Mục lục
CHƯƠNG I 2
ĐẶT VẤN ĐỀ 2
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 2
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 3
CHƯƠNG II. 4
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 4
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 4
1. NHỮNG KHÁI NIỆM CẦN LÀM RÕ 4
1.1 Khái niệm giáo dục 4
2. Đặc điểm tâm lý cơ bản của trẻ em vị thành niên có hành vi phạm pháp 6
CHƯƠNG III : 10
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN 10
I. TÌNH TRẠNG PHẠM TỘI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN. 10
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI: 13
III. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN PHẠM TỘI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN. 15
1. Nguyên nhân phạm tội: 15
2. Điều kiện phạm tội của người chưa thành niên. 18
IV. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC CẢI TẠO ĐÃ VÀ ĐANG LÀM TẠI TRUNG TÂM CẢI TẠO. 20
1. Một số biện pháp phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội 20
2. Một số biện pháp giáo dục cải tạo đang làm tại một số trung tâm giáo dục cải tạo. 22
KẾT LUÂN VÀ KHUYẾN NGHỊ. 24
I.KẾT LUẬN. 24
II. KHUYẾN NGHỊ: 25
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1933 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Niên luận Giáo dục cải tạo người chưa thành niên phạm pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC
------
BÀI NIÊN LUẬN
ĐỀ TÀI :
GIÁO DỤC CẢI TẠO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM PHÁP
Giáo viên hướng dẫn : Trần Thu Hương
Sinh viên : Trần Xuân Anh
lớp : K46-Tâm lý
Hà Nội, 5- 2004
CHƯƠNG I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta, đặc biệt về phương diện kinh tế diễn ra sự thay đổi từ cơ chế tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo sự điều tiết của nhà nước chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu mang ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ngày càng phong phú và đa dạng, đời sống con người ngày càng một nâng cao. Nhất là giáo dục được cải cách và ngày một phát triển, giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu, trẻ em được quan tâm và chăm sóc nhiều hơn, chất lượng giáo dục ngày càng tốt hơn. Nhưng bên cạnh đó sự thay đổi nhanh chuyển biến nhiều mặt đã làm cho môi trường sống trở nên phức tạp hơn, với sự du nhập ồ ạt của nhiều nguồn văn hóa khác nhau, nhiều quốc gia khác nhau, dẫn đến sự phát triển của nhiều vấn đề xã hội bức xức, xã hội càng trở nên nhiều tệ nạn xã hội, đặc biệt là vấn đề trẻ em vị thành niên phạm tội ngày càng nhiều. Đây là vấn đề nhức nhối trong mọi gia đình và xã hội.
Hiện nay, tỉ lệ trẻ em vị thành niên phạm pháp là khá cao, theo số liệu thống kê năm 1997 số trẻ em phạm pháp ở các tỉnh chiếm 15 - 18% trong đó bao gồm các tội danh như trộm cắp tài sản công dân 87, 83% giết người 0, 95%, cướp giật 87, 88%, buôn bán ma túy 0, 3%, đánh bạc 1, 4%, lừa đảo 10, 8%.... Rõ ràng đây là một vấn đề hết sức lo ngại đối với tình hình hiện nay, vấn đề đặt ra là cần phải giải quyết như thế nào? Để đưa ra phương pháp nội dung giáo dục trẻ em vị thành niên phạm tội một cách đúng đắn để vận dụng vào giáo dục cải tạo các em đã phạm tội hòa nhập xã hội và đưa các em trở thành những người có ích cho xã hội là vô cùng cần thiết có ý nghĩa quan trọng. Đây luôn là mối quan tâm bức xúc, là vấn đề cập nhật mang ý nghĩa thiết thực trước mắt và lâu dài, chứa đựng trong nó tính nhân văn sâu sắc nhằm tôn trọng và bảo vệ nhân cách các em, chuẩn bị hành trang cho cuộc sống các em một cách đầy đủ và chu đáo nhất, đưa các em tái hòa nhập xã hội trở thành những người có ích cho xã hội. Đây chính là một sự chuẩn bị cho tương lai của đất nước.
Đây cũng chính là lý do để tôi chọn đề tài “giáo dục cải tạo những người chưa thành niên phạm tội” để làm niên luận.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu một cách hệ thống, theo quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mac - Lênin, của Đảng và nhà nước ta về vấn đề giáo dục và cải tạo người chưa thành niên phạm tội.
- Phân tích thực trạng phạm tội của trẻ em vị thành niên ở nước ta hiện nay, nguyên nhân dẫn đến quá trình phạm tội, từ đó đề ra một số phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm giải quyết vấn đề phạm tội của trẻ em vị thành niên.
CHƯƠNG II.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. NHỮNG KHÁI NIỆM CẦN LÀM RÕ
1.1 Khái niệm giáo dục
Là hoạt động có mục đích có kế hoạch nhằm truyền lại cho thế hệ sau với kinh nghiệm xã hội – lịch sử, hình thành nhân cách theo những yêu cầu của xã hội nhất định, để chuẩn bị cho con người bước vào một cuộc sống xã hội và lao động sản xuất.
Sự nghiệp giáo dục đòi hỏi tìm ra những quy luật tâm lý của việc hình thành nhân cách, nghiên cứu những phương pháp hình thức mới để đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả cao. Giáo dục cần được xem xét như quá trình tác động qua lại của nhà giáo dục và người được giáo duc. Tâm lý học nghiên cứu các quy luật hình thành con người như một nhân cách trong điều kiện của một hệ thống giáo dục có mục đích và có tổ chức.
Nghiên cứu những nguyên tắc và đặc thù của công tác giáo dục ở các giai đoạn lứa tuổi khác nhau.
Trong hoạt động bảo vệ pháp luật, hoạt động giáo dục nhằm xây dựng ý thức tuân thủ pháp luật cho mọi người dân. Giáo dục cho mọi công dân có thái độ đúng đắn với việc tuân thủ pháp luật có tác dụng răn đe và phòng ngừa tội phạm.
Giáo dục cải tạo và cảm hóa những người phạm tội, thông qua hoạt động giáo dục giúp cho người phạm tội loại bỏ phẩm chất tâm lý tiêu cực và hình thành những phẩm chất tâm lý tích cực để đưa họ trở về với xã hội.
1.2 Khái niệm giáo dục cải tạo phạm nhân.
Giáo dục cải tạo phạm nhân là một quá trình cải biến những phẩm chất tâm lý tiêu cực đã có ở phạm nhân. Đồng thời xây dựng, hình thành khôi phục phát triển những thuộc tính tâm lý tích cực, tiến bộ giúp cho phạm nhân đáp ứng được nhu cầu xã hội.
Giáo dục cải tạo phạm nhân là giáo dục lại lần hai, đây là quá trình giáo dục rất phức tạp.
Giáo dục lại lần hai phải thực hiện hai việc.
Thứ nhất: Anh phải xóa bỏ tất cả các thuộc tính tâm lý đã được hình thành trong hoạt động, tất cả các thuộc tính tâm lý được hình thành nó đã ăn sâu vào nhân cách nên rất khó loại bỏ
Thứ hai: Phải xây dựng cái mới trong thời gian không nhiều.
1.3 Khái niệm trẻ vị thành niên
Trẻ vị thành niên là người chưa hoàn thiện về mặt sinh học và nhân cách về tình dục. Trong chừng mực nào đó trẻ em chưa chịu trách nhiệm hình sự.
Trẻ vị thành niên phạm pháp theo luật hình sự là người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Vậy trẻ vị thành niên là người chưa hoàn thiện về mặt sinh lý, nhân cách về tình dục có độ tuổi được pháp luật quy định từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi và chưa chịu trách nhiệm hình sự.
1.4 Trẻ em phạm pháp là người dưới 16 tuổi có hành vi vi phạm những điều mà pháp luât cấm làm hoặc không làm, làm không đúng những điều mà pháp luật bắt phải làm.
Khái niệm trẻ phạm pháp về cơ bản đồng nghĩa với khái niệm trẻ em làm trái pháp luật.
1.5. Trẻ em phạm tội là người đủ 14 tuổi, đến chưa đủ 16 tuổi có hành vi vi phạm những điều đã được quy định trong bộ luật hình sự, có đủ chất liệu cấu thành tội phạm và được xử lý bằng hình phạt khi có bản án kết tội đã có hiệu lực của tòa án.
1.6 Vị thành niên phạm tội là những người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có hành vi vi phạm các quy phạm pháp luật đã được bản án kết tội, có hiệu lực của tòa án.
2. Đặc điểm tâm lý cơ bản của trẻ em vị thành niên có hành vi phạm pháp
Trẻ em vị thành niên hay gọi là lứa tuổi thiếu niên, ở độ tuổi này là thời kỳ chuyển đổi mạnh mẽ về sinh lý và tâm lý nhưng ở mức độ không đồng đều. Chúng thường thể hiện tâm lý rất khác nhau ở từng giới tính, trong giai đoạn này hoạt động chủ đạo của trẻ là học tập nhưng đòi hỏi mặt giao tiếp xã hội rất lớn chính vì vậy mà không ít những trẻ em biểu hiện hành vi vi phạm, vì ở độ tuổi này các em đều có tham số chung thích trở thành “người lớn” và được mọi người thừa nhận. Do đó, ở giai đoạn này cần phải có biện pháp giáo dục đúng mức vì trẻ giai đoạn này rất hay tự trọng, nhu cầu giao lưu bạn bè lớn vì một số bí mật của lứa tuổi các em thường thổ lộ với nhau. Do vậy nếu người lớn không hiểu và tôn trọng các em đã xúc phạm đến lòng tự trọng của các em và khi trẻ bị xúc phạm sẽ dẫn đến tâm lý tiêu cực và thường có hành vi lệch chuẩn về mặt đạo đức và vi phạm pháp luật.
Đặc điểm nổi bật trong thời kỳ này là, như một số đứa trẻ có nhu cầu được vừa lòng trong sự quan tâm của gia đình bố mẹ, do vậy mà chúng sẳn sàng dối trá là phương thức biểu hiện để thích nghi với môi trường gia đình và xã hội.
Bên cạnh đó, chúng thường thể hiện thông qua quá trình học tập kém, mặc dù chúng có sự phát triển về mặt thần kinh bình thường, nhưng do khả năng nhận thức kém những đứa trẻ có khuyết tật về cơ thể bản thân chúng rất tự ti trong tiếp xúc ứng xử, do vậy chúng rất dễ bị vi phạm pháp luật.
Do phát triển ở giai đoạn này đòi hỏi đứa trẻ về mặt ứng xử rất cao, cho nên những trẻ em có hành vi vi phạm thường thể hiện tính tiêu cực của tuyến ứng xử. Trước khi tuổi thiếu niên phạm tội, theo các nhà xã hội học có 83% các em có những biểu hiện vi phạm pháp luật ở các mức độ khác nhau, 10% vi phạm chuẩn mực đạo đức như quan hệ bố mẹ, người lớn tuổi.
Như vậy, cho ta thấy đứa trẻ ban đầu chưa có biểu hiện vi phạm, sau này có quan hệ mới nảy sinh theo chiều hướng nhất định.
Đặc điểm tâm lý cơ bản của trẻ em có hành vi vi phạm còn thể hiện theo hướng giao động dần, có nghĩa là những đứa trẻ đó đã biểu hiện tội phạm ở mức độ nào đó thì dễ dàng xảy ra hành vi vi phạm pháp luật. Nhìn chung, những đứa trẻ suy thoái bao giờ cũng mắc phải suy thoái đạo đức.
Chính vì vậy giáo dục đạo đức không chỉ có ở gia đình mà cần đòi hỏi nhà trường và toàn xã hội quan tâm, thường biểu hiện qua nhu cầu hứng thú, những nhận thức đúng đắn về giáo dục cải tạo phạm nhân nó có tầm quan trọng như thế nào đối với việc phát triển và hình thành nhân cách.
Các em có rất nhiều ước mơ hoài bão định hình cho công việc sau này ra trường để sớm tái hòa nhập gia đình và cộng đồng để sớm trở thành người có ích cho xã hội.
3. Một số quan điểm về giáo dục cải tạo trẻ em phạm tội trước và nay.
Giáo dục trẻ phạm tội là việc làm hết sức quan trọng và là công việc của toàn xã hội đặc biệt là các cơ quan pháp luật
Trong các trại lao động cải tạo trong cuộc sống bình thường thói quen phạm tội bắt đầu “Tan biến dần dần” bởi nó không củng cố bằng thực tế tội phạm và sự lập lại một cách có ý thức các hành vi tội phạm. Phạm nhân chóng hoà mình vào hoạt động lao động, học tập và hoạt động tập thể thì đó là điêù kiện thuận lợi để quá trình cải tạo đạt kết quả.
Đối với pháp luật hình phạt là biện pháp hạn chế với người phạm tội. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Như vậy hình phạt có 3 mục đích: trừng trị, cải tạo và giáo dục người phạm tội.
Mục đích của giáo dục cải tạo người phạm tội còn có cơ sở khác. Nó dựa trên cơ sở tâm lý con người có khả năng thay đổi dưới tác động của môi trường bên ngoài được tổ chức thông qua các hoạt động và giao tiếp tại trại cải tạo, sự “đàn hồi tâm lý” là tiền đề tâm lý cơ bản cho khả năng cải tạo giáo dục. Mục đích kể trên của hình phạt đạt được bằng các biện pháp khác nhau, sự “thấm thía” của phạm nhân do hiệu quả của sự trừng phạt mang lại chỉ đạt được khi yêu cầu của nơI giam giữ và thời hạn có hiệu lực của hình phạt được thực hiện một cách nghiêm ngặt.
Những mục đích phòng ngừ của hình phạt có cơ sở tâm lý khác. Các điều kiện giam giử và bầu không khí tâm lý được hình thành trong quá trình chấp hành hình phát, nó tách người phạm tội khỏi môi trường phạm tội.
Việc tiếp nhận chủ quản các biện pháp trừng trị phụ thuộc vào các hình thức của chế độ cải tạo, quan niệm của phạm nhân với tội lổi của mình. Cán bộ quản giáo cần biết từng nhóm phạm nhân và từng phạm nhân xẽ nhận thức và chải qua các hạn chế của cải tạo như thế nào. Trong trại phương tiện chủ yếu để cải tạo là chế độ lao động và học tập. Các thành phần này nhất thiết phải được phối hợp với chế độ, với sự tổ chức hoạt động đặc thù của trại nhằm giáo dục cải tạo người phạm tội.
Trong hoạt động giáo dục cải tạo tác động giáo dục được thực hiện cùng với chế độ, những yêu cầu bắt buộc đó là phải cách ly họ khỏi xã hội, buộc họ phải lao động tham gia vào những cuộc giao tiếp, phải lĩnh hội những kiến thức kinh nghiệm để tham gia vào lao động. Đúng như F.ANG GHEN đã nhận định lao động đã tạo ra con người. Lao động có thể và cần phải cải tạo kẻ ăn bám người phạm tội có tâm lý sống dựa dẫm, giúp cho họ tìm ra được chỗ đứng của mình trong cuộc sống. Nhưng để làm được điều đó, lao động không chỉ là công việc thể lực đặc biệt. A.X.Ma Ca ren co đã viết: “ Lao động mà không diễn ra đồng thời với nền giáo dục, với giáo dục chính trị và xã hội thì không đem lại kết quả giáo dục tốt” .
Quá trình lao động phải là cơ sở để tiếp thu những quan niệm về lợi ích xã hội và thói quen. Rèn luyện thói quen trong lao động tạo nhịp điệu chung cho quá trình lao động.
Những điều kiện được tạo ra để đạt được mục đích cải tạo ở trại đòi hỏi những người phạm tội phải nổ lực lao động thường xuyên: “Chỉ có nổ lực lao động thường xuyên mới tạo ra thói quen, và sau đó mới tạo ra nhu cầu trong lao động” A.G cô va li ốp.
Giáo dục lao động nhất thiết phải tạo ra được vất chất trong lao động. Cần tạo điều kiện để họ quyết tâm dần dần, để họ thấy rõ ràng lao động là cơ sở để tạo cho họ phồn vinh. Như vậy xẽ hình thành được ở họ sự tôn trong đối với lao động của mình và sau đó tôn trọng đối với lao động của người khác.
Học tập cũng có vai trò lớn trong giáo dục cải tạo. Học tập là phương tiện truyền đạt kinh nghiệm xã hội tích cực, trong cải tạo quá trình học tập rất phức tạp: Nó không chỉ cần thiết để truyền đạt những kinh nghịêm xã hội tích cực mà còn rất cần thiết để xóa bỏ những kinh nghiệm xã hội tiêu cực của người phạm tội, lhọc tập thường xuyên kích thích tư duy của họ, đối chiếu kinh nghiệm đã có với kinh nghiệm mới lĩnh hội.
Cần sử dụng tối đa thời gian ở trại để học tập nghiệp vụ và học tập kiến thức phổ thông. Phạm nhân phải lĩnh hội những hiểu biết có thể để họ lọai bỏ rễ dàng hơn những thiếu xót xã hội của mình. Bên cạnh đó cần truyền đạt cho họ kiến thức pháp lý.
Hoạt động cải tạo nhất thiết phải giáo dục cho phạm nhân nhu cầu thẩm mỹ, vì sau này nhu cầu thẩm mỹ xẽ làm thay đổi cách cư sử của họ và nhu cầu thinh thần trở nên phong phú hơn làm thay đổi nhân cách của họ.
CHƯƠNG III :
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
I. TÌNH TRẠNG PHẠM TỘI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN.
Trong tổng số các tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội, tội phạm được thực hiện ở người chưa thành niên luôn chiếm tỉ lệ từ 8-13% mỗi năm, đặc biệt có năm chiếm tỉ lệ cao như năm 1969 chiếm 29, 5%, năm 1970 chiếm 22, 5%, nếu lấy năm 1976 là (100%) làm cơ sở để so sánh với các năm sau thì số người bị xét xử ở tòa án các cấp năm 1977 tăng lên 113%, năm1979 tăng 117%, năm 1981 tăng 121% tính trung bình mỗi năm số người chưa thành niên bị đưa ra xét xử tăng từ 1-2%.
Theo số liệu thống kê của Bộ Nội Vụ, trong những năm gần đây (sau 1986) tội phạm được thực hiện bởi người chưa thành niên chiếm tỉ lệ từ 9-9, 2% so với tổng số vụ phạm tội trong toàn quốc xảy ra. Nếu tính từ năm 1978 - 1981 tổng số người chưa thành niên bị bắt giữ tăng lên 42000 người. Như vậy trung bình mỗi năm số người chưa thành niên bị bắt giữ là 3000 người, con số này phản ánh không chính xác thực trạng người chưa thành niên bị bắt giữ. Theo tính toán sơ bộ năm 1991, số vụ phạm tội xảy ra trong toàn quốc được đưa vào thống kê hình sự là 62.742 vụ (không kể lừa đảo) mà trong đó người chưa thành niên phạm tội chiếm 9% trong tổng số vụ phạm tội. Như vậy, số vụ phạm tội được thực hiện bởi người chưa thành niên đã là 6.971 vụ. Nếu một vụ được thực hiện bởi một người chưa thành niên thì số người chưa thành niên phạm tội đã lên đến 6.971 người. Rõ ràng rằng một nửa số vụ người chưa thành niên phạm tội không được đưa vào thống kê hình sự hàng năm.
Địa bàn xảy ra những tội phạm được thực hiện bởi người chưa thành niên chủ yếu ở các thành phố, thị xã. Theo thống kê hình sự về tổng số người chưa thành niên phạm tội thì địa bàn xảy ra nhiều nhất là Hà Nội chiếm 10-12%, thành phố Hồ Chí Minh chiếm từ 18-19%. Điều đó, phản ánh điều kiện địa lý, kinh tế, văn hóa xã hội, mật độ dân số cũng như tốc độ phát triển của các ngành công nghiệp, thương nghiệp và các dịch vụ khác có ảnh hưởng đến tình trạng người chưa thành niên phạm tội.
Trong tổng số người chưa thành niên phạm tội có 47% là thực hiện phạm tội có chuẩn bị trước, nhưng sự chuẩn bị không kỹ lưỡng cho nên thường bị bắt quả tang.
Tính chất phạm tội của những tội phạm được thực hiện bởi người chưa thành niên rất đa dạng. Người chưa thành niên hầu như phạm các tội xâm phạm trật tự xã hội và các tội xâm phạm nhân thân, phổ biến nhất là các tội trộm cắp tài sản công dân. Theo số liệu thống kê, người chưa thành niên chủ yếu phạm các tội sau đây, trong tổng số các tội phạm được thực hiện bởi người chưa thành niên:
Trộm cắp tài sản công dân 45, 6%
Cố ý gây thương tích 12, 3%
Cướp giật tài sản 6, 9%
Cướp tài sản công dân 5, 9%
Gây rối trật tự công cộng 5, 6%
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 3, 6%
Cưỡng đoạt tài sản 3, 5%
Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 3, 2%
Hiếp dâm 2, 1%
Giết người 1, 8%
đánh bạc 1, 8%
chống người thi hành công vụ 1, 6%
các tội phạm khác 7%
Như vậy tính chất phạm tội của người chưa thành niên gần như đặc điểm phạm tội của người đã thành niên. Tất nhiên trong tội chộm cắp tài sản thì tài sản lấy cắp thường không lớn, dễ tiêu thụ . Nhưng những tội phạm nghiêm trọng như cướp, cướp giật, hiếp dâm, giết người … thì giống như những người đã thành niên thực hiện. Ví dụ ngày 15.10. 1990, tại khu vực núi sam Thị xã Châu Đốc An Giang, Nguyễn Hoàng L 16 tuổi và nguyễn thành C 17 tuổi đã lừa anh Nguyễn Văn Tân là thợ chụp ảnh đến chỗ vắng, dùng dao đe dọa, dùng dây chói anh Tân cướp hai máy ảnh, một đồng hồ đeo tay và một số đồ dùng khác.
Ngày 30/3/1990 Tô Văn Đ 16 tuổi và Hà Quang A 14 tuỏi ở Phú Lương-Bắc Thái đã hiếp dâm em Hoàng Thị Phương 12 tuổi, sau đó giết chết em Phương. Ngày 10/12/1990 Huỳnh Văn K 16 tuổi là cháu ruột bà Liên 74 tuổi ở 146 Nguyễn Văn Trỗi, quận phú nhuận Thành Phố Hồ Chí Minh đã dùng dao đâm, dùng dây điện xiết cổ bà Liên cho đến chết sau đó lấy đi 7, 5 chỉ vàng và 290.000 đồng…
Như vậy qua nghiên cứ tình trạng người chưa thành niên phạm tội đã chỉ ra một số đặc điểm chính sau đây:
+ đa số tội phạm được thực hiện bổi người chưa thành niên mạng tính cơ hội nhất thời và với đọng cơ phạm tội không sâu sắc, tội phạm chủ yếu tập chung ở tội chộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích.
+ Đa số tội phạm được thực hiện đơn lẻ, nếu có tập hợp thành nhóm thì tính tổ chức của nhóm không bền vững. Tuy nhiên trong một số tội cướp hoặc cướp giật tài sản thì có sự chuẩn bị trước khi thực hiện tội phạm . + Địa bàn sảy ra nhiều nhất ở khu vực thành phố, thị xã chiếm 62%, vùng đồng bằng chiếm 28% còn lại là các vùng khác.
+ Trong những thành phố thị xã thì người chưa thành niên phạm tội ngày càng chở nên táo bạo. Trong những năm 60, 70 có rất ít các trường hợp người chưa thành niên có sử dụng bạo lực để phạm tội. Nhưng trong những năm gần đây phát triển hành vi phạm tội có sử dụng bạo lực được thực hiện bởi người chưa thành niên, song song với việc sử dụng bạo lực là thực hiện tội phạm có tính chất đồng phạm, và sử dụng các loại công cụ phương tiện phạm tội nguy hiểm. Nghiên cứu 329 người chưa thành niên phạm tội đang ở trường phổ thông đã chỉ ra rằng 35% trong số liệu trên khi phạm tội có dùng dao lê, côn, súng, vật nổ, búa… để dùng làm công cụ phương tiện phạm tội, 47% phạm tội cùng với người khác, 14, 6% phạm tội trong một tổ chức có người cầm đầu, người chỉ huy, người tổ chứ và dưới sự chỉ đạo của người đã thành niên.
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI:
Những đặc điểm dấu hiệu trong nhân thân người phạm tội là những người chưa thành niên phản ánh quá trình hình thành những phẩm chất tiêu cực trong quá trình trưởng thành của người chưa thành niên. Kết quả nghiên cứu lựa chọn người chưa thành niên phạm tội đã chỉ ra rằng: 89% tội phạm được thực hiện bởi nam giới, 11% được thực hiện bởi nữ giới.
Trình độ văn hóa của người chưa thành niên phạm tội rất thấp. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra có 44% người chưa thành niên phạm tội đã hoặc đang học dở cấp I, 48, 3% đang học dở cấp II, 5, 4% hoàn toàn không biết đọc, biết viết và 2, 3% đang học dở cấp III. Nhìn chung có 97, 7% đang học dở lớp 6 trở xuống. Số đã bỏ học khi đang ở tuổi học sinh chiếm tỉ lệ 93, 6%. Trình độ học lực thuộc loại yếu kém (có 60, 7% các em bị lưu ban một lần trở lên) và thường vi phạm kỷ luật nhà trường khi đang học (40, 7%) dẫn đến bị kỷ luật cảnh cáo hoặc bị đuổi học.
Do không tiếp tục học tập, 40% trong số họ đi làm thuê hoặc làm các nghề như bán báo, phụ xây, phụ xe, phụ bán hàng…, số còn lại không làm gì.
Đa số người chưa thành niên nhiễm thói quen xấu và không bao giờ được đọc sách báo. Qua nghiên cứu lựa chọn đã chỉ ra 85, 4% người chưa thành niên nghiện thuốc lá, thuốc lào, 33% thích uống rượu bia, 15% nghiện xì ke, ma túy, 58, 6% thích xem video với các phim trưởng, kiếm hiệp, 20% thích xem phim kích dục. Đặc biệt có 19, 2% các em hoàn toàn không thích xem bất kỳ một loại sách báo nào.
Người chưa thành niên là nữ phạm tội thường có quan hệ tình dục sớm. Trong tổng số người chưa thành niên phạm tội có 24, 6% thú nhận đã có quan hệ tình dục, trong đó 5, 4% đã mắc bệnh giang mai, bệnh lậu.
Người chưa thành niên phạm tội thường không sinh hoạt đoàn đội, 70% các em phạm tội được hỏi trả lời là không bao giờ sinh hoạt đoàn.
Hoàn cảnh sống của những người chưa thành niên phạm tội có những điểm đáng lưu ý sau:
+ có 34, 4% các em sống trong hoàn cảnh thiếu hẳn sự chăm sóc của bố mẹ đẻ mà phải sống với ông bà, anh chị em ruột, bố mẹ nuôi, bố dượng, mẹ kế hoặc sống một mình lang thang. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này rất đa dạng thường là những gia đình không hòa thuận, bố mẹ thường xuyên cãi nhau (40%) bố mẹ ly hôn hoặc ly thân (27, 7%) bố hoặc mẹ đã chết (24, 7%)bố hoặc mẹ bị tàn tật (1, 5%) bố hoặc mẹ đi ngoại tình với người khác (9, 2%).
+ sống trong gia đình đông anh em 70% người chưa thành niên phạm tội có ba anh chị em trở lên, trong đó có 21, 5% là người giữ vị trí con cả 35, 4% giữ vị trí con út trong gia đình. Số người chưa thành niên phạm tội là con trai duy nhất chiếm 16%.
+ Sự tác động qua lại giữa phương pháp giáo dục, và trình độ văn hóa của các thành viên trong gia đình có ảnh hưởng trực tiếp đến người chưa thành niên phạm tội. Đa số các em phải sống trong gia đình mà trình độ văn hóa của các thành viên trong gia đình thuộc loại thấp. Chính vì trình độ văn hóa thấp của các thành viên trong gia đình mà dẫn đến kết quả: Là không bao giờ kiểm tra kết quả học tập của con cái chiếm (21, 5%) thường xuyên đánh chửi con cái thô tục chiếm (40%)…
+ Đa số người chưa thành niên phạm tội sống trong hoàn cảnh kinh tế gia đình đủ ăn và có điều kiện phát triển. Vậy như kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng có tới 32, 4% các em sống trong gia đình có kinh tế nghèo đói ( nhà tranh tre) còn lại có 24, 6% các em sống trong gia đình khá giả ( nhà 2 - 3 tầng và tiện nghi sinh hoạt đắt tiền ) và 40, 7% diện gia đình đủ ăn.
Nghiên cứu nhân thân của người chưa thành niên phạm tội để nhằm khám phá bí mật của sự hình thành nhân cách người phạm tội dưới sự tác động của các hoàn cảnh trong cả quá trình sống. Để tìm ra hoàn cảnh cụ thể đã đưa con người đến thực hiện những hành động phạm tội, để từ đó đưa ra các biện pháp loại trừ những hoàn cảnh đó, để ngăn ngừa và không cho con người đi vào con đường phạm tội.
Như vậy phải làm rõ các phẩm chất tiêu cực vốn có của người phạm tội như các đặc điểm tâm lý, quan điểm nhận thứ, nhu cầu, sở thích, thói quen, … đẻ phục vụ cho việc giáo dục cải tạo người phạm tội, nhằm giúp họ trở thành những người công dân có ích cho xã hội.
Nghiên cứu nhân thân người chưa thành niên phạm tội là giúp cho việc phân loại tội phạm theo từng nhóm, từng loại có những đặc điểm giống nhau và khác nhau để xác định nguyên nhân, và điều kiện của từng nhóm loại tội phạm đó, để phục vụ cho việc áp dụng phương pháp phòng ngừa từng nhóm loại tội phạm, để nhằm giảm đi tình trạng phạm tội trong
Vậy thực chất nghiên cứu nhân thân người chưa thành niên phạm tội, là nhằm đáp ứng yêu cầu nghiên cứu tình trạng phạm tội để từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị, giải quyết vấn đề người chưa thành niên phạm tội trong xã hội. Đưa ra giải pháp để xây dựng con người mới, xã hội chủ nghĩa, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
III. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN PHẠM TỘI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN.
Nguyên nhân và điều kiện phạm tội của người chưa thành niên cũng nằm trong nguyên nhân và điều kiện tình trạng phạm tội ở Việt Nam nói chung. Nhưng do đặc điểm của người chưa thành niên mà xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội theo các góc độ sau đây:
1. Nguyên nhân phạm tội:
- Nguyên nhân đầu tiên làm phát sinh tội phạm được thực hiện bởi người chưa thành niên phải kể đến chiến tranh kéo dài liên tục từ chiến tranh vệ quốc đến chiến tranh biên giới.
Chính cuộc chiến tranh không chỉ đưa nền kinh tế đất nước đến tình trạng yếu kém mà còn đưa hàng triệu trẻ em Việt Nam vào tình trạng mồ côi cha mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ. Nhiều em phải sống lang thang cho nên dễ bị lừa bịp lôi kéo vào con đường thực hiện tội phạm.
- Nguyên nhân tiếp theo đưa người chưa thành niên được sống và trưởng thành trong điều kiện môi trường không thuận lợi. Chính môi trường không thuận lợi đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành nhân cách người chưa thành niên tạo cho người chưa thành niên có phẩm chất cá nhân tiêu cực và khi họ gặp những điều kiện thuận lợi họ sẽ thực hiện tội phạm. Môi trường không thuận lợi đó là:
Thứ nhất: Môi trường gia đình:
Gia đình có ảnh hưởng trực tiếp mạnh nhất đến tư tưởng, tính cách, đạo đức
người chưa thành niên. Lúc đầu, đứa trẻ chỉ bắt chước cử chỉ của bố mẹ, sau đó bắt chước cách cư xử của bố mẹ chính sự bắt chước này dần dần đã tạo nên thói quen cho đứa trẻ. Sự bắt chước của các em trong gia đình không lành mạnh thường theo hai hướng: bắt chước cha mẹ làm điều xấu và làm điều xấu do cha mẹ xúi dục. Chính vì vậy, nếu sự bắt chước là những hành vi xấu, trái pháp luật, trái đạo đức thì sẽ tạo nên thói quen xấu và rất khó sửa chữa trong quá trình trưởng thành. Kết quả nghiên cứu cho thấy, 110 bị can là người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội đã chỉ ra: 58% trong số các em có bố hoặc mẹ nghiện rượu, 15% có bố hoặc mẹ phạm pháp, 7% có anh hoặc chị đi tù, 30% các em lớn lên trong gia đình làm ăn bất chính.
Phương pháp giáo dục của cha mẹ không đúng có ảnh hưởng đến tính cách của người chưa thành niên. Thông thường phương pháp giáo dục thiên lệch về hai hướng: cực tả - có nghĩa rằng dùng đòn roi, đối xử tàn ác với người chưa thành niên, cực hữu – quá nuông chiều con muốn gì được nấy. Nếu phương pháp cực tả thì sẽ dẫn đến sự lì lợm, không biết sợ của người chưa thành niên, thì phương pháp cực hữu tạo nên thói tham lam ích kỷ… và đây chính là mầm mống đưa người chưa thành niên đi vào con đường phạm tội. Nghiên cứu người chưa thành niên phạm tội tại trường phổ thông Công Nông Nghiệp I Bộ Nội Vụ cho thấy có 21, 2% các con được nuông chiều từ nhỏ (trong đó mẹ nuông chiều gấp 10 lần bố).
Thứ hai: Môi trường nhà trường
Nhà trường là nơi truyền bá kiến thức và giáo dục phẩm cách tích cực cho người chưa thành niên. Để làm được điều này đòi hỏi những người làm công tác giáo dục có phương pháp nội dung giáo dục thích hợp giúp người chưa thành niên hoàn thiện nhân cách cuộc sống. Tất nhiên vấn đề nhà trường có nhiều vấn đề phải bàn qua nhưng qua nghiên cứu nhân thân của người chưa thành niên phạm tội đã chỉ ra đa số (93, 6%) người chưa thành niên phạm tội đang học thì bỏ học, 60, 7% các em lưu ban từ một lần trở lên, 40, 7% các em bị nhà trường kỷ luật từ cảnh cáo đến đuổi học… và từ đó chán học đi vào con đường phạm tội.
Thứ ba: Môi trường xã hội
Ngoài thời gian ở gia đình và nhà trường, người chưa thành niên có một số lượng thời gian sống ngoài xã hội. Sự tác động từ xã hội với nhiều khía cạnh khác nhau cũng xây dựng nên phẩm chất cá nhân tiêu cực cho những người chưa thành niên, đưa người chưa thành niên vào con đường thực hiện tội phạm. Qua điều tra số người phạm tội tại quận Hoàn Kiếm, Hà Nội đã chỉ ra: 68% các em thường sử dụng thời gian rỗi tại quán nước, mà quán nước chè dọc đường thường tụ tập những người nhân cách xấu chuyên bàn chuyện trộm cắp, lưu manh và hoạt động phạm tội. Chính từ đây những người chưa thành niên không được giáo dục đầy đủ tại gia đình, nhà trường lại có sự tác động tiêu cực xã hội như sự lôi kéo của những người lớn tuổi đã đưa các em đến việc thực hiện tội phạm.
Sự ảnh hưởng của văn hóa đồ trụy, bạo lực có tác động đến sự hình thành nhân cách của người chưa thành niên. Qua điều tra 255 em đang học tập tại trường phổ thông Công Nông Nghiệp I Bộ Nội Vụ đã chỉ ra: 60% các em đọc sách báo cấm, 49% các em thuộc từ 5 – 100 bài hát thuộc loại nhạc vàng. Xem xét những người chưa thành niên phạm tội hiếp dâm thì gần như 100% các em bị tác động của văn hóa đồi trụy như xem ảnh khỏa thân, xem phim sex, đọc sách báo có nội dung kích động tình dục.
Môi trường sống không thuận lợi có ảnh hưởng đến sự phát triển, hình thành nhân cách, tạo cho người chưa thành niên có thói quen tiêu cực và chính những tác động của môi trường này là nguyên nhân đưa người chưa thành niên vào con đường thực hiện tội phạm khi gặp phải những tình huống, hoàn cảnh thuận lợi trong cuộc sống.
2. Điều kiện phạm tội của người chưa thành niên.
Những điều kiện tạo nên những hoàn cảnh thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm của người chưa thành niên bao gồm:
+ Không có sự giám sát của cha mẹ hoặc của những người thân trong gia đình đối với cuộc sống và mối quan hệ của người chưa thành niên. Chính vì không có sự giám sát này mà nhiều thành viên trong gia đình, nhiều cha mẹ không biết con mình đã đi vào con đường thực hiện tội phạm và chỉ khi người chưa thành niên bị bắt thì mới biết được sự phạm tội của con em mình.
Vì không có sự giám sát từ phía cha mẹ mà nhiều người chưa thành niên bị lôi kéo vào con đường thực hiện tội phạm. Qua nghiên cứu những người chưa thành niên phạm tội thì đến 80% người chưa thành niên phạm tội do bạn bè lôi kéo, rủ rê mà gia đình hoàn toàn không biết.
+ Những thiếu sót khuyết điểm của nhà trường trong việc giáo dục, đào tạo người chưa thành niên. Những thiếu sót, khuyết điểm này không chỉ tạo khả năng thuận lợi cho sự hình thành nhân cách người chưa thành niên mà còn tạo cho người chưa thành niên bỏ học đi lang thang. Theo thống kê của ngành giáo dục, năm học 1989 - 1990 có 12, 75% các em đang học cấp I bỏ học, cấp II 27% và cấp III 19, 45%. Trong tổng số các em bỏ học năm 1991 (607.075 em) có 15.406 em bỏ học đi lang thang và đây là đội quân dự bị bổ sung vào đội ngũ người chưa thành niên phạm tội.
+ Những khuyết điểm thiếu sót trong mối quan hệ gia đình và nhà trường. Trong thực tế mối quan hệ này không chặt chẽ và mang tính hình thức. Nhiều cha mẹ người chưa thành niên phó mặc cho con em mình cho nhà trường, trong khi đó nhà trường không đủ khả năng quản lý các em. Chính vì vậy đã xảy ra tình trạng các em bỏ học nhiều ngày, nhiều tháng thậm chí cả năm mà gia đình không biết. Ví dụ, Nguyễn Tiến D, trú tại Khương Trung, Nguyễn Trãi, Hà Nội chỉ khi D bị bắt vì tội trộm cắp tài sản tại Ga Hà Nội thì gia đình mới biết em bỏ học hơn một năm trong khi đó hàng tháng D vẫn nhận tiền từ cha mẹ đi ăn quà sáng và cắp sách đến trường.
+ Những khuyết điểm trong tổ chức sử dụng thời gian nhàn rỗi của những người chưa thành niên. Những khuyết điểm này thể hiện ở trong việc tổ chức vui chơi giải trí cho người chưa thành niên. Không tổ chức cho những người chưa thành niên sinh hoạt tập thể, không hướng nghiệp cho các em khi các em bỏ học hoặc sau khi tốt nghiệp phổ thông, trong các thành phố lớn không đủ hệ thống câu lạc bộ cho trẻ em sinh hoạt…ở tỉnh Thái Bình có 421 công trình văn hóa thì chỉ có một câu lạc bộ cho người chưa thành niên. Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mỗi thành phố có hơn một triệu người trong độ tuổi chưa thành niên mà chỉ có hệ thống câu lạc bộ đáp ứng cho 10.000 em tham gia còn lại 990.000 em không có chỗ vui chơi trong thời gian tự do.
Do không có chỗ vui chơi, không có sự quản lý của gia đình và nhà trường, không có trung tâm đào tạo hướng nghiệp dạy nghề… cho nên các em phải tiêu thụ thời gian vào trò nghịch ngợm, tiêu cực. Từ đó, dễ bị lôi kéo vào con đường thực hiện tội phạm.
+ Những khuyết điểm của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội có trách nhiệm trong việc tổ chức họat động phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội. Đây là những khuyết điểm của Đoàn thanh niên Uỷ Ban thiếu niên nhi Đồng, các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội khác trong công tác giáo dục, tuyên truyền tổ chức cho người chưa thành niên trong cuộc sống.
Những nguyên nhân và điều kiện nói trên tác động qua lại lẫn nhau làm phát sinh tình trạng người chưa thành niên phạm tội trong xã hội.
IV. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC CẢI TẠO ĐÃ VÀ ĐANG LÀM TẠI TRUNG TÂM CẢI TẠO.
1. Một số biện pháp phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội
Công tác phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, đòi hỏi các cấp các ngành, đoàn thể cùng tham gia. Do những hoàn cảnh riêng biệt của người chưa thành niên phạm tội hướng vào giải quyết những vấn đề chính sau đây:
Thứ nhất: Nhóm những biện pháp của gia đình nhằm hoàn thiện sự giáo dục trong gia đình. Do quá trình hình thành nhân cách của người chưa thành niên được bắt đầu từ gia đình cho nên việc hoàn thiện giáo dục trong gia đình là điều cần thiết trước tiên hoàn thiện sự giáo dục trong gia đình được thể hiện ở những việc làm sau:
- Mọi thành viên trong gia đình phải là những tấm gương cho trẻ học tập. Cha mẹ và các thành viên trong gia đình thực sự phải là người gương mẫu, không nên làm những việc sai trái hoặc vi phạm đạo đức để cho người chưa thành niên bắt chước.
- Tổ chức hoạt động và quản lý người chưa thành niên trong thời gian rảnh rỗi, không để cho người chưa thành niên nhiễm những tiêu cực từ ngoài xã hội. Thực tế đã chỉ ra, trong những gia đình có những biểu hiện tích cực, có trách nhiệm đầy đủ đối với con em mình, luôn quan tâm kiểm tra các hoạt động của các em mình bao nhiêu thì càng tạo cho các em xây dựng được những phẩm chất cá nhân tích cực và trở thành những công dân có ích cho xã hội.
- Thuyết phục động viên và khuyến khích các em thực hiện những việc làm có ích cho xã hội, có thái độ tôn trọng pháp luật là điều cần thiết trong mỗi gia đình. Chính những việc làm này sẽ loại trừ khả năng phát sinh quan điểm và cách xử sự sai trái với yêu cầu chung của xã hội.
Thứ hai: nhóm những biện pháp của nhà trường hướng vào việc tăng cường sự hoạt động của nhà trường trong việc đào tạo giáo dục người chưa thành niên.
Sự tăng cường giáo dục của nhà trường thể hiện ở chỗ:
+ Nâng cao trách nhiệm của thầy cô trong trường phổ thông, thầy cô giáo thực sự là tấm gương cho học sinh học tập.
+ Nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, kết hợp giáo dục văn hóa với giáo dục đạo đức, hướng các em vào các hoạt động lành mạnh.
+ Giáo dục tổ chức, quản lý học sinh trên các mặt hoạt động thực tiễn như giáo dục các em biết cách ứng xử các tình huống trong cuộc sống và thực hiện các quy định của pháp luật đòi hỏi, tách các em khỏi môi trường tiêu cực, tập hợp các em vào hoạt động cụ thể, hướng nghiệp dạy nghề cho các em.
+ Đưa chương trình giáo dục, pháp luật, ý thức công dân cho các em để các em có ý thức tuân thủ pháp luật ngay từ nhỏ. Mặt khác, khi các em đã hiểu biết được pháp luật thì các em sẽ tự tin vào hành động của mình hơn.
+ Phối hợp chặt chẽ sự quản lý giáo dục giữa gia đình và nhà trường. Sự phối hợp quản lý này nêu cao ý thức trách nhiệm của cả hai phía. Ngăn ngừa kịp thời những sai phạm mà người chưa thành niên mắc phải.
Thứ ba: nhóm những biện pháp mang tính chất nhà nước và xã hội bao gồm:
+ Tập hợp những người chưa thành niên vào các đoàn thể nhất định để họ có thể nhận được sự giáo dục về phẩm chất lý tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Trong các tổ chức đoàn thể, những người chưa thành niên có điều kiện phấn đấu, rèn luyện xây dựng nhân cách con người mới.
+ Tổ chức cho những người chưa thành niên vào các hoạt động tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức tham quan nói chuyện lịch sử, đưa những người chưa thành niên vào các hội, các chi hội theo khả năng của mỗi người.
+ Tổ chức hoạt động thể dục thể thao văn hóa nghệ thuật, nhằm nâng cao nhận thức về thẩm mỹ, về cái đẹp về quan hệ giữa các con người trong xã hội. Qua nghiên cứu chỉ ra giần như 100% người chưa thành niên đều thích các hoạt động thể dục thể thao – Văn hoá nghệ thuất. Cho nên việc tổ chức cho người chưa thành niên vào các hoạt động này là cân thiết.
Thứ tư: Nhóm những biện pháp tác động của các cơ quan bảo về pháp luật.
Sự tác động của cơ quan bảo vệ pháp luật vào việc phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội là rất quan trọng. Hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật bao gồm:
+ Phát hiện ngăn chặn kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật nói chung của người chưa thành niên để có biện pháp sử lí phù hợp nhằm tạo cho các em tâm lí không thể tránh khỏi hình thức sử lí khi thực hiện các hành vi vi phạm phạm pháp luật, kể cả khi thực hiện tội phạm.
+ Phát hiện và trừng trị nghiêm khắc những người đã thành niên có hành vi dụ rỗ người chưa thành niên vào con đường thực hiện phạm tội.
+ Giải quyết các tệ nạn xã hội như Ma tuý, bụi đời, cờ bạc, mại dâm…Đang tồn tại trong xã hội để chúng không ảnh hưởng đến những người chưa thành niên.
+ Giao cho gia đình đoàn thể, xã hội và các cơ quan khác bảo lĩnh giáo dục người chưa thành niên có những biểu hiên và hành vi tiêu cực.
2. Một số biện pháp giáo dục cải tạo đang làm tại một số trung tâm giáo dục cải tạo.
Giáo dục trong quá trình cải tạo gồm những công việc sau đây: Nghiên cứu từng cá nhân cụ thể, thành lập nhóm phạm nhân trên cơ sở đó thành lập tập thể. Thực hiện tác động của chế độ, của lao động đến nhóm phạm nhân và đến mổi phạm nhân cụ thể nhằm sóa bỏ ở họ những thuộc tính, phẩm chất tâm lý tiêu cực và đồng thời tạo cho họ những kinh nghiệm, thói quen tập quán tích cực lành mạnh. Tổ chức hoạt động thường xuyên với mục đích nâng cao tinh thần ý chí, trình độ thẩm mỹ, trình độ văn hoá, hình thành nhu cầu hứng thú mới lành mạnh cho từng phạm nhân. Hướng nghiệp dậy nghề cho các em tái hoà nhập lại cuộc sống đời thường sau khi chấp hành song hình phạt tại trại cải tạo. Để làm được những vấn đề này thì những người quản lý trại, những người quản giáo có vai trò hết sức quan trọng. Hoạt động giáo dục của quản giáo trong trại giam là những người có tính nhân văn. Những người quản giáo đang từng ngày từng giờ sống cùng với phạm nhân phải là những người gương mẫu, tỏ sáng nhân cách của mình soi sáng cho họ để họ vượt qua khó khăn chử về với gia đình và xã hội.
KẾT LUÂN VÀ KHUYẾN NGHỊ.
I.KẾT LUẬN.
Qua quá trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục cải tạo người chưa thành niên phạm pháp ta có thể rút ra một số kết luận sau:
Phần lớn các em ở tuổi chưa thành niên phạm pháp đều không được giáo dục tốt từ phía gia đình. Đa số các em sống trong hoàn cảnh thiếu hẳn sự chăm sóc của cha mẹ đẻ phải sống với ông bà anh chị em ruột, bố mẹ nuôi, bố dượng mẹ kế hoặc sống một mình lang thang. Sự tác động qua lại giửa phương pháp giáo dục và trình độ văn hoá của các thành viên trong gia đình có ảnh hưởng trực tiếp đến người chưa thành niên phạm pháp. Đa số các em phải sống trong gia đình mà trình độ văn hoá của các thành viên trong gia đình thuộc lọai thấp. Chính vì trình độ văn hoá thấp dẫn đến kết quả không bao giờ kiểm tra kết quả học tập của con cái, thường xuyên đánh chửi con thô tục… Trình độ văn hoá của người chưa thành niên phạm pháp rất thấp. Số đã bỏ học khi còn đang ở tiổi học sinh rất cao, trình độ học lực thuộc loại yếu kém, đa số bị lưu ban và thường vi phạm kỷ luật nhà trường khi còn đi học.
Qua một số nghiên cứu cho thấy việc giáo dục ở dây không phải do hòan toàn thuộc về phía gia đình mà ngay cả trong môi trường nhà trường cũng đưa đẩy các em vào con đường phạm pháp như quá nghiêm khắc đối với trể, nội dung giáo dục dậy theo cách áp đặt, dập khuôn.
Thực tế hiện nay hệ thốn các cơ quan chức năng thực hiện các quyết định về vấn đề giáo dục cải tạo phạm nhân còn chưa phù hợp với các đòi hỏi mà xã hội yêu cầu. Một mặt cuộc sống của người phạm tội còn bị chi phối của giới phạm tội, điều này tác động sấu đến quá trình tái hoà nhập của các em. Mặt khác ở các trải cải tạo trong đó có các quản giáo về trình độ văn hoá, kiến thức về tâm lý giáo dục còn chưa được hoàn thiện và nâng cao. Ngoài ra mối quan hệ giữa họ với người phạm tội còn chưa được cải thiện tốtdẩn tới việc sử dụng các biện pháp hình thức và tổ chức cải tạo giáo dục phạm nhân không đúng với ý nghĩa của nó xẽ làm sai lệch nhân cách nhận thức của người phạm tội tiếp tục diển ra trong trại cải tạo.
Nhìn chung thì công tác giáo dục cải tạo đã đạt được những kết quả to
Lớn. Qua qúa trình giáo dục cải tạo nhiều em đã tìm cho mình có được hướng đi cho riêng minh và họ sẵn sàng tham gia vào quá trình táI hoà nhập cộng đồng xã hội.
II. KHUYẾN NGHỊ:
Quá quá trình nghiên cứu vấn đề người chưa thành niên phạm pháp tôi cómột số khuyến nghị sau:
Về phía gia đình cần phải có phương pháp giáo dục đứng đắn, đúng chuẩn mực không được lạm dụng trẻ. Tạo ra được môi trường sống lành mạnh để tạo cho trẻ có được môi trường sống tốt.
Gia đình và nhà trường cần có sự phối hợp qua lại với nhau. Giáo dục các em theo nội dung phương pháp đúng là những nhà sư phạm.
Về phía nhà nước phải có những chính sách thoả đáng đối với những người chưa thanh niên. Đối với những người chứa thành niên, chưa phạm pháp phải tổ chức cho các em những sân chơi mang tính chất văn minh sáng tạo. Đối với những người đã mác khuyết điểm cần có các phương pháp giáo dục cải tạo để đưa các em chở thành những người tốt trong xã hội.
Nhà nước phải có chính sách thoả đáng đối với tập thể cán bộ các trại cải tạo nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo điều kiện cho họ học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để công tác giáo dục ngày một tốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Hồi Loan - Đặng Thanh Nga. Tâm lý học tư pháp
PTS Luật, Đỗ Quang Long - Giáo trình tội phạm học. Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội - Khoa luật năm 1995.
Đặng Thanh Nga - chủ biên - Giáo trình Tâm lý học Tư pháp- Nxb Công an nhân dân - Hà Nội , 2001.
Tâm lý học Sư phạm - Nxb Giáo dục
Tâm lý học tư pháp năm - Nxb Công an nhân dân
Từ điển tiếng Việt - Nxb Giáo dục, Hà Nội 1994
Từ điển Tâm lý học - Nxb Khoa học xã hội 2000, Vũ Dũng.
Tâm lý học xã hội - Nxb Giáo dục, Hà Nội 1995.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TLH (62).doc