ảnh hưởng đến việc đi khám thai trong ba tháng đầu thai kì của thai phụ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 84 
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC ĐI KHÁM THAI  
TRONG BA THÁNG ĐẦU THAI KÌ CỦA THAI PHỤ 
Nguyễn Thị Nhẫn*, Wannee Deoisres**, Siriwan Sangin**, Triệu Thị Ngọc Thu*, Vũ Thị Mai* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề : Khám thai đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc phát hiện sớm và quản lý các biến 
chứng khi mang thai. Tuy nhiên, thông tin về việc đi khám thai của phụ nữ ở Việt Nam còn hạn chế, đặc biệt là 
các nghiên cứu về các yếu tố liên quan đến việc đi khám thai của phụ nữ trong ba tháng đầu của thai kỳ vẫn còn 
chưa phổ biến. 
Mục tiêu nghiên cứu : Nhận biết số lần đi khám thai trong thai kỳ của thai phụ và những yếu tố ảnh 
hưởng đến số lần đi khám thai trong ba tháng đầu của thai kỳ.  
Phương pháp nghiên cứu : Nghiên cứu cắt ngang được xây dựng tại khoa hậu sản và hậu phẫu của 
Bệnh viện Từ Dũ với cỡ mẫu là 316 sản phụ. Dữ liệu được thu thập bằng cách sử dụng bộ câu hỏi tự điền 
được phát triển bởi nhà nghiên cứu với 5 phần.  
Kết quả : 72,8% người tham gia nghiên cứu có đi khám thai ít nhất là một lần trong ba tháng đầu thai 
kỳ. Sản phụ đã kết hôn thì đi khám thai  ít nhất  là một  lần trong ba tháng đầu thai kỳ nhiều hơn sản phụ 
chưa kết hôn gấp 2,10 lần (95% CI, 1,01 – 4,42). Với mỗi một điểm tăng lên trong tổng điểm của thái độ, 
kiến thức về số lần đi khám thai thì số lần đi khám thai trong ba tháng đầu thai kỳ sẽ tăng lên 1,05 lần và 
1,15 lần.  
Kết luận: Nhân viên y tế, hệ thống chăm sóc sức khỏe nên đặc biệt quan tâm chú ý đến nhóm đối tượng 
thai phụ chưa kết hôn để kịp thời phổ biến những lợi ích của việc đi khám thai sớm trong ba tháng đầu thai 
kỳ. Chương trình giáo dục sức khỏe về tầm quan trọng của việc đi khám thai cũng nên được phổ biến đến tất 
cả thai phụ để góp phần nâng cao nhận thức cũng như thái độ của thai phụ về việc đi khám thai trong ba 
tháng đầu của thai kỳ. 
Từ khóa: khám thai, ba tháng đầu thai kỳ, sản phụ, bệnh viện Từ Dũ 
ABSTRACT 
FACTORS RELATED TO ANTENATAL CARE UTILIZATION 
 IN THE FIRST TRIMESTER AMONG PREGNANT WOMEN. 
Nguyen Thi Nhan, Wannee Deoisres, Siriwan Sangin, Trieu Thi Ngoc Thu, Vu Thi Mai 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 5‐ 2014: 84 ‐ 89 
Background:  Antenatal  care  has  been  proven  to  be  effective  in  early  detection  and  management  the 
complications when the women have pregnancy. However, the information about antenatal care among pregnant 
women in Vietnam is still little, especially the studies to identify the factors related to antenatal care in the first 
trimester. 
Purposes: This study aims to determine the utilization of antenatal care  in the  first trimester and  factors 
predicting antenatal care utilization in the first trimester among postpartum women.  
Methods: Predictive correlation study was conducted in two postpartum wards at Tu Du hospital with the 
sample size was 316 postpartum women. Data were collected by using the self‐report questionnaire developed by 
researcher with 5 sections.  
Results: The results showed that 72.8% of respondents had antenatal care utilization in the first trimester. 
* Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh.   ** Đại học Burapha, Thái Lan 
Tác giả liên lạc: Ths ĐD.Nguyễn Thị Nhẫn,   ĐT: 0907307358,   Email: nguyennhan.ump@gmail.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 85
Women were married  2.10  times  got  the  antenatal  care utilization  ≥  1  times  compared  to women who were 
unmarried (95% CI, 1.01 – 4.42). For each one point increase on the attitude, knowledge toward antenatal care 
utilization there were 1.05 times and 1.15 times (95% CI, 1.02 – 1.12; 95% CI, 1.10 – 2.18, respectively) the 
respondents would get antenatal care utilization ≥ 1 times.  
Conclusions:  These  finding  indicated  that  health  care  provider,  health  care  system  should  pay  more 
attention to women who were unmarried to increase the antenatal care utilization in this group. Besides, health 
education  about  importance  of  antenatal  care  should  be  provided  to  improve  the  attitude  of women  toward 
antenatal care in order to increase the antenatal care utilization among Vietnamese women.  
Keywords: antenatal care, the first trimester, postpartum women, Tu Du hospital. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Mỗi năm  trên  toàn  thế giới  có hơn  500.000 
phụ  nữ  và  trẻ  em  gái  phải  chịu  tử  vong  do 
những biến chứng  liên quan đến mang  thai và 
sinh nở. Tỷ lệ tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh ở Việt 
Nam  đã  giảm  trong  vài  năm  qua  nhưng  hiện 
vẫn còn cao với số  lượng trẻ sơ sinh tử vong  là 
16 trẻ trong số 1000 trẻ sinh sống, tỷ lệ tử vong 
mẹ  là 69  trên tổng số 100,000 ca sinh sống năm 
20091314.  
Khám  thai  đã  được  chứng minh  là  có hiệu 
quả  trong  việc  cải  thiện kết  quả  thai  kỳ  thông 
qua  việc  phát  hiện  sớm  và  quản  lý  các  biến 
chứng  khi mang  thai317.  Ở  Việt Nam,  theo  đề 
nghị từ Bộ Y tế, phụ nữ mang thai nên đến thăm 
khám  thai  ít nhất ba  lần  trong  thời gian mang 
thai của họ, một lần cho mỗi tam cá nguyệt9. Tuy 
nhiên,  một  số  lượng  lớn  phụ  nữ  Việt  Nam 
không đi khám thai đầy đủ7, thông tin về việc đi 
khám thai của phụ nữ ở Việt Nam còn hạn chế, 
đặc biệt là các nghiên cứu về các yếu tố liên quan 
đến việc  đi khám  thai  trong ba  tháng  đầu  của 
thai kỳ.  
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Phương pháp cắt ngang mô tả.  
Đối tượng nghiên cứu 
Sản phụ sau khi sanh nằm tại khoa hậu sản 
và hậu phẫu của bệnh viện Từ Dũ trong khoảng 
thời gian thu thập số liệu. 
Cỡ mẫu 
Được tính dựa vào công thức sau 
316
)05.0(
29.071.0)96.1()1(
2
2
2
2
2/  xx
d
ppZN   
Chọn α = 0,05 => zα/2 = 1.96 (độ tin cậy 95%) 
p = 0,71 tỷ lệ đi khám thai theo nghiên cứu của Lieu. (2007) 
d = 5% 
  Cỡ mẫu tính được là 316 sản phụ 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
  Phụ nữ sau khi sanh xong được nằm  tại 
khoa hậu sản và hậu phẫu của Bệnh viện Từ Dũ, 
có thể giao tiếp, đọc, hiểu tiếng Việt, và sẵn sàng 
tham gia vào nghiên cứu. 
Công cụ thu thập dữ kiện 
  Sử dụng bộ câu hỏi tự điền gồm 5 phần: 
thông  tin chung về người  tham gia nghiên cứu 
(11  câu),  sự mang  thai  và mức  độ  bệnh  tật  (5 
câu),  việc  sử  dụng dịch  vụ  khám  thai  (3  câu), 
thái độ về việc đi khám thai (12 câu), kiến thức 
về việc đi khám thai (12 câu). 
Phân tích dữ kiện 
   Dữ liệu được nhập và phân tích bằng cách 
sử dụng phần mềm phân tích dữ kiện SPSS 17.0. 
KẾT QUẢ 
Khám thai trong tam cá nguyệt đầu 
  Kết quả tìm ra rằng có 72.8% sản phụ có 
đi khám thai ít nhất một lần trong ba tháng đầu 
của thai kỳ (bảng 1). 
Bảng 1. Khám thai trong ba tháng đầu của thai kỳ 
Khám thai Tần số Phần trăm (%)
Tam cá 
nguyệt đầu
≥ 1 lần 230 72.8
Không khám thai 86 27.2
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 86 
Đặc tính của mẫu nghiên cứu 
Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  79.8%  người 
tham gia nghiên cứu ở độ tuổi từ 18 đến 35 tuổi 
(đây là độ tuổi thích hợp sinh đẻ) với tuổi trung 
bình là 26 tuổi (SD = 6.15), đa số người tham gia 
nghiên cứu là dân tộc Kinh (92.4%), trình độ học 
vấn  là  cao  đẳng,  đại học  (50.9%). Hầu hết  sản 
phụ đều đã kết hôn (87%), làm việc cho công ty 
hay nhà nước (72.2%), có bảo hiểm (71.8%), thu 
nhập  trên hai  triệu đồng một  tháng  (81.6%), và 
sinh con đầu lòng (78.2%) (bảng 2).  
Bảng 2. Đặc tính của mẫu 
Biến số Tần số Phần trăm (%)
Nhóm tuổi < 18 tuổi 44 13,9
18-35 tuổi 252 79,8
> 35 tuổi 20 6,3
Trung bình tuổi = 26 tuổi, SD = 6,15, Nhỏ nhất = 15tuổi, Lớn 
nhất = 45tuổi 
Tình trạng hôn 
nhân 
 Đã kết hôn 275 87,0
 Chưa kết hôn 41 13,0
Học vấn Thấp hơn cấp ba 90 28,5
 Cấp ba 65 20,6
Cao đẳng, đại học 161 50,9
Nghề nghiệp Nội trợ 88 27,8
 Công nhân viên 228 72,2
Biến số Tần số Phần trăm (%)
chức
Dân tộc Dân tộc Kinh 292 92,4
 Các dân tộc khác 24 7,6
Thu nhập < 1,000,000 VND 6 1,9
1,000,000 – 
2,000,000 VND 
52 16,5
> 2,000,000 VND 258 81,6
Bảo hiểm Không có bảo hiểm 89 28,2
Có bảo hiểm 227 71,8
Số lần sinh Con so 247 78,2
Con rạ 69 21,8
Mối liên quan giữa từng yếu tố và việc đi 
khám thai của phụ nữ trong ba tháng đầu 
thai kỳ 
Từ bảng 3, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: có 
sự khác nhau về số  lần đi khám  thai  trong  thai 
kỳ  tùy  thuộc  vào  tình  trạng  hôn  nhân,  nghề 
nghiệp, kiến thức, thái độ, và bảo hiểm của phụ 
nữ. Phụ nữ đã kết hôn, đi  làm, có bảo hiểm, có 
kiến thức và thái độ tích cực về việc đi khám thai 
thì sẽ tham gia khám thai  ít nhất một  lần  trong 
tam cá nguyệt đầu.  
Bảng 3. Liên quan giữa từng yếu tố và số lần khám thai của phụ nữ trong tam cá nguyệt đầu 
Yếu tố 
Khám thai
2 p Không khám (n = 86) ≥ 1 lần (n = 230) 
N % n % 
Tuổi* < 18 tuổi 10 58,8 7 41,2 
7,05 ,06 18-35 tuổi 69 24,7 210 75,3 
> 35 tuổi 7 35,0 13 65,0 
Tình trạng hôn nhân Đã kết hôn 69 25,1 206 74,9 
4,83 ,03 
Chưa kết hôn 17 41,5 24 58,5 
Học vấn * Thấp hơn cấp ba 31 34,4 59 65,6 
Cấp ba 14 21,5 51 78,5 
5,15 ,07 
Cao đẳng Đại học 35 21,7 126 78,3 
Nghề nghiệp Nội trợ 32 36,4 56 63,6 4,75 ,02
Công nhân viên chức 54 23,7 174 76,3 
Dân tộc * Dân tộc Kinh 77 26,4 215 73,6 
1,38 ,17 
Các dân tộc khác 9 37,5 15 62,5 
Thái độ về việc đi khám thai** <,001
Kiến thức về việc đi khám thai ** ,02
Thu nhập * < 1,000,000 VND 2 33,3 4 66,7 5,13 ,09 
1,000,000 – 2,000,000 VND 25 48,1 27 51,9 
> 2,000,000 VND 59 22,9 199 77,1 
Bảo hiểm * Không có bảo hiểm 37 41,6 52 58,4 12,89 <,001
Có bảo hiểm 49 21,6 178 78,4 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 87
Yếu tố 
Khám thai
2 p Không khám (n = 86) ≥ 1 lần (n = 230) 
N % n % 
Số lần sinh * < 2 lần 62 25,1 185 74,9 5,05 ,08
≥ 2 lần 24 34,8 45 65,2 
Tiền sử sản khoa 
nguy cơ* 
Có 60 29,3 145 70,7 1,24 ,16
Không 26 23,4 85 76,6 
Nguy cơ cao trong 
thời kỳ mang thai* 
Không 58 27,4 154 72,6 0,01 ,52
Có 28 26,9 76 73,1 
* giá trị p được tính bởi Pearson Chi‐square  ** giá trị p được tính bởi Point Biserial 
Bảng 4. Độ mạnh của mối liên quan giữa biến độc lập 
và số lần khám thai trong ba tháng đầu thai kỳ 
Biến số OR hiệu chỉnh 95% CI p
Tình trạng hôn nhân 
 Chưa kết hôn 1,00 1,01 – 4,42 0,04
 Đã kết hôn 2,10 
Nghề nghiệp 
Nội trợ 1,00 
0,65 – 2,72 0,48
Công nhân viên chức 1,28 
Thái độ về việc đi khám thai 1,05 1,02 – 1,12 0,03
Kiến thức về khám thai 1,15 1,10 – 2,18 0,02
 Bảo hiểm 
Không có bảo hiểm 1,00 
0,53 – 2,05 0,96
Có bảo hiểm 1,02 
BÀN LUẬN 
Hầu  hết  phụ  nữ  trong  nghiên  cứu  này  đi 
khám thai trong tam cá nguyệt đầu  ít nhất một 
lần với  tỷ  lệ 72,8%. Con số này cao hơn khi so 
sánh  với  69,1%  trong  nghiên  cứu  khác  ở  Việt 
Nam12và 39,9% trong nghiên cứu của tác giả Ye 
vào năm 201016. Đi khám thai sớm đóng vai trò 
quan trọng trong việc cải thiện kết quả của thai 
kỳ như  là giảm  tỉ  lệ của chuyển dạ sanh non10, 
giảm  tỷ  lệ  sanh  con  nhẹ  cân10,11,  và  giảm  tỷ  lệ 
chết chu sinh8. Nguyên nhân giải thích cho tỷ lệ 
phụ nữ đi khám  thai sớm  trong  tam cá nguyệt 
đầu có thể là do ngày nay phụ nữ quan tâm đến 
thai  kỳ  của  họ  nhiều  hơn,  họ  nhận  thức  được 
tầm quan trọng của việc đi khám thai thông qua 
giáo dục từ nhân viên y tế hoặc từ báo, tạp chí, 
chương  trình  truyền  hình.  Một  nguyên  nhân 
quan trọng nữa là do phụ nữ chấp hành đề nghị 
từ Chính phủ là mỗi gia đình chỉ nên có từ một 
đến hai con nên họ đặc biệt cẩn  thận khi mang 
thai, họ sẽ đi khám thai sớm nhất có thể khi biết 
mình mang thai. 
Kết quả cũng cho thấy rằng phụ nữ tham gia 
nghiên cứu này chủ yếu là lập gia đình (87,0%), 
và chỉ ra rằng tình trạng hôn nhân của người trả 
lời  có  liên  quan  với  việc  khám  thai  trong  ba 
tháng đầu tiên (p = 0,03). Những phụ nữ đã kết 
hôn khám thai trong ba tháng đầu thai kỳ nhiều 
gấp  2,10  lần  so với phụ nữ  chưa  lập gia  đình. 
Nghiên cứu này là phù hợp với các nghiên cứu 
khác(4,5,7), những nghiên  cứu  đó  cũng  xác nhận 
rằng việc đi khám thai và tình trạng hôn nhân có 
mối quan hệ với nhau. Tuy nhiên, khi  so  sánh 
với  nghiên  cứu  của  Beeckman2  thì  có  sự  khác 
biệt. Nghiên  cứu  này  cho  thấy  tình  trạng  hôn 
nhân  có  liên  quan  không  đáng  kể  với  việc  đi 
khám thai2. Một  lý do có thể giải thích cho việc 
phụ nữ đã kết hôn đi khám thai nhiều hơn là họ 
đã có sự hỗ trợ từ chồng của họ từ hỗ trợ về kinh 
tế, tinh thần, do đó họ đi thăm khám thai thường 
xuyên hơn. 
Liên quan đến thái độ đối với việc khám thai 
của phụ nữ sau khi sinh, nghiên cứu chỉ ra rằng 
có mối  liên quan có ý nghĩa  thống kê giữa  thái 
độ đối với việc khám  thai và việc đi khám  thai 
trong khi mang  thai  (p < 0,001  ) và  tỉ số chênh 
bằng 1,05. Phát hiện này cho  thấy  rằng đối với 
mỗi một điểm gia  tăng  trên  tổng điểm của  thái 
độ đối với việc khám thai thì phụ nữ sẽ đi khám 
thai ít nhất một lần trong ba tháng đầu của thai 
kỳ nhiều hơn gấp 1,05  lần. Kết quả nghiên cứu 
này phù hợp với nghiên cứu của Effendi6, trong 
đó tiết lộ rằng bà mẹ sau sinh có thái độ tiêu cực 
đối với việc đi khám thai thì có nhiều khả năng 
không thường xuyên khám thai lần so với các bà 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 88 
mẹ có thái độ tích cực. Phát hiện này cũng phù 
hợp  với  nghiên  cứu  của  Ye16,  trong  đó  chỉ  ra 
rằng những phụ nữ có  thái độ  tích cực đối với 
việc  đi khám  thai  đã  có một  tỷ  lệ  cao hơn  của 
thăm khám thai với tỷ số chênh bằng 3,0 so với 
những người  có  thái  độ  tiêu  cực. Dựa  trên mô 
hình hành vi của việc sử dụng dịch vụ y tế của 
Andersen và Neuman  (1973)  thì những gì một 
người phụ nữ nghĩ về dịch vụ chăm sóc thai sản 
có  thể  ảnh hưởng  đến việc  đi khám  thai1. Gần 
một  nửa  số  người  được  hỏi  trong  nghiên  cứu 
này  đồng  ý  rằng  thời  gian  chờ  đợi  trong  quá 
trình khám  thai  là quá dài cho họ. Vì vậy, một 
trong những chiến lược để tăng điểm số của thái 
độ đối với việc khám  thai  là cải  thiện  thời gian 
để nhận được dịch vụ chăm sóc  thai sản. Bằng 
cách này phụ nữ sẽ có động lực đủ để đi khám 
thai thường xuyên hơn. Việc thay đổi thái độ và 
hành vi  là những nhiệm vụ khó khăn nhất cho 
nhân viên y tế nhưng đây lại là phương pháp ít 
tốn kém nhất. Vì vậy, chiến dịch giáo dục thích 
hợp và phổ biến tầm quan trọng của khám thai, 
mở  rộng  nguồn  thông  tin  về  lợi  ích  của  việc 
khám thai là đầu tư lâu dài để góp phần tăng tỷ 
lệ đi khám thai trong ba tháng đầu cho thai phụ. 
Nghiên  cứu  cũng  chỉ  ra  rằng  có mối  liên 
quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức đối với 
việc khám  thai và việc  đi khám  thai  trong khi 
mang  thai  (p  =  0,02)  và  tỉ  số  chênh  bằng  1,15. 
Phát  hiện  này  cho  thấy  rằng  đối  với mỗi một 
điểm gia tăng trên tổng điểm của kiến thức đối 
với việc khám thai thì phụ nữ sẽ đi khám thai ít 
nhất một  lần  trong  ba  tháng  đầu  của  thai  kỳ 
nhiều hơn gấp 1,15  lần. Phát hiện này phù hợp 
với nghiên cứu của Effendi (2008), trong đó tiết 
lộ rằng bà mẹ sau sinh người có kiến thức thấp 
về  chăm  sóc  thai  sản  có nhiều khả năng khám 
thai không thường xuyên so với những bà mẹ có 
kiến thức cao với tỷ số chênh bằng 3,536. Ngoài 
ra, kết quả này cũng  tương  tự như nghiên cứu 
của Ye và cộng sự, trong đó tiết lộ rằng phụ nữ 
có kiến thức tốt thì đi khám thai nhiều hơn phụ 
nữ không có kiến  thức đùng đắn về  lợi  ích của 
việc đi khám  thai  là 6,5  lần16. Vì vậy, kiến  thức 
của mỗi người đóng một vai trò rất quan trọng 
trong  việc  khám  thai  của  chính  bản  thân  họ 
trong suốt thai kỳ. Nâng cao kiến thức về lợi ích 
của việc đi khám  thai cho phụ nữ mang  thai  là 
một yếu  tố quan  trọng để  tăng số  lần đi khám 
thai ở phụ nữ. Hơn nữa, một khi họ có kiến thức 
về chăm sóc thai sản, họ sẽ chăm sóc tốt hơn cho 
sức khỏe của họ. 
KẾT LUẬN 
Tỷ  lệ phụ nữ đi khám  thai  ít nhất một  lần 
trong tam cá nguyệt đầu là 72,8%, phụ nữ đã kết 
hôn,  có  thái  độ  tích  cực,  có kiến  thức về khám 
thai thì sẽ đi khám thai thường xuyên hơn so với 
những người phụ nữ  chưa kết hôn,  có  thái  độ 
tiêu cực về khám thai và có kiến thức hạn chế về 
tầm quan trọng, cũng như lợi ích của việc khám 
thai. Vì vậy, nhân viên y tế, hệ  thống chăm sóc 
sức khỏe nên đặc biệt quan tâm chú ý đến nhóm 
đối tượng thai phụ chưa kết hôn để kịp thời phổ 
biến  những  lợi  ích  của  việc  đi  khám  thai  sớm 
trong ba  tháng đầu  thai kỳ. Chương  trình giáo 
dục  sức  khỏe  về  tầm  quan  trọng  của  việc  đi 
khám  thai  cũng nên  được phổ  biến  đến  tất  cả 
thai phụ để góp phần nâng cao nhận thức cũng 
như  thái  độ  của  thai phụ về việc  đi khám  thai 
trong ba tháng đầu của thai kỳ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Andersen  R  &  Neuman  J  (1973).  Societal  and  individual 
determinants of medical care utilization in the United States. 
The Milbank Quarterly 83(4): 1‐28. 
2. Beeckman K, Louckx F, & Putman K (2010). Determinants of 
the number of antenatal care visits  in a metropolitan region. 
BMC Public Health 10: 527‐535.  
3. Brown  C,  Sohani  S,  Khan  K,  Lilford  R,  & Mukhwana W 
(2008).  Antenatal  care  and  perinatal  outcomes  in  Kwale 
district, Kenya. BMC Pregnancy and Childbirth 8: 2‐11. 
4. Chen C, Liu T, & Chen L  (2003). National health  insurance 
and the antenatal care use: a case in Taiwan. Health Policy 64: 
99‐112. 
5. Dairo  M  &  Owoyokun  K  (2010).  Factors  affecting  the 
utilization of antenatal care services in Ibadan, Nigeria. Benin 
Journal of Postgraduate Medicine 12(1): 3‐13. 
6. Effendi  R  (2008).  Factors  related  to  regular  utilization  of 
antenatal  care  service  among  postpartum mothers  in  Pasar 
Rebo  general  hospital,  Jakarta,  Indonesia.  Unpublished 
Master’s  thesis,  Faculty  of  Graduate  Studies,  Mahidol 
University. 
7. Lieu T, Dibley M, & Byles J (2007). Determinants of antenatal 
care utilization in three rural areas of Vietnam. Public Health 
Nursing 24: 300‐310 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 89
8. McCaw Binns A, Greenwood R, Ashley D, & Golding J (1994). 
Antenatal  and  Perinatal‐Care  in  Jamaica  ‐  do They Reduce 
Perinatal Death  Rates?  Pediatric &  Perinatal  Epidemiology 
8(1): 86‐97. 
9. Ministry of Health [MOH] (2003). National safe Motherhood 
plan  in  Vietnam  2003‐2010.  Volume  5792/2003/QD‐BYT 
medical Publishing House, Hanoi; 2003. 
10. Orvos H, Hoffmann I, Frank I, Katona M, Pal A, & Kovacs L 
(2002). The perinatal outcome of pregnancy without prenatal 
care  ‐ A  retrospective  study  in Szeged, Hungary. European 
Journal  of  Obstetrics  &  Gynecology  and  Reproductive 
Biology 100: 171‐173. 
11. Petrou S, Kupek E, Vause S, & Maresh M  (2003). Antenatal 
visits and adverse perinatal outcomes  results  from a British 
population‐  based  study.  European  Journal  of Obstetrics & 
Gynecology and Reproductive Biology 106(1): 40‐49. 
12. Tran T, Nguyen C, Nguyen H, Eriksson B, Bonjers G, Gottvall 
K, & Petzold M  (2011). Urban‐rural disparities  in  antenatal 
care utilization: A study of two cohorts of pregnant women in 
Vietnam. BMC Health Services Research 11(1): 120‐129. 
13. United  Nation  [UN]  (2010a).  Achieving  the  MDGs  with 
Equity  MDGs  4.  Retrieved  on  September  29,  2012  from 
14. United  Nation  [UN]  (2010b).  Achieving  the  MDGs  with 
Equity  MDGs  5.  Retrieved  on  September  29,  2012  from 
15. UNICEF (2010). At a glance: Viet Nam. Retrieved on June 10, 
2012  from 
16. Ye  Y,  Yoshida  Y,  Rashid H, &  Sakamoto  J  (2010).  Factors 
affecting  the  utilization  of  antenatal  care  services  among 
women  in Kham district, Xiengkhouang province, Lao PDR. 
Nagoya Journal of Medical Science 72: 23‐33. 
17. Zanconato G, Msolomba R, Guarenti L, & Franchi M (2006). 
Antenatal care in developing countries: the need for a tailored 
model. Seminars in Fetal & Neonatal Medicine 11(1): 15‐20.  
Ngày nhận bài báo        09/9/2014 
Ngày phản biện nhận xét bài báo    29/9/1014 
Ngày bài báo được đăng:  20/10/2014 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhung_yeu_to_anh_huong_den_viec_di_kham_thai_trong_ba_thang.pdf