Niên luận Tìm hiểu tài nguyên du lịch tự nhiên tỉnh Quảng Bình

MỤC LỤC Trang Lời cảm ơn 1 Mục lục 2 A. Phần mở đầu: 4 I. Lý do chọn đề tài : 4 II. Mục đích nghiên cứu: 4 III. Nhiệm vụ nghiên cứu: 4 IV. Phạm vi nghiên cứu: 4 1. Về nội dung: 4 2. Về không gian: 4 V. Quan điểm nghiên cứu: 4 VI. Phương pháp nghiên cứu: 5 B. Phần nội dung: 6 Chương 1: Cơ sở lý luận về tài nguyên du lịch tự nhiên 6 1.1 Các khái niệm: 6 1.1.1 Tài nguyên. 6 1.1.2 Du lịch. 6 1.1.3 Tài nguyên du lịch. 6 1.1.4 Tài nguyên du lịch tự nhiên. 6 1.2 Phân loại tài nguyên du lịch. 6 1.3 Vai trò của tài nguyên du lịch trong việc phát triển du lịch: 6 1.4 Tác động của hoạt động du lịch đến tài nguyên du lịch tự nhiên: 6 a. Tác động đến tài nguyên địa hình: 6 b. Tác động đến tài nguyên nước: 7 c. Tác động đến tài nguyên sinh vật 8 Chương 2: Tìm hiểu tài nguyên du lịch tự nhiên tỉnh Quảng Bình. 10 2.1 Khái quát đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội tỉnh Quảng Bình. 10 2.1.1 Đặc điểm tự nhiên. 10 2.1.2 Đặc điểm kinh tế xã hội. 11 2.2 Tài nguyên du lịch tự nhiên tỉnh Quảng Bình. 13 2.2.1 Tài nguyên địa hình 13 2.2.2 Tài nguyên động, thực vật. 20 2.2.3 Tài nguyên nước: 22 Chương 3: Định hướng và giải pháp khai thác tài nguyên du lịch tự nhiên tỉnh Quảng Bình. 27 3.1 Cơ sở để đưa ra định hướng và giải pháp khai thác tài nguyên du lịch tỉnh Quảng Bình. 27 3.1.1 Tài nguyên du lịch: 27 3.1.2 Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch 28 3.1.3 Đầu tư cho phát triển du lịch: 29 3.1.4 Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch. 29 3.2 Định hướng khai thác tài nguyên du lịch tự nhiên tỉnh Quảng Bình. 30 3.2.1 Định hướng phát triển các loại hình du lịch: 30 3.2.2 Định hướng phát triển không gian: 30 3.2.3 Định hướng phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật: 30 3.2.3 Xác định các chương trình dự án ưu tiên đầu tư: 31 3.3 Giải pháp khai thác tài nguyên du lịch tự nhiên tỉnh Quảng Bình. 31 C. Phần kết luận và kiến nghị: 34 I. Kết luận: 34 II. Kiến nghị: 34 Tài liệu tham khảo 35 A. Phần mở đầu: I. Lý do chọn đề tài: Du lịch là một ngành kinh tế đem lại nhiều lợi nhuận, nó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Một phần rất quan trọng và không thể thiếu được trong du lịch đó chính là tài nguyên du lịch, sự phối hợp giữa tài nguyên du lịch với các thành phần khác để tạo ra sản phẩm du lịch phục vụ du khách đem lại hiệu quả kinh tế, Nhận thấy được tầm quan trọng đó của tài nguyên du lịch cho nên cần phải nghiên cứu, tìm hiểu nguồn tài nguyên du lịch hiện có đồng thời phát hiện thêm những tài nguyên du lịch mới để đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành du lịch. Đối với Việt Nam hiện nay nguồn tài nguyên du lịch khá phong phú và đa dạng đây là một tiền đề hết sức quan trọng để đưa ngành du lịch nước ta ngành càng phát triển. Quảng Bình là một tỉnh có nhiều thế mạnh để phát triển du lịch, trong đó thế mạnh về tài nguyên du lịch mà đặc biệt là tài nguyên du lịch tự nhiên được biểu hiện rất rõ. Tuy nhiên hiện nay ngành du lịch của tỉnh vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh, chưa khai thác được nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên một cách có hiệu quả nhất. Hiện nay du lịch là một ngành kinh tế mà đang được tỉnh Quảng Bình chú trọng đầu tư phát triển. Để có thể tìm hiểu về nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên một cách có hệ thống và từ đó đưa ra những định hướng, những giải pháp nhằm khai thác hợp lý, có hiệu quả và có định hướng góp phần phát triển ngành du lịch của tỉnh nên tôi chọn đề tài này. II. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở tìm hiểu tài nguyên du lịch tự nhiên để từ đó đưa ra những định hướng, những giải pháp nhằm khai thác hợp lý, có hiệu quả và có định hướng góp phần phát triển ngành du lịch. III. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Xây dựng cơ sở lý luận của tài nguyên du lịch tự nhiên - Tìm hiểu về tài nguyên du lịch tự nhiên - Đưa ra những định hướng và giải pháp khai thác nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên. IV. Phạm vi nghiên cứu: 1. Về nội dung: Tài nguyên du lịch tự nhiên 2. Về không gian: Tỉnh Quảng Bình V. Quan điểm nghiên cứu: 1. Quan điểm tổng hơp 2. Quan điểm lịch sử 3. Quan điểm viễn cảnh 4. Quan điểm kinh tế 5. Quan điểm hệ thống 6. Quan điểm bền vững 7. Quan điểm lãnh thổ VI. Phương pháp nghiên cứu: Thực hiện đề tài này tôi sử dụng các phương pháp sau: 1. Phương pháp thu thập tài liệu 2. Phương pháp phân tích tổng hợp 3. Phương pháp bản đồ 4. Phương pháp thực địa 5. Phương pháp thống kê

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2440 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Niên luận Tìm hiểu tài nguyên du lịch tự nhiên tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phục là: (1) đây là khu vực điển hình cho lịch sử hình thành vỏ Trái đất và những đặc điểm địa chất; (2) đây là khu vực đặc trưng cho tính đa dạng sinh học và các loài bị đe doạ, là nơi sinh sống tự nhiên quan trọng và có ý nghĩa đối với việc bảo tồn đa dạng sinh học, là nơi chứa đựng nhiều loài động thực vật quý hiếm đang bị đe doạ. Hệ thống hang động Phong Nha - Kẽ Bàng Hệ thống hang động tại khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng được hình thành do những kiến tạo địa chất xảy ra trong lòng dãy núi đá vôi Kẻ Bàng cách đây hơn 400 triệu năm vào thời kỳ Đại Cổ Sinh. Trải qua các thời kỳ kiến tạo quan trọng và các pha chuyển động đứt gãy, phối tảng và uốn nếp đã liên tục tạo ra các dãy núi trùng điệp do chuyển động nâng cao và các bồn trầm tích do chuyển động sụt lún, đóng vai trò như nguyên nhân của mọi nguyên nhân để tạo ra tính đa dạng về địa chất, địa hình - địa mạo, mạng lưới thủy văn và tính đa dạng, kỳ thú về hang động du lịch đối với các thành hệ đá vôi Phong Nha-Kẻ Bàng phát triển từ Devon đến Carbon – Trecmi. Tại Phong Nha-Kẻ Bàng có một hệ thống gồm khoảng 300 hang động lớn nhỏ, Trong số đó có một số hang động đẹp như động Phong Nha, động Tiên Sơn, động Thiên Đường, động Sơn Đoòng… Động Phong Nha Động Phong Nha còn có tên gọi khác là động Trốc hay chùa Hang, Động Phong Nha được coi là "Thiên Nam đệ nhất động" của Việt Nam Ðộng Phong Nha có rất nhiều nhánh với tổng chiều dài lên đến khoảng 20km nhưng hiện nay người ta mới khám phá nhánh dài nhất là một phần của con sông ngầm có tên là Nậm Aki mà sông Son là phần lộ ra mặt đất. Nó chui ngầm dưới đất ở vùng núi Pu-Pha-Ðam cách đó hơn 20km về phía nam. Trước cửa động, cảnh núi non sông nước quyến rũ, thiên nhiên hùng vĩ với vô vàn hình ảnh kỳ thú hiện ra như khêu gợi trí tưởng tượng của con người. Vào mùa nước lớn, nước sông Son dâng cao che khuất cửa hang, thuyền du lịch không vào đây được. Tương truyền hơn một trăm năm về trước, ông vua trẻ Hàm Nghi đã ẩn mình ở đây cùng một số cận thần và ra lời kêu gọi Cần Vương. Động Phong Nha Cửa động rộng khoảng 20m, cao 10m, có nhũ đá lô nhô. Bơi thuyền qua cửa hang, động rộng như một cái bát úp trên mặt nước. Nước sông trong veo và phẳng lặng như mặt gương, càng vào sâu ánh sáng càng nhạt dần rồi mất hẳn. Xen lẫn với tiềng mái chèo như có tiếng chiêng vẳng lên. Người bản địa cho rằng đó là âm nhạc trong tiệc riệu của Thần Núi vọng ra... Tất cả hợp thành tiếng nhạc, lúc âm u như tiếng chiêng, lúc bập bùng như tiếng trống.      Phong Nha có trên 20 buồng với hành lang chính dài tới 1500m và nhiều hành lang phụ dài hàng trăm mét. Các hang ngoài cùng có trần cao hơn mặt nước rộng khoảng 10m. Các hang phía trong, từ hang thứ 4 trở vào trần hang cao đến 25-50m. Từ buồng thứ 14, du khách theo các hành lang khác đi sâu hơn nữa dưới mặt đất đến những buồng to hơn rộng hơn nhưng có phần nguy hiểm hơn, nơi mà quá trình phong hoá đá vôi vẫn còn tiếp tục. Thuyền ngược dòng độ 800m thì đến chỗ cạn gọi là hang nước cạn do nước biến đi nhường chỗ cho đá cát. Nhũ đá từ trên rủ xuống, măng đá từ dưới nhô lên tua tủa như cây rừng với những hình dáng kỳ lạ. Động Tiên Sơn Động Tiên Sơn hay động Khô là một động đẹp nổi tiếng ở khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng. Cửa vào động Tiên Sơn nằm cách cửa động Phong Nha khoảng 1.000 m, ở độ cao so với mực nước biển khoảng 200 m. Động Tiên Sơn có chiều dài là 980 m. Từ cửa động đi vào khoảng 400 m có một vực sâu chừng 10 m, và sau đó là động đá ngầm tiếp tục dài gần 500 m, khá nguy hiểm nên du khách chưa được phép đến khu vực này mà chỉ tham quan tới khoảng cách 400 m từ tính từ cửa động. Động này được phát hiện năm 1935, ban đầu, cư dân địa Động Tiên Sơn phương gọi động này là động Tiên, do vẻ đẹp kỳ bí thần tiên của nó. Sau này động Tiên Sơn được gọi là động Khô, để phân biệt với động Phong Nha là động nước. Động Tiên Sơn là nơi có cảnh thạch nhũ và măng đá kỳ vĩ huyền ảo như trong động Phong Nha nhưng lại có nét riêng là các âm thanh phát ra từ các phiến đá và cột đá khi được gõ vào vang vọng như tiếng cồng chiêng và tiếng trống. Theo các nhà khoa học thuộc Hội hang động Hoàng gia Anh, động Tiên Sơn được hình thành cách đây hàng chục triệu năm, khi một dòng nước chảy qua quả núi đã đục rỗng, bào mòn núi đá vôi Kẻ Bàng. Sau đó, do kiến tạo địa chất khối núi này hoặc đã được nâng lên, hoặc đã bị hạ xuống khiến các khối đá đổ sụp ngăn chặn dòng chảy làm nên động Tiên Sơn ở phía trên. Còn phần có sông ngầm chảy qua tạo ra hang động Phong Nha. Dù động Phong Nha và động Tiên Sơn nằm liền kề nhau nhưng giữa hang động này lại không thông nhau. Cư dân địa phương đã nhặt được một số hiện vật có thể là di chỉ di chỉ của người xưa ở trên bãi đất bằng phẳng trước cửa động. Động Thiên Đường Động Thiên Đường được đánh giá là động lớn và dài hơn động Phong Nha. Đây là một động khô, không có sông ngầm chảy qua như động Phong Nha. Theo kết quả khảo sát sơ bộ của các nhà khoa học, so với động Phong Nha thì động Thiên Đường có chiều dài và quy mô lớn hơn nhiều. Trong động Thiên Đường có nhiều khối thạch nhũ và măng đá kỳ ảo. Phần lớn nền động là đất dẻo, khá bằng phẳng nên thuận tiện cho việc tham quan và thám hiểm. Trong khi nhiệt độ mùa Hè ở bên ngoài là 36-37 °C thì nhiệt độ trong động Thiên Đường luôn ở 20-21 °C. Động Sơn Đoòng Sơn Động hay Sơn Đoòng là một trong những hang mới nhất được phát hiện tại khu vực Phong Nha-Kẻ Bang. Hang này do nhóm thám hiểm thuộc Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh phát hiện và tiến hành thám hiểm. Hang này được cho là hang động lớn nhất thế giới. Khoang lớn nhất ở Sơn Động có chiều dài hơn 5 km, cao 200 m và rộng 150 m. Với kích thước này, hang Sơn Động vượt hang Deer ở vườn quốc gia Gunung Mulu ở Sarawak Malaysia, lớn gấp 4-5 lần động Phong Nha, lớn hơn Động Thiên Đường. Do dòng nước của sông ngầm ở động này chảy xiết nên các nhà thám hiểm Anh không thể thám hiểm hết động này. Họ đã ước lượng chiều dài của hang bằng cách sử dụng đèn nháy. Đoàn thám hiểm đã báo cáo chính quyền tỉnh Quảng Bình về phát hiện này nhưng cho rằng chưa thể khai thác du lịch ngay. Họ sẽ quay lại khám phá hang này vào năm 2011. Trên thực tế, một người dân địa phương đã phát hiện ra hang này năm 1991 nhưng ông đã không nhớ lối vào hang cho đến tháng 1 năm 2008. Từ cuối tháng 3 đến 11 tháng 4 năm 2009, ông đã giúp đoàn thám hiểm Anh vượt rừng, núi khoảng 10 km để đến cửa hang. Địa hình bờ, bãi biển: Quảng Bình có đường bờ biển dài với nhiều bãi biển tuyệt đẹp với cát trắng, nước biển xanh, rất thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động du lịch, tiêu biểu như bãi biển Nhật lệ và có địa hình bãi đá ven biển rất đặc biệt như bãi Đá Nhãy... Bãi biển Nhật Lệ Biển Nhật Lệ Bãi biển Nhật Lệ tọa lạc tại cửa sông Nhật Lệ. Bãi biển Nhật Lệ được thiên nhiên ban tặng bãi cát trắng và nước biển trong xanh, còn mang vẻ hoang sơ. Từ lâu bãi biển Nhật Lệ nổi tiếng với một vùng trời mây, sông, nước, gió lộng khí trời, khí biển mặn mà. Biển Nhật Lệ kéo dài một màu cát trắng, những lúc trời thanh gió mát, bãi biển sạch như nệm mới, cát mịn, cứng óng ánh có thể đạp xe hay chơi bóng đá một cách thoải mái. Từ ngoài khơi xa từng lớp sóng bạc tiến vào bờ như những chùm hoa sóng tung bọt trắng xoá trông giống chuỗi ngọc trắng đang lăn vào bờ, ngân lên những âm thanh rì rào không dứt. "Trong nắng chiều vàng khi hoàng hôn buông xuống, biển Nhật Lệ như đang chìm trong giấc ngủ cuối ngày, khung cảnh trầm tư mà lãng mạn, ồn ào mà tĩnh lặng. Xa xa đoàn thuyền lại rộn vang tiếng nóicười trong ngày mới ra khơi, những khuôn mặt mang dấu ấn thời gian lại hiện lên một niềm vui lớn trong ngày mới". Khi đêm về, cửa biển Nhật Lệ sáng rực như một thành phố lung linh, đứng xa xa nhìn về cửa biển ta thấy như hàng ngàn ánh sao.. Bãi Đá Nhãy Theo Quốc lộ 1A, vượt đèo Ngang rồi sông Gianh với nhiều chứng tích lịch sử, du khách sẽ ngỡ ngàng thấy bãi Đá Nhảy là một quần thể núi (chữ Hán gọi là Hải Cốt) ở ngay bãi biển, dưới chân đèo Đá Nhảy (còn gọi là đèo Lý Hòa), cách Thành phố Đồng Hới về phía Bắc khoảng 20km. Bãi Đá Nhảy gồm nhiều núi đá, cột đá to nhỏ, cao thấp với trăm hình nghìn vẻ kỳ thú: hình con cóc, con trâu nằm, hình "trống - mái", hình hổ quỳ, voi phục, đùa giỡn với sóng nước... Phải chăng vì thế mà bãi đá này được dân gian gọi tên là Đá Nhảy. Tại đây có một cái giếng (tục gọi là giếng Cóc) vì một tảng đá lớn hình con cóc che trên miệng, giếng đá tự nhiên càng tăng sự hấp dẫn của địa danh này. Giếng ở sâu trong hang Cóc, muốn lấy nước phải chui vào "bụng cóc" để múc từng gàu một. Nước giếng rất trong và sạch, mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát, được ngư dân lấy để cúng lễ ở đền thờ Nam Hải Đại Vương Bãi Đá Nhãy cạnh giếng Cóc. Đá Nhảy là một điểm du lịch hấp dẫn, một bãi tắm sạch, đẹp và có nhiều thắng cảnh với nhiều hang động kỳ thú. Đến Đá Nhảy, ấn tượng đầu tiên của du khách là một bãi tắm bằng phẳng, nước trong và sạch. Khách du lịch cùng một lúc vừa được bơi thuyền leo núi, săn bắn, vừa được dạo chơi trong rừng dương, tắm mình trong một bãi biển trong sạch, yên bình. Du khách đến đây có thể nghỉ chân ở khách sạn Đá Nhảy rồi bước vài bước ra biển thăm bãi Đá Nhảy... Mùa hè về, bãi biển Đá Nhảy chật kín khách du lịch từ trong Nam ra, ngoài Bắc vào, còn có cả người dân địa phương sau ngày làm việc vất vả ra đây thưởng thức những làn gió biển mát rượi, ngắm đại dương mênh mông với những con sóng mềm mại liên tục vỗ vào bờ cát trắng. Đá Nhảy không chỉ là khu du lịch nghỉ mát lý tưởng vì có bãi tắm đẹp nằm dưới chân núi, mây nước hữu tình nên thơ mà biển nơi đây có nhiều rạn ngầm, đó chính là nơi cư trú của nhiều loại hải sản quý như tôm, cá, cua, mực, ốc... có thể chế biến những món đặc sản biển hấp dẫn du khách. Địa hình đồi, núi: Địa hình đồi núi chiếm một diện tích rất lớn của tỉnh Quảng Bình, với mức độ chia cắt lớn cho nên nó gây ra khó khăn cho nhiều ngành kinh tế như giao thông vận tải, thông tinh liên lạc...,nhưng với dạng địa hình như vậy thì nó lại là nguồn tài nguyên, là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch. Các đồi núi có thể khai thác phục vụ du lịch như núi Thần Đinh, đèo Ngang, đèo Lý Hòa... Núi Thần Đinh Núi Thần Ðinh, Quảng Bình là dãy núi ở miền tây Quảng Bình. Nơi đây có vẻ đẹp hùng vĩ của một bức tranh sơn thủy. Du khách đến thăm Quảng Bình có thể ghé thăm núi Thần Ðinh, nơi vốn nổi tiếng "lắm tiên nhiều Phật", "núi Thần Ðinh chót vót, khí thế nuốt phăng phăng bốn trăm châu" (Ô châu cận lục). Từ bao đời nay, Thần Ðinh trường tồn sừng sững như chiếc bình phong khổng lồ chở che bao bọc cho những con người lao động cần cù chịu khó ở miền tây Quảng Bình. Từ thành phố Ðồng Hới, theo hướng tây nam, khoảng 30 km, đến bến phà Long Ðại (huyện Quảng Ninh), có thể ngược dòng bằng thuyền để cảm nhận hết vẻ đẹp hùng vĩ của quần thể di tích núi Thần Ðinh. Giữa bập Núi Thần Đinh bềnh mênh mông sóng nước, những cảnh đẹp của núi Thần Ðinh dần hiện ra trước mắt như một bức tranh sơn thủy... Quần thể di tích núi Thần Ðinh, không chỉ có ý nghĩa nhiều mặt tâm linh, địa lý, lịch sử. Chiến lũy Trường Dục của Ðào Duy Từ đã dựa vào thế hiểm yếu và được bắt đầu từ chân núi Thần Ðinh. Người dân nơi đây kể lại, núi Thần Ðinh còn có tên là núi Chùa Non, vì ngày trước trên núi có một ngôi chùa mang tên chùa Non, gắn liền với tín ngưỡng dân gian của các dân tộc Kinh, Vân Kiều anh em quen sống với nghề đi rừng và trồng trọt. Ghé thuyền vào Bến Chùa, đi thêm khoảng vài trăm mét về phía tây là đến chân núi Thần Ðinh. Ngước mắt lên ta thấy núi chót vót... Theo những bậc đá lên cao hai bên sườn núi, ta bắt gặp ngôi chùa Hang thiên tạo bằng đá. Trước cửa hang có hai hang nhỏ mang tên hang Chuông và hang Trống. Khi gõ nhẹ vào vách đá, có những âm thanh trong trẻo như tiếng trống đánh, chuông ngân. Nhìn kỹ và tưởng tượng, ta sẽ thấy những nhũ đá thật giống với những chiếc chuông, chiếc trống... Ði vào chùa Hang, du khách có thể khám phá vẻ đẹp thiên nhiên. Trần động có nhiều nhũ đá rủ xuống hình chiếc lộng vàng, hình voi chầu, ngựa phục. Rời chùa Hang, du khách tiếp tục bước theo các bậc đá và lên núi Thần Ðinh. Dấu tích của chùa Kim Phong linh thiêng như vẫn còn đâu đây. Theo thư tịch cổ, vào đời Hậu Lê, chùa có tám gian. Năm Minh Mạng thứ 6 (1825), sư Trần Gia Hội (chùa Thiên Mụ - Huế) đã dựng tạm một ngôi chùa tranh tre để tu hành. Bốn năm sau, hưu quan Lê Văn Trúc đã cho xây dựng bậc đá lên chùa và lợp thêm ngói, sửa sang lại chùa. Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, Kim Phong Tự nay chỉ còn là dấu tích, nhưng hằng năm, vào những ngày lễ, Tết, cư dân và du khách vẫn thường xuyên ra thắp hương cầu cho cuộc sống an lành, no ấm... Bước lên đỉnh núi Thần Ðinh khi trời đã về chiều, du khách tha hồ phóng tầm mắt ra xa để ngắm nhìn bản làng của các dân tộc Kinh, Vân Kiều. Rời núi Thần Ðinh có thể ghé thăm hang Rào Trù - một nơi đóng quân trong những cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Sau một ngày tham quan, buổi tối du khách có dịp ghé thăm những gia đình người Vân Kiều, người Kinh mến khách. Bên bếp lửa hồng ta được thưởng thức đậu phộng rang Trường Xuân, bắp nướng Rào Ðá, nhấp chén rượu Võ Xá, thưởng thức thịt dê núi, thịt bò núi Thần Ðinh. Đèo Ngang Đèo Ngang là tên một con đèo nằm ở ranh giới của hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh. Đây là một thắng cảnh nổi tiếng của miền Trung Việt Nam. Đèo Ngang nằm trên quốc lộ 1A, trên dãy Hoành Sơn đoạn dãy Trường Sơn chạy ngang ra biển Đông. Đèo dài 2.560 m, đỉnh cao khoảng 250 m (750 ft), phần đất phía Quảng Bình thuộc xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, phần đất phía Hà Tĩnh thuộc xã Kỳ Nam, huyện Kỳ Anh. Đèo Ngang cách thị trấn Ba Đồn 24 km, sông Gianh 27 km, thị xã Đồng Hới 80 km về phía Nam, cách thị xã Hà Tĩnh 75 km về phía Bắc. Đây là ranh giới cũ giữa Đại Việt và Chiêm Thành sau khi người Việt giành được Đèo Ngang độc lập (939) và trước thời kỳ Nam Tiến của người Việt (1069). Thời Pháp thuộc đèo có tên trên bản đồ là Porte d'Annam. Trên đỉnh đèo Ngang hiện còn “Cổng Trời” di tích của cửa ải Hoành Sơn Quan bằng gạch đá được xây vào năm 1833 thời vua Minh Mạng để kiểm soát việc qua đèo. Đứng trên đỉnh Ngoạn Mục để ngắm biển thì tuyệt đẹp, núi non kỳ vĩ, biển trời mênh mông. Gần đèo Ngang về phía Quảng Bình có đền thờ bà Liễu Hạnh di tích kiến trúc - nghệ thuật - tôn giáo, các bãi tắm Hòn La, Quảng Đông, Cảnh Dương với rừng dương xanh mướt, cát vàng óng ánh và các đảo ở ngoài khơi như Hòn La, Hòn Vụng Chùa, Hòn Cỏ, Hòn Gió, đảo Yến tạo thành những thắng cảnh tuyệt đẹp. Gần đèo Ngang về phía Hà Tĩnh có bãi tắm đèo Con sạch đẹp, thoải và kín gió. Đền thờ bà Bích Châu hay còn gọi là đền thờ bà Hải gần núi Cao Vọng, núi Ô Tôn, núi Bàn Độ, vũng Áng, là quần thể danh thắng du lịch bắc đèo Ngang. Ngày nay, khách qua đèo Ngang thường đi bằng đường hầm xuyên núi. Công trình này có chiều dài 2.849m gồm cả phần hầm và đoạn tuyến hai đầu do Tổng Công ty Sông Đà đầu tư, thi công và khánh thành thông xe ngày 21/8/2004. 2.2.2 Tài nguyên động, thực vật Tỉnh Quảng Bình có hệ động, thực vật rất phong phú và đa dạng có nhiều loài quý hiếm được ghi vào sách đỏ Việt Nam cũng như sách đỏ của thế giới, đó là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch, đặc biệt là phát triển các loại hình du lịch tham quan, du lịch sinh thái..., tiêu biểu cho sự đa dạng sinh học của tỉnh Quảng Bình là hệ động, thực vật trong vườn quốc gia Phong Nha – Kẽ Bàng. Hệ động, thực vật trong vườn quốc gia Phong Nha – Kẽ Bàng: Hệ thực vật Vườn quốc gia này là một bộ phận của vùng sinh thái Trường Sơn. Cho đến nay, chủng loại thực vật lớn nhất ở đây là rừng thường xanh ẩm, rậm nhiệt đới trên đá vôi cao 800 m so với mực nước biển. 96,2% diện tích khu vườn quốc gia này được rừng bao phủ; 92,2% là rừng nguyên sinh; 74,7% (110.476 ha) khu vườn quốc gia này là rừng ẩm nhiệt đới thường xanh trên đá vôi có độ cao dưới 800 m; 8,5% (12.600 ha) là rừng ẩm nhiệt đới thường xanh trên đá vôi có độ cao trên 800 m; 8,3% (12.220 ha) là rừng ẩm nhiệt đới trên đất núi đất có cao độ dưới 800 m, 1,3% (1.925 ha) là bụi cây và cỏ và cây rải rác trên đá vôi; 2% (2.950 ha) là cỏ, bụi cây và cây rải rác trên núi đất; 180 ha là rừng tre nứa và mây song; thảm cây nông nghiệp 521 ha Theo số liệu thống kê mới nhất, Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là rừng nguyên sinh trên núi đá vôi điển hình với Táu Đá trong vườn quốc gia các loại thực vật đặc trưng như: nghiến Phong Nha – Kẽ Bàng (Burretiodendron hsienmu), chò đãi (Annamocarya spp.), chò nước (Plantanus kerii) và sao (Hopea spp.). Thực vật có mạch 152 họ, 511 kiểu gen, 876 loài thực vật có mạch, trong dó có 38 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam và 25 loài nằm trong Sách đỏ thế giới, 13 loài đặc hữu Việt Nam, trong đó có sao và cây họ Dầu (Dipterocarpaceae). Ở vườn quốc gia này có một khu vực rừng bách xanh được phân bổ trên đỉnh núi đá vôi có diện tích khoảng trên 5000 ha, có khoảng 2500 cây với mật độ 600 cây/ha. Các cây bách xanh ở vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tuổi 500-600 năm. Bởi hiện trên thế giới chỉ có 3 loài bách xanh đã được nhận diện. Đây là quần thể bách xanh núi đá (Calocedrus rupestris) lớn nhất Việt Nam. Loài bách xanh này nằm trong nhóm 2A theo quy định tại công văn số 3399/VPCP-NN (ngày 21 tháng 6 năm 2002) đính chính cho nghị định 48 của Chính phủ, thuộc nhóm quý hiếm, hạn chế khai thác. Trường Đại học Khoa học tự nhiên thuộc Đại học quốc gia Hà Nội, phối hợp với Trung tâm nghiên cứu khoa học và Cứu hộ của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng phát hiện thêm tại vườn quốc gia này 1.320 loài thực vật mới, trong đó có một số quần thể thực vật lớn được đánh giá là đặc biệt quý hiếm. Các nhà khoa học cũng phát hiện 3 loài lan hài quý hiếm, và rừng bách xanh núi đá duy nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Lan Hài ở đây có ở vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có 3 loài: lan hài xanh (Paphiopedilum malipoense), lan hài xoắn (Paphiopedilum dianthum), lan hài đốm (Paphiopedilum concolor). IUCN (Hiệp hội Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới) trong năm 1996 đã xếp lan hài là loài đang đứng trước nguy cơ diệt vong rất cao (tuyệt chủng trong tương lai gần). Hệ động vật Phong Nha-Kẻ Bàng là nơi sinh sống của 140 loài thú thuộc 31 họ và 10 bộ, nổi bật nhất là hổ và bò tót, loài bò rừng lớn nhất thế giới, 302 loài chim, trong đó có ít nhất 43 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam và 19 loài nằm trong Sách đỏ thế giới; 81 loài bò sát lưỡng cư (18 loài trong Sách đỏ Việt Nam và 6 loài Sách đỏ thế giới); 259 loài bướm; 72 loài cá, trong đó có 4 loài đặc hữu Việt Nam. Năm 1996, ở đây có loài cá mới phát hiện ở Việt Nam. Linh trưởng có 10 loài linh trưởng, chiếm 50% tổng số loài thuộc bộ linh trưởng ở Việt Nam, 7 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam, đặc biệt là voọc Hà Tĩnh, sao la, mang. Phong Nha-Kẻ Bàng được đánh Thằn lằn Phong Nha-Kẻ Bàng giá là có hệ tự nhiên đa dạng nhất trong tất cả các vườn quốc gia và khu dự trữ sinh quyển quốc gia trên thế giới. Phong Nha-Kẻ Bàng là nơi có cộng đồng linh trưởng phong phú bậc nhất Đông Nam Á. Năm 2002, nhà khoa học Đức Thomas Zegler đã phát hiện ra một loài thằn lằn tai mới có tên là Tripidophrus Nogei tại vùng núi Karst thuộc khu vực Chà Nòi. Loài thằn lằn này đã được đăng trên số báo 114 (2) phát hành tháng 7 năm 2007 của tạp chí Revue Suise De Zoologie. Các nhà khoa học đã đặt tên loài này là Thằn lằn Phong Nha-Kẻ Bàng (danh pháp khoa học: Cyrtodactylus phongnhakebangensis). Các nhà khoa học Đức đã xây dựng một khu giới thiệu Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng tại Vườn thú Köln để giới thiệu sự đa dạng sinh học của vườn quốc gia này, ở đây cũng phát hiện ra loại rắn mai gầm mới. Qua một thời gian khảo sát, các nhà khoa học Đức, Nga và Việt Nam đã phát hiện thêm 10 loài mới trong vườn quốc gia này, trong đó bao gồm 5 loài rắn, 5 loài tắc kè, thằn lằn, nhiều loài trong số mới phát hiện này là động vật đặc hữu ở đây. Các nhà khoa học Việt Nam và các nhà khoa học Nga thuộc Viện Động vật hoang dã Sankt-Peterburg, các nhà khoa học Đức của Vườn thú Köln đã phát hiện thêm tại vườn quốc gia này hơn 100 loài mới trong khu hệ cá. Mười loại cá chưa từng thấy ở Việt Nam đã được phát hiện ở vườn quốc gia này. Trong 3 loài cá ở Phong Nha-Kẻ Bàng được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam thì đã có 2 loài cá chình. Đó là cá Chình hoa (Anguilla marmorota) và cá Chình mun (Anguilla bicolo). Tổ chức Bảo tồn Động vật hoang dã Thế giới (FFI) đã tiến hành khảo sát và đã có báo cáo cho rằng Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có 4 loài được xếp vào diện nguy cấp trên phạm vi toàn cầu, đó là voọc Hà Tĩnh, voọc đen tuyền, voọc ngũ sắc và vượn đen má trắng. Ngày 27 tháng 2 năm 2005, một đàn bò tót với số lượng lớn xuất hiện tại Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng. 2.2.3 Tài nguyên nước: Quảng Bình là một tỉnh có mật độ sông, suối khá dày đặc, nhiều con sông lớn có cảnh vật đẹp, hoang sơ và nhiều con sông gắn vói các di tích lịch sử, cách mạng. Đó là điều kiện, là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá để phát triển du lịch, tiểu biểu có một số con sông như sông Nhật Lệ, sông Gianh, sông Kiến Giang, suối nước khoáng Bang... Sông Nhật Lệ Sông Nhật Lệ chảy qua địa phận tỉnh Quảng Bình, bắt nguồn từ núi U Bò, Co Roi (Trường Sơn) chảy ra Biển Đông tại cửa Nhật Lệ. Sông có chiều dài 85 km với hai nhánh chính: sông Long Đại (hay Đại Giang) chảy qua huyện Quảng Ninh và sông Kiến Giang chảy qua huyện Lệ Thủy, gặp nhau ở Trung Quán. Nhật Lệ là dòng sông tuyệt đẹp của vùng đất miền Trung. Tên sông có nghĩa là "sự rực rỡ của ánh sáng mặt trời" đã được ngợi ca trong câu thơ cổ của Hồ Thiên Du "nhật chi lệ bất vô chi chúc giả" nghĩa là "sự rực rỡ của ánh sáng mặt trời thì không nơi nào là nó không chiếu đến được". Khi mặt trời nhô lên khỏi cồn cát Bảo Ninh, đứng ở bờ nam sông Nhật Lệ nhìn về hướng đông sẽ thấy con sông lấp lánh sáng rực rỡ suốt dọc chiều dài hàng trăm mét. "Người Đồng Hới vẫn có cái thú ra bờ sông ngắm mặt trời mọc. Dẫu có đến ngàn lần thì cứ vẫn háo hức như mới thấy lần đầu. Sông Gianh Sông Gianh là một con sông chảy trên địa phận tỉnh Quảng Bình, bắt nguồn từ khu vực ven núi Cô Pi cao 2.017 m thuộc dãy Trường Sơn, chảy qua địa phận các huyện Minh Hóa, Tuyên Hoá, Quảng Trạch để đổ ra biển Đông ở Cửa Gianh. Dòng chảy ở thượng nguồn theo hình chữ V với hướng chủ đạo là tây nam-đông bắc. Từ điểm giáp ranh ba xã Thanh Thạch, Hương Hóa, Kim Hóa bắt đầu chảy theo hướng tây bắc-đông nam. Tới ranh giới hai xã Kim Hóa và Lệ Hóa nó tiếp nhận thêm nước từ một chi lưu nhỏ phía hữu ngạn, chảy về từ phía tây. Phía dưới thị trấn Ba Đồn khoảng 3 km, sông Gianh tiếp nhận thêm nước từ chi lưu phía hữu ngạn, chảy ra từ khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng. Sông Gianh dài khoảng 160 km, cắt qua quốc lộ 1 ở tây bắc Cửa Gianh 5 km. Diện tích lưu vực 4.680 km², độ cao trung bình 360 m, độ dốc trung bình 19,2%, lượng nước năm 7,95 km³ ứng với lưu lượng nước trung bình năm 252 m³/s, môđun dòng chảy năm 53,8 l/s.km². Mùa lũ từ tháng 9 đến tháng 11, chiếm khoảng 60-75% lượng dòng chảy hàng năm. Dòng cát bùn khoảng 1,93x105 tấn/năm, ứng với độ đục trung bình năm 192 g/m³ và hệ số xâm thực 168 tấn/km² năm. Tàu thuyền có thể qua lại đoạn sông ở hạ lưu, từ Cửa Gianh đến Ba Đồn 6 km, đến thị trấn Đồng Lê huyện Tuyên Hóa là 47 km. Đoạn thượng lưu từ Khe Nét trở về nguồn dài khoảng 70-80 km, lòng sông nhiều thác ghềnh. Khoảng 20 km đầu nguồn đá đổ ngổn ngang trong lòng sông. Tới Đồng Tâm, lòng sông rộng khoảng 80 - 90 m, lớn nhất 110-115 m. Đoạn từ các xã Phù Hóa, Quảng Tiên tới thị trấn Ba Đồn , lòng sông có 5 cồn, đảo nhỏ trên sông, trong đó đảo dài nhất khoảng 3,8 km rộng nhất khoảng 0,8 km. Ngay dưới Sông Gianh, đoạn qua Ba Đồn lòng sông rộng tới 1 km. Sông Tuyên Hóa, Quảng Bình Gianh và Đèo Ngang là biểu trưng địa lý của tỉnh Quảng Bình. Phần thượng lưu sông Gianh có tên là Rào Nậy với những đặc điểm địa vật lý và địa chất dị thường của Rào Nậy - Hoành Sơn, một nhánh khác là Rào Son có động Phong Nha (vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, di sản thiên nhiên thế giới). Cửa sông có cảng biển gọi là Cảng Gianh. Trong lịch sử, sông Gianh được gọi là Linh Giang. Nếu Đèo Ngang là ranh giới thời Đại Việt và Chiêm Thành sau khi người Việt giành được độc lập (939) và trước thời kỳ Nam Tiến của người Việt (1069) thì sông Gianh là ranh giới thời Trịnh-Nguyễn phân tranh giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài (1570-1786) với xung đột vũ trang gần nửa thế kỷ (1627-1672). Chiến trường chính là miền Bố Chính (Quảng Bình). Đèo Ngang gắn với huyền thoại “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Năm 1558, Nguyễn Hoàng, một danh tướng thời Lê Trung hưng, con thứ của Nguyễn Kim, sợ bị Trịnh Kiểm mưu hại, đã xin vào trấn thủ Thuận Hoá, mở đầu nhà Nguyễn sau này. Trong cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn, quân Trịnh án ngữ ở đèo Ngang, nhưng thực sự ranh giới Bắc Nam là sông Gianh. Bờ bắc sông có chợ Ba Đồn là nơi quân Trịnh mua đồ ăn uống và trao đổi hàng hóa. Bờ nam sông có một số thành lũy chắc chắn do Đào Duy Từtổ chức xây đắp, luỹ Thầy dài 18 km, luỹ Trường Dục dài 10 km. Di tích Lũy Thầy, Quảng Bình quan, thành quách của thời Trịnh Nguyễn nay vẫn còn. Sông Kiến Giang Sông Kiến Giang là một nhánh của sông Nhật Lệ. Sông Kiến Giang chảy qua huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Sông dài 58 km. Đây là dòng sông của điệu Hò khoan Lệ Thủy, hàng năm vào ngày 2 tháng 9 có hội đua thuyền nổi tiếng. Đây là con sông đã chứng kiến sự sinh ra và lớn lên của những nhân vật nổi tiếng như Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Ngô Đình Diệm. Hầu hết các con sông ở Việt Nam đều chảy theo hướng đông nam, riêng con sông này chảy theo hướng đông bắc nên còn được gọi là nghịch hà. Trước đây, hàng năm con sông này gây lũ lụt cho vùng đồng bằng xung quanh do sông dốc, ngắn. Sau khi có đập An Mã ngăn ở thượng nguồn, nạn lũ lụt đã được khống chế. Tuyến Đường sắt Bắc Nam cắt qua con sông này tại Cầu Mỹ Trạch. Trong thời kỳ Đông Dương thuộc Pháp, cầu Mỹ Trạch là nơi chứng kiến Thảm sát Mỹ Trạch đẫm máu, nơi dân làng Mỹ Đua thuyền trên sông Kiến Giang Trạch bị quân Pháp đưa ra cầu xử bắn, nơi đây ngày nay vẫn còn "Bia căm hờn" ghi lại tội ác này.Là hợp lưu của nhiều nguồn sông suối phát nguyên từ vùng núi phía Tây-Nam huyện Lệ Thủy đổ về phường Luật Sơn ( xã Trường Thủy, Lệ Thủy) chảy theo hướng Nam Bắc. Từ đây, sông chảy theo hướng Tây Nam-Đông Bắc, về đến ngã ba Thượng Phong, sông chảy theo hướng Đông Nam-Tây Bắc, đến đoạn ngã ba PHú Thọ (An Thủy Lệ Thủy), sông đón nhận thêm nước của sông Cảm Ly ( chảy từ hướng Tây đồ về), tiếp tục chảy theo hướng trên, băng qua cánh đồng huyện Lệ Thủy ( đoạn này sông rất hẹp). Sắp hết đoạn đồng trũng huyện Lệ Thủy để vào địa phận huyện Quảng Ninh, sông được mở rộng và chảy băng qua phá Hạc Hải ( có chiều dài gần 2km2) về đến xã Duy Ninh (Quảng Ninh), sông tiếp tục chảy ngược về hướng Tây đến ngã ba Trần Xá thìS hợp lưu với sông Long Đại đổ nước vào sông Nhật Lệ. Suối nước khoáng Bang Suối nước khoáng nóng Bang thuộc xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy, cách thành phố Đồng Hới 60km về phía tây nam.Dòng nước khoáng có khả năng chữa một số bệnh ngoài da, thần kinh hay khớp.Suối nước khoáng Bang là một khu suối khoáng nóng ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Con đường nhựa nhỏ vào khu vực suối quanh co và nhiều dốc. Cảnh trí hai bên đường khá nên thơ. Thỉnh thoảng ngang đường đến lại bắt gặp các con suối nhỏ chảy qua. Mùa hè nước suối vẫn trong vắt, róc rách chảy. Những dòng nước uốn lượn thấp thoáng giữa các triền cây rừng nguyên sơ. Hai bên đường có vài bản của đồng bào dân tộc Vân Kiều sinh sống càng làm cảnh núi rừng nơi đây thêm hấp dẫn. Vào suối, mùi lưu huỳnh đặc trưng của các suối nước nóng bốc lên phả liên tục vào người cùng những mảng hơi nước quyện trong không gian. Các đoạn suối nhỏ ở đây đều có nước nóng 60-80OC. Những ụ đất mồ côi giữa dòng suối và hai bên bờ như tô điểm thêm sự huyền ảo cho bức tranh thủy mặc luôn bốc lên đầy hơi nước. Những gốc cây cổ thụ hay cây lớn mọc hai bên bờ suối ngả thân soi bóng xuống dòng suối trong... Tại các lỗ nước phun lên từ lòng đất, nước luôn sôi sùng sục ở nhiệt độ 105OC. Nhiều người trước khi đến với suối Bang đã chuẩn bị vài chục trứng gà, trứng vịt để luộc ngay tại các hõm đất do nước nóng phun tạo ra giữa lòng suối. Chỉ 10-15 phút là trứng chín. Nhưng mọi người nên nhớ ở suối nước nóng Bang chỉ nên luộc trứng chứ không nên đem gà hay vịt để luộc. Vì đây là suối nước khoáng, độ lưu huỳnh rất đậm đặc kèm với nhiều loại khoáng chất khác đang còn ở dạng nguyên thủy nên có thể không tốt cho ta khi ăn. Dù là suối nước nóng như vậy, nhưng trên các mô đất giữa dòng Một lỗ phun nước nóng 105OC ở suối Bang nước và hai bên bờ cây cối vẫn sống và vươn mình xanh ngắt. Xuôi dòng suối khoảng 300m là bãi tắm nước nóng tự nhiên với một bể tắm được làm chắn ngay giữa lòng suối, có nhiều ống dẫn nước nóng bằng kẽm tự chảy đổ ào xuống suốt ngày đêm. Bể tắm này do bộ đội Trường Sơn của tướng Đồng Sỹ Nguyên xây nên từ thời chiến tranh chống Mỹ để bộ đội tắm trị bệnh và dưỡng sức. Tại đây dòng nước suối nóng đã hòa chung với một nhánh nước suối lạnh, nên nước chỉ còn 40-45OC rất phù hợp cho ta tắm. Nước nóng suối Bang rất tốt cho những ai mắc các bệnh về khớp, da liễu. Bên cạnh dòng suối Bang nóng là một dòng suối Bang lạnh, nước trong và mát rượi, nhìn rõ từng đàn cá nhỏ bơi lội tung tăng. Với ưu thế là suối khoáng có độ nóng nhất VN lại có bãi ngâm tắm nóng tự nhiên nằm giữa rừng hoang dã và những đồi thông xanh tươi, suối Bang là nơi lý tưởng để xây dựng một khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng và chữa bệnh. Hiện nay khung cảnh của vùng suối Bang vẫn còn giữ nguyên được nét hoang sơ, kỳ bí. Sau khi vui chơi ở suối Bang, du khách cũng có thể tìm về tham quan cụm di tích lịch sử văn hóa không xa suối Bang lắm như nhà lưu niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp, lăng mộ và nhà thờ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Sở chỉ huy bộ đội 559 Trường Sơn, bến phà Long Đại anh hùng... Khu vực mỏ nước khoáng Bang là địa điểm lý tưởng đang được đầu tư xây dựng thành khu du lịch sinh thái và điều dưỡng, chữa bệnh. Với quy hoạch hàng chục hécta đất cho xây dựng hệ thống nhà điều dưỡng, khu dịch vụ, bể bơi, bể tắm nước khoáng nóng... Khu du lịch suối khoáng Bang đang dần trở thành khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, chữa bệnh yêu thích của du khách trong nước và quốc tế. Chương 3: Định hướng và giải pháp khai thác tài nguyên du lịch tự nhiên tỉnh Quảng Bình 3.1 Cơ sở để đưa ra định hướng và giải pháp khai thác tài nguyên du lịch tỉnh Quảng Bình 3.1.1 Tài nguyên du lịch: Tỉnh Quảng Bình nằm gọn giữa Đèo Ngang và Đèo Hải Vân nơi giao thoa những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội miền Bắc và miền Nam, có đường biên giới tiếp giáp với Lào hơn 200 km... là những điều kiện rất thuận lợi để phát triển du lịch.       Bờ biển Quảng Bình: trải dài hơn 116 km, với 5 cửa sông lớn (S.Roòn, S.Ranh, S.Lý Hoà, S.Dinh và S.Nhật Lệ), đây là một dạng bờ biển bồi tụ và mài mòn xen kẽ tạo cho biển Quảng Bình nhiều bãi tắm đẹp như Nhật Lệ, Đá Nhảy, Bảo Ninh, Quang Phú. Ngoài khơi còn có 5 hòn đảo nhỏ là Hòn La, Hòn Gió, Hòn Cỏ, Hòn Nồm, Hòn Chùa trong đó đáng chú ý là Hòn Gió - nhân dân trong vùng quen gọi là Đảo Chim - đây là nơi sinh sống của rất nhiều loài chim, một giá trị sinh thái đặc biệt hấp dẫn du khách.       Do những chuyển động kiến tạo nâng lên, hạ xuống của vỏ trái đất đã tạo cho Quảng Bình nhiều thắng cảnh đẹp, trong đó đáng chú ý là hệ thống hang động huyền bí và quyến rũ. Đó là các hang động như: hang Vòm, hang Tối, hang Rục Mòn, hang Rục Cà Roòng, hang Chà Áng, hang Con Chuột, hang Minh Cầm, hang Bàn Cờ, hang Khai... tất cả tạo thành một hệ thống hang động kỳ vĩ.     Trong số các hang động đó, đáng chú ý nhất là hệ thống hang động thuộc phạm vi khu vực Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Đây là khu vực vừa được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên của thế giới với 2 tiêu chí hết sức thuyết phục là: (1) đây là khu vực điển hình cho lịch sử hình thành vỏ Trái đất và những đặc điểm địa chất; (2) đây là khu vực đặc trưng cho tính đa dạng sinh học và các loài bị đe doạ, là nơi sinh sống tự nhiên quan trọng và có ý nghĩa đối với việc bảo tồn đa dạng sinh học, là nơi chứa đựng nhiều loài động thực vật quý hiếm đang bị đe doạ. Hệ thống hang động Phong Nha - Kẻ Bàng nằm gọn trong một cánh rừng nguyên sinh rộng đến 41.132 ha, trong đó có nhiều loài động vật quý hiếm như bò tót, báo vằn, voọc đen, và các loài gỗ quý có tuổi thọ hàng nghìn năm, đã được các nhà thám hiểm hang động hàng đầu thế giới khẳng định đây là hang động nước đẹp nhất thế giới với 7 tiêu chuẩn quốc tế là: hang động nước dài nhất, cửa hang cao và rộng nhất, bãi đá cát rộng và đẹp nhất, hồ ngầm đẹp nhất, hang khô rộng và đẹp nhất, thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất, dòng sông ngầm dài nhất. Bên cạnh đó Phong Nha còn là nơi lưu giữ nhiều dấu tích của nền văn hoá Chăm Pa cổ như chữ viết trên vách đá, dấu tích của những bàn thờ của người Chăm Pa... Cách thị xã Đồng Hới 60 km về phía Tây Nam là nơi có suối nước khoáng Bang với nhiệt độ luôn ở mức 105oC là khu vực rất lý tưởng cho các hoạt động nghỉ dưỡng và chữa bệnh.       Quảng Bình còn là nơi lưu giữ nhiều di tích lịch sử, văn hoá, cách mạng: các dấu tích của thời kỳ đồ đá, đồ đồng, dấu tích của vương quốc Chăm Pa cổ cũng được tìm thấy ở đây khá nguyên vẹn. Hệ thống luỹ thành do Đào Duy Từ xây dựng - dấu tích của một thời kỳ nội chiến tương tàn giữa Nhà Nguyễn ở Đàng Trong và Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài kéo dài hơn 2 thế kỷ - cũng là một điểm có sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Quảng Bình là một trong những chiến trường ác liệt nhất đồng thời cũng là nơi lưu lại dấu ấn về những chiến công vang dội mà quân và dân Quảng Bình đã lập nên, tiêu biểu là làng chiến đấu Cự Nẫm, Cảnh Dương, đường mòn Hồ Chí Minh...      Ngoài ra, Quảng Bình là cái nôi của kho tàng văn hoá văn nghệ dân gian đa dạng, thể hiện ở đây có nhiều loại nhạc cụ như trống, thanh la, chiêng núm, kèn, đàn, khèn bè, đàn ống, lồ ô, sáo 6 lỗ..., các làng xã văn hoá nổi tiếng như Sơn, Hà, Cảnh, Thổ, Văn, Võ..., các lễ hội truyền thống như: lễ hội cầu ngư, hội trải Quảng Bình, đua thuyền Lệ Thuỷ... 3.1.2 Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch: Nhận thức rõ những lợi thế về tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn, trong những năm qua Tỉnh uỷ và UBND tỉnh đã quan tâm đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng, ổn định sắp xếp tổ chức... nhờ vậy du lịch Quảng Bình đã bắt đầu có sự chuyển mình và bước đầu đạt được những kết quả đáng khích lệ. Trong những năm qua, khách du lịch đến Quảng Bình tăng nhanh và đều. Năm 1995 Quảng Bình mới chỉ đón được 48.909 lượt khách thì sau 5 năm vào năm 2000 đón được 240.099 lượt khách, tăng 4,9 lần so với năm 1995. Năm 2001 đón được 281.600, năm 2002 đón được 319.437 lượt khách, tốc độ tăng trưởng bình quân cho giai đoạn 1995 - 2002 là 30, 7%. Sau khi VQG Phong Nha - Kẻ Bàng được công nhận là di sản thế giới, lượng du khách đến Quảng Bình ngày càng tăng đặc biệt là khách du lịch quốc tế, có ngày lượng khách đến tham quan lên tới vài nghìn người, sự tăng trưởng đột biến này đã vượt khá nhiều lần so với công suất phục vụ vốn có của du lịch Quảng Bình. Đây là một dấu hiệu đáng mừng của du lịch Quảng Bình nhưng cũng đặt ra không ít những vấn đề cấp bách cần giải quyết. Năm 2008, tỉnh Quảng Bình đã đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch, góp phần đưa du lịch Quảng Bình lên một vị thế mới. Bên cạnh đó, hệ thống khách sạn, nhà hàng được đầu tư nâng cấp khang trang hơn; tình hình an ninh trật tự ổn định. Khu Sun Spa Rerort vừa mở thêm 7 biệt thự và 30 bungalow đạt tiêu chuẩn năm sao. Ngoài ra còn có thêm nhiều dự án du lịch được khởi công xây dựng với tổng vốn đầu tư hàng trăm tỷ đồng tại các khu vực Phong Nha - Kẻ Bàng, suối nước nóng Bang, biển Nhật Lệ - Quang Phú, Đá Nhảy. Cùng với việc tổ chức thành công Lễ kỷ niệm 5 năm Phong Nha - Kẻ Bàng được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới, Quảng Bình đã tuyên truyền quảng bá hình ảnh tới du khách trong nước và trên toàn thế giới. Năm 2008, du lịch Quảng Bình phấn đấu đạt 670.000 lượt khách, tăng 12% so với năm 2007, trong đó khách quốc tế là 35.000 lượt, tăng 51% so với năm 2007. Khách tham quan Phong Nha - Kẻ Bàng là 280.000 lượt, tăng 14%, trong đó khách quốc tế 20.000 lượt, tăng 54,6%. Tổng doanh thu du lịch đạt 370 tỷ đồng, tăng 26%, trong đó doanh thu thuần tuý 135 tỷ đồng, tăng 25%, thời gian lưu trú của khách bình quân từ 1,2-1,25 ngày. Sự tăng trưởng mạnh mẽ khách kéo thu nhập du lịch cũng tăng theo. Năm 1996 du lịch Quảng Bình thu về 12,04 tỷ đồng, năm 1997 tăng 17,6%, năm 2000 tăng 53,49% và năm 2002 tăng 220% so với năm 1996. Tốc độ tăng trưởng về doanh thu giai đoạn 1996 - 2002 đạt 14,07%. Mức đóng góp từ hoạt động du lịch vào ngân sách tỉnh cũng tăng dần theo thời gian, nếu như năm 1996 ngành du lịch mới chỉ đóng góp được 1,26 tỷ đồng cho ngân sách Tỉnh thì đến năm 2000 mức đóng góp đã tăng gần 2 lần, năm 2002 mức đóng góp cho ngân sách tăng 3,2 lần so với năm 1996. 3.1.3 Đầu tư cho phát triển du lịch: Thời gian qua, Quảng Bình đã đầu tư một lượng lớn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khu du lịch Nhật Lệ - Quang Phú, khu du lịch Bang, bổ sung quy hoạch Phong Nha - Kẻ Bàng. Tổ chức nhiều cuộc họp giải quyết các vấn đề về phát triển du lịch, triển khai các dự án quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết, các dự án khả thi ở từng khu vực trọng điểm ưu tiên đầu tư của Tỉnh... Bên cạnh đó, tạo môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút các dự án đầu tư nước ngoài, các dự án liên doanh, liên kết với nước ngoài... Một số doanh nghiệp du lịch trên địa bàn cũng mạnh dạn vay vốn ưu đãi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị, đầu tư từng hạng mục cơ bản tại các khu du lịch nhằm từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch. Nhưng nhìn chung nguồn vốn đầu tư cho phát triển du lịch còn hạn hẹp và chưa đồng bộ. 3.1.4 Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch Cơ sở hạ tầng: Quảng Bình có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt và đường thuỷ nối với các tỉnh trong khu vực và Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh rất thuận lợi. Tuyến đường quốc lộ 1A đi qua Quảng Bình luôn được đầu tư nâng cấp đã và đang phục vụ đắc lực; tuyến đường Hồ Chí Minh khởi hành từ Quảng Bình ra miền Bắc đã đưa vào sử dụng từng phần và đang ở giai đoạn hoàn thiện trong tương lai sẽ là con đường huyết mạch có giá trị cao cho phát triển du lịch. Tuyến đường sắt xuyên Việt chạy qua Quảng Bình đang hoạt động có hiệu quả. Hệ thống đường thuỷ với những cảng lớn như Cha Lo, Gianh, Nhật Lệ, Hòn La... có giá trị đối với phát triển kinh tế hàng hoá, giao lưu kinh tế và đặc biệt là phát triển du lịch tàu biển. Cơ sở vật chất kỹ thuật: Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch ngày càng được xây dựng, cải tạo nâng cấp, từng bước đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng phục vụ ngày càng cao. Tính đến nay toàn tỉnh đã có 50 khách sạn với gần 1.000 phòng, trong số đó đã có 35 cơ sở được thẩm định phân loại xếp hạng và đã có 2 khách sạn là Phong Nha và Cosevco Star được công nhận đạt chuẩn 2 sao và khách sạn Hữu Nghị được công nhận chuẩn 1 sao. Bên cạnh đó các khách sạn nhà nghỉ tư nhân cũng ngày càng phát triển và cạnh tranh quyết liệt với các doanh nghiệp nhà nước. 3.2 Định hướng khai thác tài nguyên du lịch tự nhiên tỉnh Quảng Bình 3.2.1 Định hướng phát triển các loại hình du lịch: Trong những năm tới, cần phát triển các loại hình du lịch đang là thế mạnh của tỉnh ta như: Nâng cao và phát triển loại hình du lịch hang động, phát triển loại hình du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch thám hiểm. Trong đó, ưu tiên phát triển du lịch hang động, du lịch sinh thái. Cùng với phát triển các loại hình du lịch, chú trọng xây dựng những sản phẩm du lịch độc đáo mang sắc thái riêng của Quảng Bình đủ sức cạnh tranh trong nước, khu vực và quốc tế; đa dạng hoá các sản phẩm du lịch, tạo ra các sản phẩm đặc trưng của từng địa phương để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đảm bảo trật tự vệ sinh, an toàn tại các điểm du lịch, bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch, phát triển du lịch bền vững. Ưu tiên phát triển du lịch cao cấp mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đã đề ra. 3.2.2 Định hướng phát triển không gian: Tiếp tục triển khai đầu tư 4 cụm du lịch trọng điểm của tỉnh là Phong Nha - Kẻ Bàng, trung tâm Thành phố Đồng Hới, Vũng Chùa - Đảo Yến, suối nước khoáng nóng Bang; dựa trên các khu du lịch trọng điểm này để phát triển, mở rộng thêm các khu, điểm du lịch vùng phụ cận. Nghiên cứu phát triển không gian các cụm du lịch trọng điểm phải đảm bảo thuận lợi cho việc phân vùng tổ chức xây dựng khai thác cũng như quản lý bảo tồn. Bố trí các điểm dân cư nông thôn gắn liền với các khu vực được phép canh tác, có các điều kiện hạ tầng xã hội và kỹ thuật phù hợp, bảo đảm sự tham gia của người dân vào việc phát triển du lịch và bảo vệ môi trường tự nhiên. 3.2.3 Định hướng phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật: Áp dụng tiêu chuẩn quy phạm trên cơ sở tiêu chí đô thị loại IV được quy định tại Nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày 07 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ về việc phân loại đô thị và Quy chuẩn quốc gia về quy hoạch xây dựng. Hệ thống giao thông phải bảo đảm gắn kết với hệ thống hạ tầng quốc gia liên quan, có sự kết nối với các khu vực trọng điểm kinh tế của tỉnh Quảng Bình, đáp ứng yêu cầu về quản lý bảo tồn và an ninh quốc phòng. Nghiên cứu đề xuất các giải pháp thoát nước thải và vệ sinh môi trường phù hợp với đặc điểm của khu vực quy hoạch, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định hiện hành về bảo vệ môi trường. Đánh giá tác động môi trường: đánh giá tác động do xây dựng hệ thống hạ tầng kĩ thuật. Đề xuất các giải pháp giải quyết các vấn đề môi trường còn tồn tại trong đồ án quy hoạch. 3.2.3 Xác định các chương trình dự án ưu tiên đầu tư: Xây dựng danh mục các dự án ưu tiên đầu tư phù hợp với dự báo nguồn lực; đề xuất các cơ chế, chính sách quản lý thực hiện quy hoạch. 3.3 Giải pháp khai thác tài nguyên du lịch tự nhiên tỉnh Quảng Bình Khi tìm hiểu về tài nguyên du lịch tự nhiên của tỉnh Quảng Bình, để có thể khai thác nguồn tài nguyên này một cách có hiệu quả thì ta cần tập trung thực hiện các giải pháp sau đây: Phải tiến hành điều tra, rà soát và điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Quảng Bình trong đó việc xây dựng các khu du lịch, những định hướng phát triển ngành, tổ chức không gian, lãnh thổ du lịch của tỉnh phải được nghiên cứu dựa trên những tiêu chí bền vững đã được Tổ chức Du lịch thế giới quy định. Ưu tiên phát triển các loại hình du lịch sinh thái (VQG Phong Nha Kẻ Bàng, khu du lịch sinh thái suối Bang, tuyến du lịch sinh thái trên đường mòn Hồ Chí Minh...), du lịch nghỉ dưỡng và mạo hiểm biển (biển Nhật Lệ, Đá Nhảy, Quang Phú...), du lịch nghỉ dưỡng núi, du lịch văn hoá và nghiên cứu lịch sử (chợ phiên Quy Đạt, Đồng Lê, Ba Đồn; tham quan bản làng dân tộc Rục, làng văn hoá Cảnh Dường; các khu vực ghi dấu ấn lịch sử trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ). Đa dạng hoá các nguồn tài chính đầu tư cho phát triển du lịch. Theo định hướng phát triển du lịch Quảng Bình đến 2010 đã xác định nguồn vốn xây dựng các hạng mục công trình du lịch lớn dựa chủ yếu vào vốn do Trung ương cấp, nguồn vốn vay ODA, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI; các hạng mục công trình có quy mô vừa và nhỏ sẽ lấy từ nguồn ngân sách tỉnh và huy động các tầng lớp nhân dân và các thành phần kinh tế tham gia đầu tư.       Nguồn vốn ngân sách nhà nước do Trung ương, ngân sách Tỉnh cấp thường được dùng để đầu tư cho các hạng mục công trình mang tính chiến lược cơ bản, lâu dài như đầu tư xây dựng đường giao thông, các công trình công cộng, hệ thống hạ tầng xã hội và nhất là việc xây dựng các dự án quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết, dự án khả thi. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh thực tế của Quảng Bình việc phát triển du lịch phải dựa vào phương châm “lấy ngắn nuôi dài” do vậy nguồn vốn huy động trong dân và từ các thành phần kinh tế khác trong xã hội lại giữ một vị trí quan trọng (phát huy nội lực). Hay nói cách khác, cần phải tiến hành “xã hội hoá các nguồn vốn đầu tư cho phát triển du lịch” vì mục tiêu phát triển bền vững. Việc làm này sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của cộng đồng và xã hội đối với các công trình du lịch, nguồn vốn được đầu tư đúng vào những địa bàn trọng điểm có khả năng phát triển du lịch hạn chế được việc đầu tư tràn lan, thiếu hiệu quả và điều quan trọng hơn cả là việc làm này sẽ làm tăng tính cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh du lịch qua đó tăng cường cả về số lượng và chất lượng của các sản phẩm du lịch.      Tăng cường tuyền truyền quảng bá, nâng cao hình ảnh về du lịch Quảng Bình với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới thông qua việc tham gia tích cực vào các hội chợ, liên hoan quốc tế và khu vực về du lịch, xuất bản các ấn phẩm như tờ gấp, sách hướng dẫn, phim ảnh, băng đĩa hình, giới thiệu về du lịch Quảng Bình. Bên cạnh việc quảng bá du lịch với khu vực và thế giới cần xây dựng một chương trình đặc biệt nhằm nâng cao ý thức của cộng đồng địa phương trong việc gìn giữ, tôn tạo các nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn vì tài nguyên du lịch về cơ bản là những tài nguyên không tái tạo.   Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch phải được tiến hành thường xuyên. Trước tiên phải xây dựng một khung chương trình đào tạo nguồn nhân lực du lịch trong đó tập trung vào các nội dung đào tạo chuyên sâu về các nguyên tắc, kinh nghiệm quản lý du lịch hiện đại, kỹ năng nghiệp vụ về lễ tân, khách sạn, hướng dẫn du lịch. Tạo điều kiện và phối hợp với các địa phương lân cận mời chuyên gia nước ngoài đến tham gia giảng dạy nghiệp vụ, tạo điều kiện về kinh phí cho đội ngũ cán bộ trẻ có cơ hội ra nước ngoài học tập, nghiên cứu nâng cao kiến thức và tay nghề từ quỹ hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực ngành.   Khuyến khích phát triển các hiệp hội nghề nghiệp trên địa bàn như Hiệp hội kinh doanh khách sạn, Hiệp hội kinh doanh lữ hành, Hiệp hội Du lịch... nhằm ổn định kinh doanh, ổn định thị trường, tránh hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh. Tích cực huy động các nguồn lực cho phát triển du lịch. Khuyến khích huy động vốn đầu tư của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực du lịch. Thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư theo quy định của Chính phủ đối với các hoạt động kinh doanh du lịch và đối với vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hóa sản phẩm du lịch, tạo ra sản phẩm du lịch đặc thù. Tiến hành điều tra đánh giá về hiện trạng, tiềm năng tạo sản phẩm của du lịch Quảng Bình, từ đó có kế hoạch xây dựng sản phẩm mang tính đặc thù, có chất lượng cao và đáp ứng được yêu cầu thị trường. Phát huy thế mạnh du lịch văn hoá, lịch sử tham quan 2 di sản thế giới và nghỉ dưỡng biển; phát triển một số loại hình du lịch khác như: du lịch sinh thái; du lịch cộng đồng, du lịch tìm hiểu đời sống các dân tộc; du lịch hội nghị; du lịch mua sắm và vui chơi giải trí cao cấp; du lịch thể thao: lặn biển, lướt sóng, đua thuyền buồm, chơi golf...; du lịch caraval. Tăng cường công tác tuyên truyền, xúc tiến quảng bá du lịch hàng năm theo chuyên đề, gắn với xúc tiến quảng bá du lịch khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước; phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng, các cơ quan đối ngoại để xúc tiến quảng bá hình ảnh du lịch Quảng Bình ra nước ngoài. Đẩy mạnh cung cấp thông tin, hướng dẫn cho khách du lịch. Bảo vệ tài nguyên, môi trường phát triển du lịch bền vững. Bổ sung và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy về quản lý tài nguyên môi trường trên cơ sở triển khai Luật Bảo vệ môi trường, Luật Du lịch và các luật liên quan. Tăng cường phối hợp giữa các ngành, các cấp, đảm bảo môi trường cho phát triển du lịch. Phát triển các chương trình giáo dục toàn dân và giáo dục trong các trường học về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường. Lồng ghép đào tạo và giáo dục về tài nguyên và môi trường du lịch trong chương trình giảng dạy của hệ thống đào tạo các cấp về du lịch, nâng cao nhận thức bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch cho khách du lịch, cộng đồng dân cư thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. C. Phần kết luận và kiến nghị: I. Kết luận: Quảng Bình là một tỉnh có nguồn tài nguyên du lịch rất phong phú và đa dạng, đặc biệt là nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên, song hiện nay ngành du lịch của tỉnh vẫn đang còn gặp nhiều khó khăn về vốn, về lao động...Nhưng với những lợi thế về du lịch nói chung và lợi thế về tài nguyên du lịch nói riêng thì tỉnh Quảng Bình hoàn toàn có thể phát triển mạnh ngành du lịch, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống cho người dân trong tỉnh. Qua đề tài này tôi hi vọng sẽ phần nào đóng góp vào sự phát triển của ngành du lịch tỉnh Quảng Bình. II. Kiến nghị: Nhằm phát huy lợi thế về tài nguyên du lịch tự nhiên của tỉnh Quảng Bình, tôi xin đưa ra các giải pháp nhằm sử dụng và khai thác hợp lý sau: Cần phải có các chính sách thu hút nguồn đầu tư nước ngoài vào xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao...,để có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành du lịch tỉnh Quảng Bình. Cần phải tiến hành lập quy hoạch tổng thể nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên của tỉnh Quảng Bình để làm cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch chi tiết nhằm tạo điều kiện cho việc khai thác và quản lý. Xây dựng cơ sở hạ tầng ( đường xá, bến bãi...) phục vụ cho việc đi lại, ăn nghỉ, vui chơi của du khách nhằm thu hút và giữ chân du khách đến và nghỉ lại tại Quảng Bình nói chung. Cần định hướng tiếp thị và xúc tiến tuyên truyền quảng cáo về du lịch Quảng Bình nói chung và du lịch mang yếu tố tài nguyên du lịch tự nhiên nói riêng. Phát hành các ấn phẩm du lịch về di sản thiên nhiên; về tài nguyên du lịch tự nhiên đồng thời cần hợp tác chặt chẽ với các tạp chí du lịch trong và ngoài nước để hấp dẫn du khách và cung cấp thông tin du lịch cho họ. Phải đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch, đưa vào đồ lưu niệm ý nghĩa và hình ảnh về tài nguyên du lịch áo liên quan. Cần có các chính sách kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước trong các kế hoạch phát triển du lịch. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bùi Thị Hải Yến, Tài nguyên du lịch, NXB Giáo dục. 2. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010, Tổng cục Du lịch Việt Nam, Hà nội, 2002. 3. Luật du lịch, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. 4. Non nước Việt Nam, NXB Hà Nội, 2005 5. Tạp chí du lịch Việt Nam, 2005 6. www.vietnamtourism.com 7. www.dulich.org.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_nien_luan1_6981.doc
Tài liệu liên quan