MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 3
I. KHÁI QUÁT VỀ NGÔN NGỮ 3
1.1. Các học thuyết về phát triển ngôn ngữ. 3
1.1.1. Quan điểm học hỏi: 3
1.1.2. Quan điểm tự nhiên. 3
1.1.3. Quan điểm tương tác. 4
1.1.4. Quan điểm về sự phát triển ngôn ngữ trẻ em của Vưgôtxki. 5
1.2. Định nghĩa ngôn ngữ. 5
1.3. Các bộ phận của ngôn ngữ. 6
1.3.1. Âm vị: 6
1.3.2. Cú pháp: 6
1.3.3. Ngữ nghĩa: 7
1.4. Các chức năng của ngôn ngữ. 7
1.4.1. Chức năng chỉ nghĩa: 7
1.4.2. Chức năng thông báo. 7
1.4.3. Chức năng khái quát hoá. 7
II. SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ 0 - 6 TUỔI. 8
2.1. Tuổi sơ sinh: (0 - 2 tháng) 8
2.2. Tuổi hài nhi (2 - 12 tháng tuổi). 8
2.3. Tuổi vườn trẻ (1-3 tuổi).(còn gọi là tuổi ấu nhi) 12
2.3.1. Hoàn thiện sự thông hiểu lời nói của người lớn. 13
2.3.2. Hình thành ngôn ngữ tích cực riêng của trẻ. 14
2.4. Thời kì mẫu giáo (3- 6 tuổi) 18
2.4.1. Nắm vững ngôn ngữ và ngữ điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ 20
2.4.2. Phát triển vốn từ và cơ cấu ngữ pháp 21
2.4.3. Sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc. 22
III. SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ Ở TRẺ CÂM ĐIẾC. 26
KẾT LUẬN. 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4702 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Niên luận Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ 0-6 tuổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC
---------------
NIÊN LUẬN
SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ 0-6 TUỔI
Sinh viên : Nguyễn Thị Lê
Lớp : K49-Tâm lý học
Hà Nội, 01-2007
PHẦN MỞ ĐẦU
Ở động vật, có nững tín hiệu do các sự vật, hiện tượng khách quan và các thuộc tính của chúng, kể cả các hình ảnh do các tín hiệu đó tác động vào não gây ra. Các tín hiệu này là cơ sở của hoạt động cảm tính, trực quan, tư duy cụ thể và cảm xúc cơ thể.
Còn với con người thì sao? Cái gì đã tách con người ra khỏi loài vật. Đó là các tín hiệu ngôn ngữ - chỉ có ở người. Các tín hiệu ngôn ngữ là cơ sở sinh lý của tư duy ngôn ngữ, ý thức, tình cảm, và các chức năng cấp cao của con người. Ngôn ngữ là công cụ để con người truyền đạt kinh nghiệm cá nhân cho người khác và sử dụng của người khác vào hoạt động của mình. Từ đó, nó làm cho mình có những khả năng to lớn, nhận thức và nắm vững được bản chất của tự nhiên, xã hội và bản thân.
Do sống và làm việc cùng nhau nên con người có nhu cầu giao tiếp với nhau và nhận thức được hiện thực. Trong quá trình lao động cùng nhau, hai quá trình giao tiếp và nhận thức đó không rời nhau: trong lao động, con người phải thông báo cho nhau về sự vạt, hiện tượng nào đó. Nhưng, để thông báo, lại phải khái quát sự vật hiện tượng đó vào trong một lớp, một nhóm các sự vật, hiện tượng nhất định, cùng loại. Ngôn ngữ đã ra đời và thoả mãn được nhu cầu thống nhất các hoạt động đó.
Một đứa trẻ, ngay từ rất sớm, nó đã biết sử dụng ngôn ngữ. Việc sử dụng ngôn ngữ không chỉ dừng lại ở việc lặp lại điều mà nó đã nghe. Mà, trẻ còn sáng tạo ra những câu nói mới, nói về những chủ đề mới và ngày càng thành thạo hơn trong việc sử dụng ngôn ngữ.
Các dân tộc khác nhau, các nền văn hoá khác nhau, ở trẻ có những ngôn ngữ khác nhau, nhưng chúng đều phải trải qua các giai đoạn phát triển về ngôn ngữ. Không phải ngẫu nhiên đứa trẻ mới sinh ra đã có thể nói được thành thạo một câu trọn vẹn, đó là cả một quá trình. Trong bài viết này, tôi chỉ xin dừng lại đi sâu phân tích sự phát triển ngôn ngữ của trẻ từ 0 - 6 tuổi. Đây là giai đoạn, mà tôi cho rằng sự phát triển ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng trong việc đặt nền tảng cho sự phát triển một cách toàn diện của trẻ ở các giai đoạn tiếp theo.
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ NGÔN NGỮ
1.1. Các học thuyết về phát triển ngôn ngữ.
1.1.1. Quan điểm học hỏi:
Những người theo quyết định học hỏi nhân cách hai quá trình bắt chước và củng cố trong học thuyết hấp thụ ngôn ngữ. Đại diện là B.F. Skiner. Trong cuốn “ứng xử ngôn ngữ” (1957), ông cho rằng trẻ em học được cách nói đúng vì chúng được củng cố khi nói đúng ngữ pháp. Người lớn bắt đầu định hình câu nói của trẻ bằng việc củng cố một cách có lựa chọn những âm tiết bập bẹ gần giống những từ có nghĩa và vì vậy làm tăng xác suất âm tiết lặp lại. Dần dần qua sự củng cố, trẻ định hình được âm tiết thành lời, người lớn ngừng củng cố (chú ý hay tán thành) cho đến khi trẻ kết hợp các trẻ lại với nhau, trước tiền là những câu đơn giản. Sau là những câu phức hợp.
Một số người khác cho rằng trẻ thu nhận phần lớn ý thức ngôn ngữ của chúng bằng cách nghe cẩn thận và bắt chước ngôn ngữ của người lớn.
Theo quan điểm này, chúng ta thấy rõ ràng là bắt chước và củng cố có vai trò quan trọng trong sự phát triển ngôn ngữ ban đầu. Nhưng học thuyết này không thể giải thích sự phát triển cú pháp.
1.1.2. Quan điểm tự nhiên.
Sơ đồ I.1. Mô hình tiếp thu ngôn ngữ của thuyết tự nhiên
Đầu vào ngôn ngữ
LAD (LMC) kỹ năng xử lý ngôn ngữ kiến thức ngôn ngữ đã có
Lý thuyết về ngôn ngữ. Âm vị, ngữ nghĩa, cú pháp
Hiểu biết về ngữ pháp của trẻ em. Nghe hiểu lời nói của người khác, sản sinh lời nói
Xác định
Đưa vào
Tạo ta
Theo các nhà tự nhiên, con người được chương trình hoá về văn hoá để hấp thụ ngôn ngữ.
Chomsky khẳng định rằng con người (chỉ có con người) bẩm sinh được trang bị bộ máy tiếp nhận ngôn ngữ (LAD). LAD là bộ máy xử lý bẩm sinh được kích hoạt nhờ đầu vào ngôn ngữ. Theo ông, LAD chứa đựng ngữ pháp phổ biến, tức là kiến thức về những qui tắc ngữ pháp chung cho mọi ngôn ngữ. Vì vậy, dù cho trẻ nghe ngôn ngữ nào, LAD sẽ cho phép những trẻ có đủ từ vựng kết hợp thành những câu nói đúng ngữ pháp và hiểu được hầu hết những gì chúng nghe được.
Dan slonbin cho rằng trẻ có “khả năng tạo ngôn ngữ” bẩm sinh (LMP) LMC cũng giống như LAD.
Khi ngôn ngữ được đưa vào, trẻ có khả năng đoán sai về cơ sở dữ liệu ngôn ngữ của chúng vô cùng hạn chế. Nhưng nếu chúng tiếp tục xử lý đầu vào, thì lý thuyết cơ bản về ngôn ngữ của chúng ngày càng phức tạp cho đến khi chúng thật sự đạt được mức độ sử dụg ngôn ngữ của người lớn. Vì vậy, những người theo quan điểm tự nhiên cho rằng tiếp thu ngôn ngữ là rất tự nhiên và gần như là tự động nếu trẻ có dữ liệu ngôn ngữ để xử lý.
1.1.3. Quan điểm tương tác.
Theo quan điểm tương tác, sự phát triển ngôn ngữ là một sản phẩm của sự chuyển hoá phức tạp giữa bản chất tự nhiên và nuôi dưỡng. Trẻ được sinh ra với bộ não của loài người. Bộ não phát triển chậm chạp nhưng nó cho phép trẻ thu nhận kiến thức mới và là động cơ để trẻ chia sẻ kiến thức với người khác.
Mặt khác, ngôn ngữ của trẻ cũng được phát triển trong khung cảnh tương tác xã hội khi trẻ và những người xung quanh nó cố gắng gửi thông điệp từ người này đến người khác. Việc trẻ thường xuyên tham gia vào giao tiếp ngôn ngữ xã hội có vẻ như là quan trọng nhất trong việc làm chủ ngôn ngữ.
1.1.4. Quan điểm về sự phát triển ngôn ngữ trẻ em của Vưgôtxki.
Vưgôtxki đề cập đến mối quan hệ tư duy và ngôn ngữ. Theo ông, tư duy ban đầu của trẻ là tiền ngôn ngữ và ngôn ngữ ban đầu thường phản ánh những gì mà trẻ biết được. Và, tư duy - ngôn ngữ cuối cùng được pha trộn, rất nhiều câu nói phi xã hội mà piaget gọi là “hướng nội” thực tế minh hoạ sự chuyển hoá từ suy luận tiền ngôn ngữ đến suy luận thành tiếng.
Vưgôtxki cho rằng độc thoại của trẻ đến tiểu học xuất hiện một cách thường xuyên hơn trong một số khung cảnh so với những khung cảnh khác. Đặc biệt, Vưgôtxki quan sát thấy trẻ thường nói một mình khi chúng thử giải quyết vấn đề hoặc theo đuổi những mục tiêu quan trọng. Những câu nói phi xã hội đó gia tăng đáng kể mỗi khi trẻ chạm trán với trở ngại lúc theo đuổi đối tượng của chúng. Ông kết luận: Lời nói phi xã hội không hướng nội mà có tính giao tiếp; nó là lời nói cho bản thân hay lời nói riêng, nó giúp trẻ hoạch định chiến lược điều chỉnh hành vi sao cho chúng để đạt được mục đích hơn.
Như vậy, ta thấy tư duy phát triển có phụ thuộc vào ngôn ngữ, vào công cụ tư duy, vào kinh nghiệm xã hội của trẻ. Vưgôtxki cũng tuyên bố rằng lời nói riêng trở nên ngày càng ngắn gọn theo lứa tuổi. Nó không mất hoàn toàn, nó phục vụ như một hệ thống tự động, trở thành lời nói nội tâm - tư duy bằng từ ngầm mà chúng ta dùng để tổ chức và điều chỉnh hoạt động thường nhật của mình.
1.2. Định nghĩa ngôn ngữ.
Có nhiều lý thuyết cũng như các lĩnh vực khác nhau bàn về khái niệm ngôn ngữ. Ở đây, tôi xin được định nghĩa ngôn ngữ theo lý thuyết tâm lý học hoạt động như sau:
Ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu từ ngữ, dùng làm phương tiện giao tiếp và công cụ của tư duy.
-Kí hiệu: là bất kỳ cái gì của hiện thực được dùng để thực hiện hoạt động của con người.
-Kí hiệu từ ngữ: là một hiện tượng khách quan trong đời sống tinh thần của con người, là một hiện tượng của nền văn hoá tinh thần của loài người, là một phương tiện xã hội đặc biệt. Kí hiệu từ ngữ cũng tác động vào hoạt động, làm thay đổi hoạt động, nhưng là hoạt động tinh thần, hoạt động trí tuệ, hoạt động cấp cao của con người.
Kí hiệu từ ngữ là một hệ thống, mỗi kí hiệu chỉ có ý nghĩa và thực hiện một chức năng nhất định trong hệ thống của mình.
1.3. Các bộ phận của ngôn ngữ.
Khi nói một đứa trẻ thành thạo ngôn ngữ, ở đó phải hội đủ ba yếu tố của ngôn ngữ: âm vị, cú pháp, ngữ nghĩa.
1.3.1. Âm vị:
Bao gồm các đơn vị âm thanh căn bản nhất gọi là các âm vị; ảnh hưởng đến ý nghĩa của cách phát biểu bằng lời nói. Hệ thống âm vị cũng liên hệ đến cách thức sử dụng các đơn vị âm thanh đó để tạo ra ý nghĩa bằng cách kết hợp chúng lại thành các từ ngữ.
1.3.2. Cú pháp:
Là các nguyên tắc qui định các từ ngữ và các cụm từ ngữ nên phối hợp ra sao để hình thành câu nói. Mỗi ngôn ngữ đều có các nguyên tắc tế nhị nhằm hướng dẫn các từ ngữ nên kết hợp với nhau theo thứ tự nào để truyền đạt ý nghĩa một cách thuận lợi.
1.3.3. Ngữ nghĩa:
Ngữ nghĩa bao gồm các qui tắc chi phối ý nghĩa của các từ ngữ và các câu nói.
Các qui tắc ngữ nghĩa cho phép chúng ta sử dụng các từ ngữ và các câu nói.
Các quy tắc ngữ nghĩa cho phép chúng ta sử dụng các từ ngữ để chuyển tải các sắc thái tinh tế nhất của ý tưởng.
1.4. Các chức năng của ngôn ngữ.
1.4.1. Chức năng chỉ nghĩa:
Ngôn ngữ được dùng để chỉ sự vật, hiện tượng, tức là làm vật thay thế cho chúng.
Nhờ chức năng này mà những kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người được trẻ tiếp thu một cách có hệ thống.
1.4.2. Chức năng thông báo.
Ngôn ngữ được dùng để truyền đạt và tiếp nhận thông tin, để biểu cảm và nhờ đó thúc đẩy, điều chỉnh hành động của con người.
Ví dụ: đứa trẻ muốn ăn một quả cam nó thấy ở trên bàn, nó nói với mẹ: “con muốn ăn cam”.
Chức năng này của ngôn ngữ còn gọi là chức năng giao tiếp.
1.4.3. Chức năng khái quát hoá.
Ngôn ngữ không chỉ một sự vật, hiện tượng riêng rẽ, mà chỉ một lớp, một loại các sự vật, hiện tượng có thuộc tính chung bản chất. Ngôn ngữ là một phương tiện đắc lực của hoạt động trí tuệ.
Có thể nói, nhờ có ngôn ngữ, các chức năng tâm lý người, từ những chức năng đơn giản nhất (cảm giác, tri giác…) đến những chức năng phức tạp nhất (tư duy, tưởng tượng…) đều được cải tổ, biến đổi về chất, làm cho đời sống tâm lí con người cao hơn hẳn đời sống tâm lý con vật.
Do đó, việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ được coi là mặt phát triển quan trọng nhất trong thời thơ ấu.
II. SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ 0 - 6 TUỔI.
2.1. Tuổi sơ sinh: (0 - 2 tháng)
Tuổi sơ sinh bắt đầu cuộc sống của mình bằng tiếng hét mà những ngày đầu mang tính chất phản xạ không điều kiện. Tiếng hét ban đầu là kết quả sự co thắt của khe dọc, sự thắt cơ kèm theo những phản xạ hô hấp đầu tiên. Một số nhà bác học cho rằng, tiếng hét cũng là sự biểu hiện của cảm xúc tiêu cực. Sự thắt cơ gây ra cảm giác khó thở. Hay trẻ có những khuôn mẫu kêu và khóc khác nhau để báo đói, đau và khó chịu (Nguyễn Văn Đồng - 2004).
Thực ra những trường hợp này không thể phân biệt được phản ứng cơ và thái độ cảm xúc vì trẻ sơ sinh vẫn chưa có một kinh nghiệm sống nào cả. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, ngay từ những ngày đầu của cuộc sống, đứa trẻ đáp lại những cảm giác khó chịu gắn liền với nhu cầu ăn, ngủ, mặc ấm bằng tiếng hét: trẻ hét khi đói, tã ướt…
Khi được giáo dục bình thường, tiếng hét “oa, oa” của trẻ sơ sinh chuyển dần dần thành sự biểu hiện ít mạnh mẽ của cảm xúc tiêu cực tiếng khóc (Mukhina, 1980).
2.2. Tuổi hài nhi (2 - 12 tháng tuổi).
Là một sinh vật còn bất lực, cuộc sống của trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào người lớn. Người lớn cho ăn no, mặc ấm, người lớn tạo ra những ấn tượng ban đầu… Do đó, giao tiếp với người lớn là nhu cầu đầu tiên, bức thiết của trẻ em tuổi này mà thiếu nó đứa trẻ không tồn tại và phát triển được.
Nhu cầu giao tiếp tạo ta cơ sở cho sự xuất hiện sự bắt chước những âm thanh trong ngôn ngữ con người. Đứa trẻ sớm bắt đầu yên lặng, lắng nghe khi người lớn nói với nó. Sau 3 tháng, nếu đứa trẻ có thể trọng tốt, nó luôn luôn phát ra các âm thanh, phát ra tiếng kêu “gừ gừ”. Thường tiếng kêu này trở nên mạnh hơn nếu người lớn cúi xuống bên cạnh đứa trẻ.
Khi phát ra âm thanh, đứa trẻ cũng lắng nghe những âm thanh đó. Có khi nó bắt chước mình một cách rõ rệt: nó phát ra các âm thanh khá lâu, những âm thanh mà đầu tiên nó phát ra một cách ngẫu nhiên. Ít lâu sau đứa trẻ có thể bắt chước khác rõ nhịp điệu của các âm được phát ra. Chẳng hạn khi người ta đưa võng cho nó đồng thời lại ru “a.. a.. a ! a… a… a!” đứa trẻ tái tạo lại chính âm thanh đó đồng thời cả nhịp điệu của chúng nữa (âm thanh có thể có thể khác: “ư … ư… ư!” hay “o… o…o!”).
Cuộc trò chuyện giữa người lớn và trẻ hài nhi nhìn bề ngoài tưởng chừng như vô nghĩa. Nhưng hực ra, nó đã khêu gợi ở trẻ trạng thái cảm xúc tích cực, sự thích thú được giao tiếp với người lớn, và bắt đầu có những phản ứng lại những sắc thái tình cảm khác nhau trong lời nói của người lớn. Trẻ thường nhoẻn miệng cười khi nghe thấy những âm thanh vui vẻ và thường mếu máo khi nghe những âm thanh dữ tợn, như mắng mỏ hay quát tháo.
Càng về cuối năm, đứa trẻ lại càng thích giao tiếp với người lớn hơn bằng những âm bập bẹ của mình. Nếu được người lớn đáp ứng thì đứa trẻ lại càng thích thú phát ra nhiều âm thanh bập bẹ hơn. Âm bập bẹ có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển ngôn ngữ sau này. Trong tiếng bập bẹ, trẻ học cách sử dụng môi, lưỡi và hơi thở để chuẩn bị cho việc học nói.
Sự thông hiểu lời nói của đứa trẻ đầu tiên xuất hiện trên cơ sở tri giác nhìn và nghe. Quá trình dạy trẻ thông hiểu lời nói thường diễn ra như sau: người lớn hỏi trẻ “cái gì đây?”, “ở đâu?”, “bố đâu?”, “mẹ đâu?”… những câu hỏi đó gây ra ở trẻ phản ứng định hướng cho trẻ nhìn thấy, sau đó cần lặp đi lặp lại nhiều làn quá trình đó, kết quả là hình thành được mối liên hệ giữa các âm thanh trong câu hỏi và đối tượng mà người lớn chỉ cho.
Lúc đầu trẻ hài nhi nghe ngôn ngữ như những âm thanh nào đó. Ngữ âm là yếu tố đầu tiên quyết định thái độ phản ứng của trẻ cũng tức là quyết định sự hiểu ngôn ngữ của trẻ. Chẳng hạn, khi người lớn nói với trẻ câu: “Lại đây với bác!” với ngữ điệu nặng nề, nghe như giận dữ thì đứa trẻ tỏ ra sợ hãi, mếu máo hoặc là khóc. Nhưng vẫn cân “Lại đây với bác!” mà lại nói với trẻ bằng ngữ điệu trìu mến, âu yếm thì đứa trẻ sẽ nhoẻn miệng cười và đưa tay ra.
Một thí dụ khác: đưa cho trẻ một bức tranh có chó sói và dê, người lớn cố tình nói bằng một giọng thô bạo: “Đây là chó sói”. Bằng một giọng êm dịu hơn: “Con dê con”. Sau đó người lớn bằng cùng một giọng: “chó sói đâu?” - trẻ chỉ đúng. “Dê con đâu?” cũng chỉ đúng. Người lớn thay đổi ngữ điệu, câu hỏi về chó sói được nói lên bằng một giọng mà trước đây người lớn nói về dê con. Trẻ chỉ con dê. Và khi hỏi về con dê cũng bằng giọng như thế, trẻ chỉ vào con dê. Người lớn hỏi về con dê bằng giọng thô bạo.Trẻ chỉ vào con sói.
Đến cuối tuổi hài nhi, đã xuất hiện mối liên hệ giữa tên đối tượng và chính đối tượng, mối liên hệ thể hiện ở sự tìm đối tượng và tìm kiếm đối tượng. Đó cũng là hình thức đầu tiên của sự thông hiểu ngôn ngữ. Lúc này trẻ có thể chỉ ra đúng đối tượng mà người lớn hỏi.
Nhưng điều quan trọng đối với trẻ không phải là việc tìm kiếm đúng đối tượng, mà quan trọng là sự tìm kiếm đó cốt là để giao tiếp với người lớn. Cứ mỗi lần được người lớn khích lệ thì đứa trẻ hết sức vui mừng, làm thoả mãn nhu cầu giao tiếp.
Cuối tuổi này, ở đứa trẻ đã có thể xuất hiện cả phản ứng ngôn ngữ để đáp lại lời nói của người lớn. Chẳng hạn, để đáp lại câu hỏi “Bố đâu?”, thông thường hơn cả là đứa trẻ quay đầu về phía bố và bập bẹ một cách vui sướng: “Bố ! Bố!”.
Thông thường, trẻ có thể nói được từ 4 đến 15 từ. Những trẻ trai thường “ít mồm” hơn. Vốn từ thụ đọng phong phú hơn nhiều. Đó là những tên gọi của đa số cá đồ chơi, bát đĩa, quần áo, đó là những mệnh lệnh thuộc loại “đưa đây”, “không được”, “lại đây nào”… Hay đó là những từ phân loại những người xung quanh theo một cách nhất định: mẹ, bố, bà, em, cô, chú…
Cùng với sự bắt đầu thông hiểu lời nói của người lớn và với việc sử dụng những từ đầu tiên, bản thân đứa trẻ cũng hướng về người lớn để đòi hỏi họ giao tiếp với mình, để đòi hỏi biết những tên gọi của những đồ vật ngày càng mới.
Như vậy, đến cuối tuổi hài nhi, sự lĩnh hội ngôn ngữ đã có tính chất tích cực và trở thành một trong những phương tiện quan trọng để mở rộng khả năng giao tiếp của đứa trẻ đối với người lớn. Thật không đúng nếu cho rằng, lúc đầu đứa trẻ trưởng thành còn sau đó thì người ta giáo dục nó, dạy nó. Tất cả các hình thức hành vi, tất cả những thuộc tính tâm lí và năng lực vốn có của con người mà đứa trẻ thu nhận được đều nhờ ngay từ thuở ấu thơ, người ta đã dạy nó đi, dạy nó hành động với các đồ vật, dạy nhìn, dạy nghe, quan sát, nhận biết, ghi nhớ (Lê Văn Hồng, 19810).
Nếu người lớn tích cực giao tiếp với trẻ, dạy cho trẻ thì ngôn ngữ trẻ sẽ phát triển tốt.
2.3. Tuổi vườn trẻ (1-3 tuổi).(còn gọi là tuổi ấu nhi)
Tuổi vườn trẻ là thời kì nhạy cảm đối với sự phát triển ngôn ngữ: chính trong thời gian này, sự lĩnh hội ngôn ngữ diễn ra có hiệu quả nhất. Việc nắm vững hoạt động với đồ vật và việc giao tiếp với người lớn tạo ra sự biến đổi đáng kể trong các hình thức giao tiếp giữa trẻ ấu nhi với người lớn. Điều đó quyết định sự phát triển ngôn ngữ ở lứa tuổi này.
Thời kì này, những hình thức “chỉ đạo câm” (tức là sự chỉ dẫn của người lớn đối với trẻ bằng cử chỉ, điệu bộ, nét mặt…) đã tỏ ra lỗi thời, không đáp ứng được nhu cầu chiếm lĩnh phương thức sử dụng đồ vật của trẻ. Hứng thú ngày càng tăng của trẻ đối với hoạt động với đồ vật càng kích thích trẻ hướng tới người lớn, mở rộng giao tiếp để mong được họ giúp đỡ trong việc nắm vững cách thức sử dụng đồ vật xung quanh. Đó chính là yếu tố làm nảy sinh ở trẻ nhu cầu giao tiếp với người lớn bằng ngôn ngữ.
Bên cạnh nhu cầu giao tiếp ngôn ngữ thì việc tích luỹ các biểu tượng do hoạt động với đồ vật mang lại có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Các biểu tượng đó tạo ra cơ sở để lĩnh hội nghĩa của các từ và để liên kết chúng với hình ảnh của các sự vật và hiện tượng trong thế giới xung quanh.
Tuy vậy, việc phát triển ngôn ngữ của trẻ ở tuổi này phần lớn là tuỳ thuộc vào sự dạy bảo của người lớn. Những đứa trẻ mà người lớn ít giao tiếp hay ít được thoả mãn yêu cầu giao tiếp thì thường nói rất chậm. Để kích thích trẻ nói, người lớn cần đòi hỏi trẻ phải bày tỏ nguyện vọng của mình bằng lời nói mới đáp ứng nguyện vọng đó.
Sự phát triển ngôn ngữ trẻ ấu nhi theo 2 hướng chính: hoàn thiện sự thông hiểu lời nói của người lớn và hình thành ngôn ngữ tích cực riêng của đứa trẻ.
2.3.1. Hoàn thiện sự thông hiểu lời nói của người lớn.
Trong khi hoạt động với đồ vật, trẻ em thường gặp những tình huống cụ thể trong các hành động với đồ vật chưa thể tách rời khỏi nhau.
Trong nhận thức của trẻ dường như chúng liên kết với nhau thành một tình huống trọn vẹn khiến cho rẻ không thể lĩnh hội các từ biểu đạt đồ vật riêng, hoạt động riêng; mà trẻ chỉ có thể lĩnh hội ngôn ngữ biểu đạt cả tình huống trọn vẹn ấy. Chẳng hạn, trẻ hiểu lời nói “đánh trống” khi trẻ trông thấy một người đánh trống hay chính trẻ đang cầm dùi gõ vào trống. Lời nói “đánh trống” là biểu đạt cho toàn bộ tình huống này.
Đứa trẻ lên hai chưa hiểu được các từ riêng lẻ: từ “trống” là để chỉ cái trống, từ “đánh” là chỉ hành động gõ vào trống. Và trẻ lại càng không hiểu lời nói “đánh trống” khi tách rời khỏi tình huống cụ thể. Cũng như vậy, đứa trẻ chỉ có thể hiểu lời nói: “Bắt tay nào” khi trông thấy một người lớn chìa tay ra bắt tay nó.
Bởi vậy, để trẻ nhanh chóng hiểu được lời nói, chúng ta cần phải kết hợp lời nói với một tình huống cụ thể, trong đó các hành động với đồ vật được thực hiện, vì lúc này trẻ chưa phản ứng trực tiếp với lời nói mà phản ưng với toàn bộ tình huống. Lời nói kết hợp với tình huống cụ hể mới tạo thành tín hiệu hành động đối với trẻ lên hai tuổi.
Sự kết hợp giữa lời nói với tình huống cụ thể được lặp đi lặp lại nhiều lần, dần dần đứa trẻ hiểu được lời nói mà không phụ thuộc vào tình huống cụ thể nữa.
Sau một tuổi rưỡi, việc hiểu lời nói tách khỏi tình huống cụ thể được tiến bộ rõ rệt. Nhờ đó, người lớn có thể dùng lời nói để chỉ dẫn hành động của trẻ và sự phục tùng của trẻ đối với lời chỉ dẫn của người lớn trở nên vững chắc hơn. Chẳng hạn, người lớn có thể yêu cầu trẻ cầm lấy một đồ vật khác ở trước mặt. Tuy nhiên, việc thông hiểu ngôn ngữ chưa thể tách khỏi tình huống cụ thể. Đối với trẻ hai tuổi, lời nói có tác dụng khởi động sớm hơn nhiều so với lời nói có tác động kìm hãm. Điều đó có nghĩa là đứa trẻ bắt đầu thực hiện hành động nào đó theo lời dẫn dễ dàng hơn nhiều so với việc ngừng lại một hành động mà người lớn buộc thôi làm, hay cấm đoán.
Ví dụ: Người lớn bảo trẻ: “đánh trống đi” thì đứa trẻ hành động ngay lập tức. Nhưng khi nó đánh trống mà người lớn lại bảo “thôi, không đánh nữa”, thì nó không ngừng ngay mà phải một lúc sau mới thôi.
Chỉ khi hiểu lời nói tách khỏi tình huống cụ thể thì việc chỉ dẫn của người lớn mới bắt đầu điều chỉnh hành vi của trẻ trong những điều kiện khác nhau. Khả năng này thường có ở đứa trẻ lên ba. Trong thời kỳ này, sự thông hiểu lời nói của người lớn được biến đổi về chất. Đứa trẻ không chỉ hiểu những từ riêng rẽ, không chỉ có khả năng thực hiện những hành động có đối tượng theo lời chỉ dẫn của người lớn. Đứa trẻ bắt đầu thích nghe bất kì lời nói nào của người lớn. Cả những lời nói không trực tiếp nhằm vào bản thân nó.
Nghe và hiểu những thông báo nằm ngoài hoàn cảnh giao lưu trực tiếp của người lớn với trẻ là một thành tựu quan trọng. Nó giúp trẻ biết sử dụng ngôn ngữ như là phương tiện cơ bản để nhận thức thế giới.
2.3.2. Hình thành ngôn ngữ tích cực riêng của trẻ.
Trẻ lên hai hoạt động với đồ vật ngày càng phong phú, thì giao tiếp với những người xung quanh ngày càng được mở rộng. Nhịp độ phát triển ngôn ngữ tăng lên. Đến cuối tuổi thứ hai, trẻ sử dụng được 300 từ và cuối tuổi lên 3 là 1500 từ.
Đặc biệt từ 20 tháng tuổi trở đi, trẻ trở nên mạnh dạn hơn có nhiều sáng kiến hơn. Điều đó không chỉ thúc đẩy trẻ cố lĩnh hội ngôn ngữ, thông hiểu lời nói của những người xung quanh mà còn kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ tích cực, tức lời nói.
Đây là thời kỳ nhạy cảm đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Trẻ không chỉ luôn đòi hỏi biết được tên các đồ vật mà còn cố gắng phát ra lời nói để hỏi tên các đồ vật đó. Chẳng hạn, trẻ nêu những câu hỏi như: “Cái gì đây?”, “Cái gì kia?” đòi hỏi người lớn phải giải đáp cho nó và trẻ rất thích thú khi gọi được đúng tên các đồ vật và hiện tượng xung quanh.
Trong những thời kỳ đầu, ngôn ngữ của trẻ ít giống với ngôn ngữ của người lớn. Chẳng hạn “ăn” thì trẻ nói là “măm”, “chuối” thì trể nói là “chúi”, “thịt” thì trẻ gọi là “xịt”, “bổ cam” thì trẻ gọi là “mổ cam”… Người ta gọi loại ngôn ngữ ấy là “ngôn ngữ tự kỉ trung tâm”. Ngôn ngữ trung tâm có các đặc diểm: ngôn ngữ nói với mình; người khác không hiểu, nếu tách khỏi văn cảnh; và nói tắt (Vưgôtxki - 1998).
Sở dĩ, ở trẻ xuất hiện ngôn ngữ ấy là vì:
Thứ nhất - do người lớn gần gũi trẻ nói với nó như vậy, họ cho rằng nói như thế dễ hiểu hơn.
Thứ hai là do trẻ nghe không chuẩn nên phát âm bị méo tiếng.
Thứ ba là do vốn từ của trẻ còn nghèo nên trẻ phải nghĩ ra một số từ để tiện giao tiếp.
Khi được giáo dục đúng đắn về ngôn ngữ, thì “ngôn ngữ tự kỉ trung tâm” của đứa trẻ sẽ nhanh chóng biến mất. Ngược lại, nếu những ngôn ngữ xung quanh khuyến khích “ngôn ngữ tự kỉ trung tâm” nó có thể tồn tại khá lâu.
Trong cuộc sống và hoạt động trẻ thường bắt gặp những sự vật và hiện tượng lạ lùng, đầy hấp dẫn khiến trẻ muốn nói lại những điều đầy thích thú và ngạc nhiên ấy cho những người xung quanh. Để mong có sự đồng cảm với mình, trẻ phải tìm cách diễn đạt ý nghĩa của mình sa ch người khác hiểu được, điều đó đòi hỏi trẻ phải nắm được một ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ.
Lúc đầu, trẻ thường dùng câu một từ. Chẳng hạn khi trẻ nói “măm” có nghĩa là muốn nói “mẹ cho con ăn cơm”. Sau đó trẻ dùng câu hai từ để chuyển tải những thông điệp khác nhau trong những khung cảnh khác nhau.
Ví dụ: Lois Bloom nói rằng trẻ có thể nói “Tất mẹ” hai lần trong ngày khi trẻ tự đi tất của mẹ vào chân và khi mẹ đi tất cho trẻ. Trường hợp đầu “tất mẹ” có nghĩa là “tất của mẹ”, còn trong trường hợp thứ ha, câu này có nghĩa “tất mẹ đi cho trẻ”.
Chún ta có thể tóm tắt các kiểu câu mà trẻ thường dùng để biểu thị các hành động như sau:
Bảng II.1. Ngữ nghĩa chung (các quan hệ ngữ nghĩa).
Quan hệ ngữ nghĩa
Ví dụ
Tác nhân + hành động
Mẹ đi, bố ngồi
Hành động + đối tượng
Lái xe, ăn nho
Hành động + địa điểm
Vào nhà, ngồi ghế
Tác nhân + đối tượng
Tất mẹ, sách bé
Vật thể + địa điểm
Bát giường (bát rên giường)
Chủ sở hữu, vật sở hữu
Bố cháu, mẹ cháu
Vật thể + tính từ
Hộp đèn, chó to
Đại từ chỉ định + vật thể
Chuông này, xe này
Thán từ + vật thể
ô mẹ ! ô xe!
Lặp lại
Sữa nữa
Vô nhân xưng
Hết kẹo
Đến 3 tuổi, ngôn ngữ tích cực của trẻ phát triển mạnh mẽ, trẻ rất thích nói và có bé nói luôn mồn suốt ngày. Nhờ đó việc sử dụng các hình thức ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ đạt tới một bước tiến bộ đáng kẻ. Trẻ nói thạo các câu đơn giản như: “Con ngồi vào lòng mẹ”, “các bạn di lung tung ra đường”, “sắp mất điện rồi”.
Cuối 3 tuổi, trẻ nói được những câu khá phức tạp như: “Tại anh đánh con nên con khóc”, “Ai mà bẩn thì không được đi chơi ngoài phố”, “con đã rửa chân nhưng vẫn còn đất”.
Nói đúng ngữ pháp tiếng mẹ đẻ là thể hiện trẻ đã đạt tới một trình độ cao trong sự phát triển ngôn ngữ. Về thực chất thì ngôn ngữ đã trở thành một phương tiện để giao tiếp, để tiếp thu kinh nghiệm xã hội, để tư duy, tìm hiểu thế giới xung quanh và là phương tiện để phát triển các chức năng tâm lí khác. Những quá trình tâm lí của trẻ như tri giác, tư duy, trí nhớ… được cải tổ dưới ảnh hưởng của ngôn ngữ. Đồng thời sự phát triển ngôn ngữ của trẻ cũng chịu ảnh hưởng của các quá trình tâm lí đó.
Nhờ sự phát triển trí tuệ mà sự lĩnh hội ý nghĩa của các từ cũng biến đổi. Chẳng hạn, đầu tuổi ấu nhi, trẻ hiểu từ “cái xẻng” còn chưa hoàn toàn đúng, đó là một đồ vật có hình dáng, màu sắc, độ lớn nào đó. Sau đó đứa trẻ hành động với cái xẻng, nhờ người lớn giúp đỡ, trẻ không những biết gọi tên “cái xẻng”; mà còn nắm được rõ ràng hơn chức năng và phương thức sử dụng nó. Do đó, hành động tri giác “cái xẻng” được rx ràng hơn, chức năng của xẻng trẻ nắm vững hơn, và việc lĩnh hội từ “cái xẻng” cũng có nội dung sâu sắc hơn. Trong suốt thời kì ấu nhi, nghĩa của các từ được giến đổi. Đây là một trong những mặt quan trọng nhất của sự phát triển trí tuệ của trẻ.ư
Một công trình nghiên cứu của G.L. Rôzêngacti-Pupcô cho thấy; khi gọi đúng tên đồ vật là trẻ đã xác định được sự thống nhất giữa ác đồ vật đó trong 75% trường hợp. Còn khi không gọi đúng tên hay hoàn toàn không biết tên đồ vật, thì trẻ chỉ thấy được sự đồng nhất trong 10% trường hợp. Khi gọi tên đồ vật thì trẻ em có thể khái quát các đồ vật cùng loại hay hình ảnh có màu khác nhau trong 45% trường hợp. Còn nếu không dùng tên hay dùng không đúng thì trẻ không khái quát được trường hợp nào. Khi khái quát các sự vật cùng loại làm bằng các vật liệu khác nhau hay các vật khác nhau làm bằng cùng một thứ vật liệu, chỉ số ta thu được là 25% và 0%. Còn khi khái quát các sự vật cùng loại hay các hình ảnh của các vật có kích thước khác nhau hoặc khi khái quát các vật khác nhau có cùng kích thước, chỉ số đó là 75% và 0%. (N.Đ. Lêvitốp - 1972).
2.4. Thời kì mẫu giáo (3- 6 tuổi)
Trong suốt lưa tuổi mẫu giáo, ngôn ngữ của trẻ được tiếp tục phát triển mạnh: ngữ âm được hoàn thiện dần, vốn từ được mở rộng, trẻ sử dụng tương đối đúng ngữ pháp tiếng mẹ đẻ.
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo diễn ra tỏng mối quan hệ với sự phức tạp hoá hoạt động của trẻ và sự biến đổi các quan hệ với những người xung quanh, đặc biệt trong giao tiếp.
Trẻ mẫu giáo có nhiều khả năng thu thập tri thức phong phú và đa dạng, có tính tự chủ cao hơn tuổi ấu nhi. Người lớn đề ra cho trẻ yêu cầu mới, dạy trẻ làm những nhiệm vụ nhất định, tổ chức cho trẻ nhiều hoạt động hơn (như trò chơi đóng vai theo chủ đề, trò chơi xây dựng, vẽ, nặn, hát, múa, đọc thơ, kể chuyện…). Trẻ còn được tham gia vào các hình thức lao động đơn giản và hình thức học tập tuy còn ở dạng sơ khai. Hơn nữa, việc phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo còn liên quan chặt chẽ với sự phát triển tư duy, trực quan hành động sang kiểu tư duy trực quan hình tượng, kiểu tư duy bắt đầu có lập luận trong óc.
Tất cả những cái đó kích thích trẻ vươn tới nắm các phương diện ngôn ngữ ngày càng phong phú, chính xác, chuyển sang một bước mới trong sự phát triển ngôn ngữ.
Từ vựng của trẻ mẫu giáo tăng lên rất nhanh (từ 300 - 400 từ ở lứa tuổi vườn trẻ tăng lên khoảng 3000 - 4000 từ ở lứa tuổi mẫu giáo). Cấu trúc ngữ pháp trong ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo được hoàn thiện dần, phát âm cũng chính xác dần.
Nếu ở tuổi vườn trẻ, ngôn ngữ của trẻ gắn chặt với điều các em tri giác và hành động thì ở tuổi mẫu giáo, ngôn ngữ mang tính chất khái quát hơn.
Đặc biệt, cuối tuổi mẫu giáo thì trẻ có thể sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách thành thạo trong sinh hoạt hàng ngày; và ngôn ngữ thực sự trở thành cơ sở để cải tổ các quá trình tâm lí, giúp cho đời sống tinh thần của trẻ có một chất lượng mới.
Một trong những thành tựu lớn lao nhất của giáo dục mầm non (tức là giáo dục trẻ em trước tuổi đi học) là làm cho trẻ sử dụng một cách thành thạo tiếng mẹ đẻ trong đời sống hàng ngày. Tiếng mẹ đẻ là phương tiện quan trọng nhất để lĩnh hội nền văn hoá dân tộc, để giao tiếp với những xung quanh, để tư duy, để tiếp thu khoa học.
Muốn tiếp thu được các kiến thức ở tiểu học, thì ngay ở trường mẫu giáo, trẻ phải hoàn thành tốt việc phát triển tiếng mẹ đẻ. Nếu một đứa trẻ 5 - 6 tuổi mà nói năng ấp éng, phát âm ngượng nghịu, vốn từ nghèo nàn tới mức không đủ để diễn đạt những điều mình muốn nói, không sử dụng được ngữ pháp để nói mạch lạc cho mọi người hiểu được mình thì có thể biết em bé đó vào loại chậm phát triển (Nguyễn Ánh Tuyết, 2001).
Lứa tuổi mẫu giáo là thời kỳ bộc lộ tính nhạy cảm cao nhất đối với các hiện tượng ngôn ngữ. Điều đó khiến cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ đạt tốc độ nhanh; và đến cuối tuổi mẫu giáo thì hầu hết trẻ em dều biết sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách thành thạo trong sinh hoạt hàng ngày. Sự hoàn thiện tiếng mẹ đẻ ở trẻ mẫu giáo theo các hướng sau:
2.4.1. Nắm vững ngôn ngữ và ngữ điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ
Ở tuổi mẫu giáo, do việc giao tiếp bằng ngôn ngữ được mở rộng trong những năm trước đây, tai âm vị được rèn luyện thường xuyên để tiếp nhận các ngữ âm khi nghe người lớn nói. Mặt khác, cơ quan phát âm đã trưởng thành đến mức trẻ có thể phát ra những âm tương đối chuẩn, kể cả những âm khó của tiếng mẹ đẻ (như uềnh, oàng, khúc khuỷu…). Chỉ trong trường hợp bộ máy phát âm của trẻ bị tổn thương, hay do chịu ảnh hưởng lời nói ngọng của người lớn trong địa phương, thì trẻ mẫu giáo mới phạm nhiều lỗi trong việc nắm ngữ âm của tiếng mẹ đẻ.
Trẻ mẫu giáo lớn cũng đã biứt sử dụng ngữ điệu một cách phù hợp với nội dung của câu chuyện mà trẻ kể. Trẻ thường dùng ngữ điệu êm ái để biểu thị tình cảm yêu thương trìu mến. Ngược lại, khi giận gữ, trẻ lại dùng ngữ điệu thô và mạmh. Khả năng này được thể hiện khá rõ khi trẻ kể những câu chuyện mà mình thích cho người khác nghe.
2.4.2. Phát triển vốn từ và cơ cấu ngữ pháp
Vốn từ của trẻ mẫu giáo tích luỹ được khá phong phú không chỉ về danh từ mà cả về đọng từ, đại từ, tính từ, liên từ… Trẻ nắm được những từ trong tiếng mẹ đẻ đủ để diễn đạt các mặt trong đời sống hàng ngày. Bản thân việc tăng thành phần từ ngữ sẽ không có ý nghĩa to lớn nếu trẻ không đồng thời nắm kỹ năng kết hợp các từ trong câu theo quy tắc ngữ pháp.
So với tuổi vườn trẻ, nói chung vốn từ ngữ của trẻ mẫu giáo tăng lên ba lần. Và sự tăng vốn từ ngữ phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện sống và giáo dục. Nếu điều kiện sống và giáo dục tốt, thì trẻ ở cuối tuổi mẫu giáo đã có thể sử dụng ngữ pháp tiếng mẹ đẻ một cách thành thạo, mặc dù quá trình đó diễn ra một cách không có ý thức, khác với quá trình học ngữ pháp một cách có ý thức ở trường phổ thông sau này.
Sự lĩnh hội ngôn ngữ được quyết định bởi tính tích cực cao của bản thân, đứa trẻ đôi với ngôn ngữ. Tính tích cực này thể hiện trong cách cấu tạo từ và biến đổi từ mà trẻ xây dựng theo những mẫu có sẵn.
Bên cạnh việc hướng tới ý nghĩa của các từ, hướng tới thực tại được biểu thị bằng các từ, trẻ mẫu giáo còn tỏ ra rất quan tâm, điển hình thức âm thanh của các từ, bất kể ý nghĩa của các từ đó như thế nào. Các em thường chủ tâm cải biến các từ “sáng tạo” những từ mới. Chẳng hạn bè Hoàng Anh (5 tuổi) đã nói “vịt ngã lộn phèp”, hay bé Vàng Anh (6 tuổi) đã dùng từ ngữ rất mới lạ để nói về màu đỏ như “đỏ choen choét”.
Tính tích cực của trẻ đói với ngôn ngữ thường chỉ dồn vào hình thức thơ ca,nhưng ở đây chưa thể gọi là những sáng tác thơ ca.
Một bài thơ đầu tiên của bé Thuý Giang làm lúc gần 6 tuổi:
Cái vườn nho nhỏ
Cô giáo dến chơi
Cô đưa võng đỏ
Ru chú mặt trời
(Bài “cái vườn”)
Bài mưa” của bé Ngô Thị Bích Hiền làm lúc 5 tuổi:
Mưa mưa mưa
Rơi rơi rơi
Từng hạt một
Lộp bộp bộp
Trên mái nhà
Thành chùm hoa
Dưới hồ nước
Ướt ướt ướt
Tên lá cây
Lay lay lay
Cánh cửa sổ
Sạch đường phố
Mát đôi chân
Trời tạnh dần
Yêu mưa lắm
Trong khi sử dụng ngôn ngữ,trẻ băt đầu tìm hiểu nghĩa của từ và nguồn gốc của nó.Mot trẻ mãu giao đã giải thích cho bạn hiểu:con cua bò thi gọi là ”bê” vì nó hay kêu bê bê.
2.4.3. Sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc.
Ngôn ngữ mạch lạc thể hiện một trình độ phát triển tương đối cao không những về phương diện ngôn ngữ mà cả phương diện tư duy nữa.
Ở tuổi mẫu giáo, trước đây trẻ sử dụng ngôn ngữ tình huống là chủ yếu. Ngôn ngữ này là những câu hỏ nảy ra liên quan với hoạt động hoặc khi tìm hiểu những đối tượng (hiện tượng mới), là những câu trả lời cho các câu hỏi, và cuối cùng, là những yêu cầu nào đó.
Những người đang nói chuyện với nhau thì hoàn toàn hiểu rõ ngôn ngữ tình huống, nhưng thường những người ngoài cuộc, không nắm được tình huống, thì không hiểu nổi. “tính tình huống” có thể được diễn đạt trong ngôn ngữ trẻ em bằng những hình thức rất đa dạng. Chẳng hạn, một trường hợp điển hình đối với ngôn ngữ tình huống là bỏ chủ ngữ. Trong phần lớn trường hợp, chủ ngữ được thay bằng đại từ. Ngôn ngữ chứa đầy các từ “nó”, “bà ấy”, “chúng nó”, và dựa theo ngữ cảnh thì không thể nào xác định được các đại từ ấy thuộc về ai( hay thuộc về cái gì). Ngôn ngữ cũng chứa nhiều trạng từ và những câu khuôn sáo, song những từ này hoàn toàn không giúp xác định rõ hơn nội dung của câu nói. Chẳng hạn, các em dùng từ “ở đấy” hoàn toàn theo hình thức chứ không phải theo nội dung.
Bé nói: “ở đây, trên phố đằng xa có treo cờ, ở đấy có nước, ở đấy ướt át, ở đấy, mẹ đi với em, ở đấy ướt át, họ muốn về nhà mà vẫn cứ mứa. Vì nó đòi ăn, có khách”. (Nội dung câu chuyện mà em bé này kể lại: bé và em trai cùng mẹ đi xem biểu tình, nhưng trời bắt đầu mưa. Mẹ cùng với các con quay về nhà và mẹ giải thích với bé rằng ở nhà có khách đợi, mả em bé đòi ăn).
Người đối thoại với đứa trẻ chờ đợi ở em một ngôn ngữ sáng sủa, diễn cảm, đòi hỏi em phải xây dựng một ngữ cảnh ít phụ thuộc hơn vào tình huống. Do ảnh hưởng của những người xung quanh, trẻ em bắt đầu chỉnh đốn ngôn ngữ tình huống thành một ngôn ngữ dễ hiểu hơn đối với người nghe. Dần dần, các em đưa vào những danh từ để thay thế cho các đại từ được nhắc đi nhắc lại luôn luôn.
Ở trẻ mẫu giáo lớn, bắt đầu xuất hiện cấu trúc ngôn ngữ điển hình. Lúc đầu, em dùng đại từ “nó”, nhưng về sau dường như cảm thấy sự trình bày của mình không rõ ràng, em bèn dùng danh từ để thuyết minh cho đại từ: “nó (cô gái) đi”, “nó (con bò) húc”, “nó (chó sói) về”, “nó (quả bóng) lăn”… Đó là một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em. Phương thức trình bày theo tình huống tựa hồ như bị cắt ngang bởi những lời thuyết minh thêm với người đối thoại. Ở giai đoạn phát triển này của ngôn ngữ, những câu hỏi về nội dung câu chuyện có tác dụng khêu gợi nguyện vọng trả lời tỉ mỉ hơn và dễ hiểu hơn.
Trẻ em dần dần nắm được ngôn ngữ ngữ cảnh cùng với việc mở rộng phạm vi giao lưu và sự phát triển của hứng thú nhận thức. Ngôn ngữ ngữ cảnh mô tả tình huống khá đầy đủ để nghười nghe không tri giác trực tiếp tình huống đó cũng hiểu được. Kể lại nội dung một cuốn sách, thuật lại một sự kiện lý thú hay mô tả sự vật mà không trình bày rõ ràng, khúc chiết thì người nghe không thể hiểu được. Đứa trẻ bắt đầu tự đề ra ch mình những yêu cầu nhất định và cố gắng tuân theo những yêu cầu đó khi nói năng.
Tuy nắm được quy luật xây dựng ngôn ngữ ngữ cảnh, trẻ em không phải là đã thôi không dùng ngôn ngữ tình huống nữa. Ngôn ngữ tình huống không phải là ngôn ngữ kém tác dụng. Trong điều kiện giao lưu trực tiếp, ngay cả người lớn cũng dùng ngôn ngữ này. Dần dần, trẻ em cũng sử dụng hoàn thiện và đúng lúc hơn khi thì ngôn ngữ tình huống, khi thì ngôn ngữ ngữ cảnh tuỳ theo điều kiện và tính chất của giao lưu.
Trẻ em nắm được ngôn ngữ ngữ cảnh nhờ được học tập một cách có hệ thống. Trong lúc buổi học ở vườn trẻ, các em buộc phải trình bày những nội dung trừu tượng hơn so vơi trong ngôn ngữ ngữ cảnh tình huống; ở các em nảy sinh nhu cầu về những phương tiện và hình thức ngôn ngữ mới mà các em học được trong ngôn ngữ của người lớn. Theo hướng này, trẻ em lứa tuổi mẫu giáo chỉ mới đi được những bước đầu tiên. Ngôn ngữ ngữ cảnh được tiếp tục phát triển ở lứa tuổi học sinh.
Một kiểu đặc biệt của ngôn ngữ trẻ em là ngôn ngữ giải thích. Ở lứa tuổi mẫu giáo, trẻ em có nhu cầu giải thích cho các bạn cùng tuổi về nội dung trò chơi, về cách chế tạo đồ hcơi và nhiều chuyện khác. Nhiều khi chỉ một sự chưa hiểu nhau rất nhỏ cũng gây ra sự không hài lòng giữa người nói và người nghe, dẫn tới xung đột và hiểu lầm. Ngôn ngữ giải thích đòi hỏi phải trình bày theo một trật tự nhất định, phải nêu bật và chỉ rõ những liên hệ và quan hệ chủ yếu mà người đối thoại phải hiểu. Kiều ngôn ngữ giải thích mạch lạc có ý nghĩa quan trọng đối với sự hình thành các quan hệ qua lại trong tập thể của trẻ em, cũng như đối với sự phát triển trí tuệ của các em, kiểu ngôn ngữ này chỉ mới bắt đầu phát triển ở lứa tuổi mẫu giáo, bởi vậy trẻ em ở lứa tuổ này rất khó lắng nghe đến hết những lời giải thích của người lớn. Các em thích bắt tay vào chơi ngay, chứ không chịu tập trung nghe giải thích về điều kiện và quy tắc chơi.
Ngôn ngữ giải thích mạch lạc - là ngôn ngữ cần thiết trong trường hợp một em bé này muốn rủ một em khác cùng tham gia một trò chơi mới, thường được trẻ mẫu giáo thay bằng ngôn ngữ tình huống. Trẻ mẫu giáo gặp khó khăn trong việc nói năng như thế nào để giải thích vì sao phải làm như thế này mà không làm như thế khác. Em chỉ tập trung sự giải thích của mình vào hoạt động thi hành của người mà mình muốn rủ cùng chơi. Trong trường hợp khi người lớn tạo ra những điều kiện riêng đòi hỏi trẻ mẫu giáo lớn phải vạch rõ ý nghĩa của lời giải thích tuỳ theo phản ứng của người nghe, sao cho người ấy hiểu được nội dung lời gth.
Muốn cho ngôn ngữ được mạch lạc thì những điều trẻ định nói ra cần phải được suy nghĩ rõ ràng, mạch lạc, rành mạch ngay từ trong đầu, tức là cần được tư duy hỗ trợ. Mặt khác, chính ngôn ngữ mạch lạc lại là phương tiện làm cho tư duy của trẻ phát triển lên một chất lượng mới. Nếu ở tuổi mẫu giáo nhỏ, người ta quan sát thấy trong khi hành động để giải quyết một nhiệm vụ (bài toán) thực tế nào đó, ngôn ngữ thường đi sâu hành động, tựa như đứa trẻ vạch kế hoạch hành động (Vũ Thị Nho, 2003). Nhờ đó đã manh nha cho sự phát triển loại tư duy “tiền khái niệm” sẽ chiếm vị trí quan trọng ở giai đoạn sau.
III. SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ Ở TRẺ CÂM ĐIẾC.
Những đứa trẻ điếc bẩm sinh hau bị mất thính giác từ khi còn nhỏ học hỏi ngôn ngữ nói rất khó. Trái ngược hẳn với quan điểm thông thường, trẻ điếc không học hỏi được nhiều từ cách nhìn máy môi để hiểu. Những con cái bị diếc của bố mẹ bình thường, thường thiểu năng trong phát triển ngôn ngữ nếu chúng không được làm quen và học ngôn ngữ câm điếc.
Mất khả năng nghe là nhân tố chính quyết định đặc thù phát triển ngôn ngữ của trẻ điếc.
Ngôn ngữ của trẻ mất hoàn toàn sức nghe không thể phát triển một cách tự phát trong quá trình thực hành lời nói. Ngôn ngữ chỉ hình thành trong những điều kiện giáo dục đặc biệt dưới sự điều khiển của người thầy.
Khác với trẻ nghe rõ, cơ sở của sự phát triển ngôn ngữ của trẻ diếc không phải là cảm giác thính giác mà là những cảm giác thị giác, cảm giác vận động, cảm xúc - rung.
Thực hành ngôn ngữ của trẻ điếc là hạn chế và nghè nàn so với trẻ nghe rõ. Bởi vậy, việc hình thành ngôn ngữ cho trẻ điếc theo nguyên tắc giao tiếp ngôn ngữ trở thành nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà trường.
Trẻ nghe rõ thu nhận ngôn ngữ sớm hơn so với trẻ điếc. Trẻ nghe rõ từ 6 8 - tháng tuổi đã bắt đầu hình thành ngôn ngữ thụ odòng và sau một năm thì ngôn ngữ chủ động phát triển. Ở trẻ điếc quá trình này chỉ bắt đầu khi chúng được nhận vào lớp mẫu giáo và khi vào trường học phổ thông. Nhu cầu nói, hỏi điều gì đó, biểu thị ý nghĩa, ý muốn của trẻ điếc không kém gì những trẻ nghe rõ. Nhu cầu này sinh ra một hệ thống giao tiếp độc đáo, khác căn bản với hệ thống ngôn ngữ đó là điệu bộ, cử chỉ, chữ cái ngón tay, đọc lệch miệng. Đứa trẻ khiếm thính còn nhỏ tuổi khi cần biểu thị những ý nghĩ của mình, ban đầu dùng những điệu bộ và dấu hiệu tự nhiên, về sau sáng tạo ra. Thiếu ngôn ngữ, sự hạn chế và nghè nàn của việc giao tiếp bằng ngôn ngữ làm cho nó mất khả năng vận dụng kinh nghiệm của người lớn, mất khả năng thu nhận những khái niệm mới.
Tất cả điều này để lại dấu ấn trong phát triển chung của trẻ điếc. Độ tuổi càng lớn thì khoảng cách giữa trẻ điếc và trẻ nghe rõ càng lớn. Thực tế, nó có thể bù đắp đáng kể nếu tạo được điều kiện giáo dục đặc biệt phù hợp cho trẻ điếc. Trước đây, dạy nói cho trẻ điếc chỉ bắt đầu vào thời điểm trẻ đến trường. Ngày nay, có những nhà trẻ đặc biệt, ở đây dạy nói và hình thành khái niệm cho trẻ từ độ tuổi rất nhó.
KẾT LUẬN.
Sau khi tìm hiểu các nội dung khác nhau về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ từ 0 - 6 tuổi, đồng thời với việc phân tích, đánh giá những nội dung đó, đứng từ góc độ tâm lý học, chúng ta có thể đưa ra những kết luận như sau:
-Bất cứ ai gần gũi với trẻ đều để ý thấy những bước tiến bộ phi thường trong quá trình hình thành ngôn ngữ ở suốt giai đoạn ấu thơ của chúng. Nhưng không phả ai cũng hiểu được nguyên nhân của sự tiến bộ nhanh chóng ấy. Bởi vậy, qua các thực nghiệm của các nhà khoa học, lý thuyết về sự phát triển ngôn ngữ đã đem lại cho chúng ta những hiểu biết sâu sắc về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ, ảnh hưởng của sự phát triển đó đói với quá trình hoàn thiện bản thân trẻ.
-Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ có đạt đến mức độ nhất định hay khôn, bên cạnh những năng lực của trẻ, cần phải có sự hỗ trợ đắc lực của người lớn, của cả cộng đồng.
-Đối với những trẻ câm điếc, để hoàn thiện về mặt ngôn ngữ, đòi hỏi phải có sự cố gắng rất nhiều. Mọi người cần quan tâm, giúp trẻ hoà nhập tốt với môi trường chung của xã hội.
Tóm lại, qua việc phân tích sự phát triển ngôn ngữ của trẻ từ 0 - 6 tuổi, chúng ta đã có điều kiện để hiểu sâu thêm về bản chất và những vấn đề liên quan một cách bện chứng. Từ đó, nó có thể giúp chính bản thân mình cùng với những người xung quanh có sự quan tâm đúng đắn đến việc chăm sóc cho mầm non của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Văn Hồng: Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm - Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1981.
Nguyễn Ánh Tuyết: Tâm lý trẻ em, Nxb Giáo dục, 2001.
Phạm Minh Hạc: Tâm lý học Vưgôtxki, tập 1, Nxb Giáo dục, 1998.
Nguyễn Quang Uẩn: Tâm lý học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003.
Nguyễn Văn Đồng, Tâm lý học phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, 2004.
Vũ Thị Nho, Tâm lý học phát triển, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003.
Lêvitốp,N.D: Tâm lý trẻ em và tâm lý học sư phạm, T9, Nxb Giáo dục, 1972.
Poberts Feldman: Tâm lý học căn bản, Nxb ĐHQGTPHCM, 2005.
Mukhina,V.X : tâm lý học mẫu giáo, T1, Nxb Giáo dục, 1980.
10. Mukhian,V.X: Tâm lý học mẫu giáo, T2, Nxb Giáo dục, 1980.
11. Sinhiak,V.A - Nudenman, M.M: Những đặc điểm của sự phát triển tâm lý trẻ điếc, Nxb CTQG, 1999.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NNH 39.DOC