Dựa trên cơ sở dữ liệu đã được xây dựng, lần
đầu tiên xác định phân bố không gian nguy cơ ô
nhiễm dầu đã được thực hiện. Bản đồ phân bố
nguy cơ ô nhiễm dầu cho biển Việt Nam và kế cận
là một trong những sản phẩm quan trọng của đề tài.
Để thực hiện được mục tiêu đặt ra, các tác giả đã
khai thác, tổng hợp và kế thừa có hiệu quả các
thông tin, số liệu, kết quả từ các chuyên đề khác
thuộc đề tài có nội dung liên quan. Đặc biệt quan
trọng bản đồ đã sử dụng kết quả tự động phân tích
nhận dạng vết dầu từ một khối lượng lớn ảnh siêu
cao tần bằng phần mềm OilDetect 1.0, góp phần
tạo ra một tư liệu đầu vào có ý nghĩa cho việc xây
dựng bản đồ phân bố ô nhiễm.
Bản đồ kết quả đóng góp một phần quan trọng
vào việc thực hiện nhiệm vụ chung của đề tài là
xác định nguy cơ ô nhiễm dầu của các vùng biển
Việt Nam, từ đó đặt ra các biện pháp phòng ngừa,
giảm thiểu tác hại của ô nhiễm dầu. Từ bản đồ kết
quả, những khu vực có nguy cơ ô nhiễm cao sẽ
được xem xét kỹ để dự báo nguyên nhân xảy ra ô
nhiễm, từ đó khoanh vùng các khu vực cần giám
sát chặt chẽ và đặc biệt có các yêu cầu quan trắc từ
vệ tinh một cách thường xuyên, đồng thời tiến
hành các nghiên cứu tiếp theo nhằm tìm ra nguyên
nhân và tiến đến khống chế có hiệu quả các nguồn
gây ô nhiễm.
Việc đánh giá nguy cơ ô nhiễm dầu trên vùng
biển Việt Nam và kế cận được thực hiện đối với
từng hợp phần và đánh giá tổng hợp. Trong nhiều
trường hợp việc đánh giá tác động của từng hợp
phần cho phép lý giải chi tiết và cụ thể hơn khả
năng gây ô nhiễm dầu từ các nguồn ô nhiễm dầu cụ
thể. Tuy nhiên bản đồ tổng hợp đươc thành lập dựa
trên mô hình tổng hợp đa chỉ tiêu với các trọng số
được lựa chọn dựa trên nhận định chuyên gia đưa
ra một bức tranh tổng thể về tình hình ô nhiễm dầu
trên toàn bộ vùng nghiên cứu. Hơn nữa, những kết432
quả tổng hợp được thể hiện trực quan lên bản đồ là
một sản phẩm có ý nghĩa lớn trong việc nghiên cứu
vấn đề ô nhiễm dầu trên biển nói chung. Cơ sở
khoa học cùng phương pháp đánh giá được trình
bày trong bài báo là những kết quả nghiên cứu đầu
tiên dựa trên các lập luận của tác giả. Những kết
quả này chưa được kiểm chứng, tuy nhiên dựa trên
quá trình theo dõi sự xuất hiện của các ô nhiễm
trong quá khứ và trong tương lai, bản đồ có thể
được cập nhật bổ sung nhằm đưa ra các đánh giá
sát thực hơn với tình hình thực tế.
Việc xác định vùng nguy cơ ô nhiễm dầu đối
với từng thành phần và tác động tổng hợp có ý
nghĩa quan trọng và thực tế vì biển Việt Nam và kế
cận rất rộng lớn nếu quan trắc đồng thời trên tất cả
các vùng biển là một điều không thể đặc biệt đối
với điều kiện kinh tế kỹ thuật của Việt Nam hiện
nay. Việc tập trung giám sát vào một khu vực nhỏ
sẽ tăng tính hiệu quả và tính khả thi của công tác
đầu tư và triển khai
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 812 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ô nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam và kế cận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
424
35(4), 424-432 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 12-2013
Ô NHIỄM DẦU TRÊN VÙNG BIỂN
VIỆT NAM VÀ KẾ CẬN
NGUYỄN ĐÌNH DƯƠNG, HỒ LỆ THU, LÊ VÂN ANH, NGUYỄN KIM ANH
E-mail: duong.nguyen2007@gmail.com
Viện Địa lý, Viện Hàn lâm và Khoa học Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 20 - 8 - 2013
1. Mở đầu
Ô nhiễm dầu trên biển là một vấn đề được thế
giới quan tâm từ lâu. Biển bị ô nhiễm bởi các sản
phẩm dầu mỏ dạng lỏng và khí, có nguồn gốc tự
nhiên hoặc nhân tạo từ các hoạt động trên biển
cũng như trên đất liền. Việc giám sát ô nhiễm dầu
trên biển đối với quốc gia ven bờ như Việt Nam có
ý nghĩa quan trọng trên nhiều góc độ môi trường
và kinh tế xã hội. Biển Việt Nam và kế cận là nơi
có các đường giao thông biển quan trọng đi qua,
tiềm năng dầu khí tại đây cũng rất lớn và hiện nay
việc thăm dò khai thác dầu khí đã được triển khai
không chỉ ở những vùng nước nông ven bờ mà còn
bắt đầu được đẩy mạnh cả ở những vùng nước sâu.
Khoảng 200 triệu tấn dầu được vận chuyển hàng
năm qua các vùng biển ngoài khơi Việt Nam từ
Trung Đông tới Nhật Bản và Triều Tiên [4]. Các
hoạt động thông thường kèm theo việc khai thác và
vận chuyển dầu gây ra tình trạng ô nhiễm nghiêm
trọng do dầu. Ví dụ các tầu chở dầu làm thoát ra
biển tới 0,7% tải trọng của chúng trong quá trình
vận chuyển thông thường. Sóng biển và gió đều có
chiều hướng đưa lượng dầu thoát ra tấp vào bờ
biển Việt Nam. Các vụ rò rỉ và tràn dầu đã được
Cục Môi trường thống kê bằng tài liệu kể từ năm
1989. Vụ nghiêm trọng nhất cho tới nay xảy ra hồi
tháng 10 năm 1994. Tàu chở dầu của Singapore đã
đâm vào cầu tầu ở cảng Cát Lái trên sông Sài Gòn
gần thành phố Hồ Chí Minh làm tràn ra hơn 1.700
tấn dầu gasoil. Đợt ô nhiễm dầu trên biển Việt
Nam nghiêm trọng nhất từ trước đến nay đã xảy ra
vào các tháng đầu năm 2007 gây nhiều bức xúc
trong đời sống xã hội Việt Nam. Ô nhiễm môi
trường do dầu tràn gây ra với diễn biến phức tạp
trên phạm vi rộng, đã ảnh hưởng đến 20 tỉnh, thành
phố ven biển. Các vụ tràn dầu xẩy ra vì nhiều
nguyên nhân, trong đó có gia tăng mật độ đi lại,
thiếu sự kiểm soát giao thông và các biện pháp an
toàn không phù hợp trên một số tầu chở dầu. Các
vụ tràn dầu cũng có thể xảy ra do việc vệ sinh tầu
chở dầu bằng nước biển. Thêm vào đó, còn có
lượng dầu tràn nhất định xẩy ra trong quá trình
khai thác và chế biến dầu tại các dàn khoan và cơ
sở ven biển.
Trước thực trạng ô nhiễm dầu không rõ nguyên
nhân ngày càng gia tăng, các tác giả đã triển khai
thực hiện đề tài cấp nhà nước KC09.22/06-10 từ
năm 2008 đến 2010 trong đó nội dung nghiên cứu
bao gồm xây dựng phần mềm tự động phát hiện
sớm ô nhiễm dầu bằng tư liệu vệ tinh đồng thời xác
định nguồn và phân bố nguy cơ ô nhiễm. Trong bài
báo này các tác giả trình bày tóm tắt một số kết quả
đã đạt được, trong đó trọng tâm của bài báo giới
thiệu về việc xây dựng bản đồ Phân bố nguy cơ ô
nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam và kế cận.
2. Tư liệu
Tư liệu phục vụ nghiên cứu ô nhiễm dầu trên
vùng biển Việt Nam và kế cận bao gồm: Tư liệu vệ
tinh radar nhiều thời điểm để tìm kiếm, phát hiện
vết dầu; Đường bờ biển được sử dụng để tách đất
liền và biển; Số liệu về điều kiện khí tượng hải văn
biển, các lớp thông tin phụ trợ như đường giao
thông biển, các điểm mỏ dầu, các khu công nghiệp
ven biển được sử dụng trong quá trình trợ giúp
phân tích vết dầu và phân bố nguy cơ ô nhiễm.
Để phục vụ quá trình nghiên cứu và thử
nghiệm, hai loại tư liệu ảnh vệ tinh siêu cao tần là
ENVISAT ASAR và ALOS PALSAR đã được sử
dụng, với tổng số 110 cảnh. Số lượng ảnh
425
ENVISAT ASAR đã đặt mua là 10 cảnh, ở mức xử
lý 1B. Số lượng ảnh ALOS PALSAR đã đặt mua là
80 cảnh, mức xử lý 4.2. Ngoài ra, 20 cảnh ảnh
ENVISAT ASAR thu thập từ Cục Bảo vệ môi
trường - Bộ Tài nguyên Môi trường cũng được sử
dụng. Bên cạnh đó đề tài còn sử dụng 4787 cảnh
browser tư liệu ALOS PALSAR do Trung tâm
Phân tích Dữ liệu và Quan trắc Trái Đất Nhật bản
(ERSDAC) cung cấp nhằm hỗ trợ phát hiện các vết
dầu trên biển.
Đường bờ biển sử dụng trong nghiên cứu được
tải về từ trang chủ của tổ chức Gebco:
bathymetry_data/. Đây là cơ sở dữ liệu đường bờ
phù hợp cho nghiên cứu ở tỷ lệ 1: 250 000.
Tư liệu về điều kiện khí tượng hải văn biển sử
dụng trong nghiên cứu được lấy từ các trang chủ
của Cơ quan quản lý khí quyển Hoa Kỳ NOAA, tổ
chức hàng không vũ trụ châu Âu và của Pháp. Số
liệu trên các trang này là hoàn toàn miễn phí. Ví dụ
trang
cung cấp các thông tin về điều kiện thời tiết,
trường sóng, gió, trang
ftp://ftp.ifremer.fr/ifremer/medspiration/data/l4uhrs
stfnd/eurd cung cấp trường nhiệt độ mặt biển. Số
liệu trên các trang web này được cập nhật
hàng ngày.
Ngoài các thông tin cơ bản nêu trên các thông
tin khác cũng được sử dụng để đánh giá nguy cơ ô
nhiễm dầu. Các thông tin đó bao gồm:
- Các sự cố ô nhiễm dầu trong quá khứ: thu
thập từ bản đồ mật độ ô nhiễm dầu trên biển Việt
Nam và kế cận xây dựng từ ảnh vệ tinh thời gian từ
9/1995-5/1998 do Trung tâm CRISP, Trường tổng
hợp quốc gia Singapore thực hiện.
- Mật độ các vết dầu đã tìm thấy trong quá khứ
từ ảnh vệ tinh radar: đây là lớp thông tin về các vết
dầu đã được đề tài phân tích, nhận dạng từ 110
cảnh ảnh vệ tinh bằng phần mềm Oildetect.
- Phân bố không gian các cơ sở khai thác dầu
khí ngoài biển của Việt Nam và trong khu vực: thu
thập từ Bản đồ phân bố nguồn dầu khí trên Biển Đông
Southeast Asia 1994 (Oil & Gas activity and
Concession Map USA) do Cục khảo sát địa chất Mỹ
xây dựng.
- Phân bố không gian các tàu chở dầu bị đắm
trong chiến tranh thế giới thứ 2: Trong báo cáo
“Potentially polluting wrecks in marine waters” và
“The Global Risk of Marine Pollution from WWII
Shipwrecks: Examples from the Seven Seas
- Tuyến giao thông biển quốc tế và nội địa:
Bản đồ do trung tâm Quan trắc Môi trường thu
thập tư liệu và biên tập ở tỷ lệ 1:1.000.000 năm
2008.
3. Phân tích tư liệu viễn thám siêu cao tần phát
hiện vết dầu trên biển
Khi xây dựng và phát triển các hệ thống phát
hiện và giám sát vết dầu thì quá trình nhận dạng,
phân tích vết dầu và loại bỏ các yếu tố nhiễu đóng
vai trò quyết định của toàn bộ hệ thống. Ở trong
nghiên cứu này, các tác giả đã thử nghiệm và lựa
chọn ra những phương pháp và thuật toán tối ưu để
thiết kế và xây dựng ra các modul tự động xử lý,
phân tích và nhận dạng vệt dầu, cuối cùng tích hợp
chúng trong một phần mềm mang tên OilDetect
1.0. Đây là chương trình có nhiều chức năng được
viết bằng ngôn ngữ lập trình FORTRAN 90 và
Visual C++ 6.0 trên hệ điều hành Windows.
Công đoạn xử lý đầu tiên là chuyển đổi khuôn
dạng số liệu. Tư liệu siêu cao tần mặc dù được lưu
trong khuôn dạng CEOS, tuy nhiên mỗi nhà cung
cấp đều có những thay đổi khiến cho việc đọc dữ
liệu luôn cần có những thích nghi phù hợp. Do các
tư liệu được lưu ở các khuôn dạng khác nhau và
được xử lý ở các mức khác nhau nên mỗi lần sử
dụng một loại tư liệu vệ tinh Radar nào đó, chúng
ta lại phải tìm hiểu kỹ loại tư liệu đó rồi mới có thể
truy cập được, khiến cho thời gian xử lý dài hơn.
Xuất phát từ vấn đề trên, đề tài đã xây dựng
chương trình tự động truy cập các tư liệu ảnh vệ
tinh Radar phổ biến hiện nay. Khuôn dạng
GeoTIFF được chọn làm khuôn dạng thống nhất đề
chuyển đổi tư liệu siêu cao tần vì đây là khuôn
dạng chuẩn của các chương trình xử lý ảnh, nhờ đó
các chương trình xử lý ảnh thông thường có cơ hội
xử lý các ảnh siêu cao tần mà không gặp chút khó
khăn gì.
Nhiễu ảnh siêu cao tần mặc dù không gây nhiều
khó khăn cho việc chiết tách thông tin như trong
trường hợp phân tích các đối tượng trên đất liền
nhưng cũng mang đến một số khó khăn nhất định
trong nhận dạng vết dầu trên biển. Thông thường
khi lọc nhiễu một mặt cần thiết phải loại bỏ các
nhiễu đốm nhưng đồng thời cũng cần bảo toàn các
cấu trúc của đối tượng. Trong trường hợp phân tích
426
vết dầu trên biển cấu trúc bên trong các vết dầu
thường không phải là phần thông tin cần quan tâm.
Chúng ta quan tâm chủ yếu tới hình dạng của bản
thân vết dầu. Do đó những phương pháp lọc nhiễu
được lựa chọn chủ yếu bao gồm các phương pháp
lọc đơn giản có thời gian thực hiện nhanh. Hai bộ
lọc chính là trung bình cộng và trung vị đã được
các tác giả triển khai xây dựng trong chương trình
tự động lọc nhiễu với hai hàm Filter và Majority.
Kích thước cửa sổ được tùy chọn phụ thuộc vào
loại ảnh và chất lượng thực tế và là tham số đầu
vào của phép lọc. Sau khi các vết dầu đã được
phân tích và tách ra, đôi khi cũng cần tiến hành lọc
thêm nữa để việc chuyển đổi dữ liệu từ dạng điểm
ảnh sang vec tơ được dễ dàng. Đối với việc phát
hiện vết dầu trên biển thì khi lọc nhiễu có thể làm
giảm nhiễu hạt tiêu nhưng có thể làm mất những
vết dầu nhỏ và hẹp.
Mặc dù tư liệu viễn thám siêu cao tần sau khi
xử lý tại trạm thu ở một mức xử lý tiêu chuẩn đã
được đưa về một phép chiếu bản đồ nào đó, tuy
nhiên trên thực tế, để tích hợp số liệu từ các nguồn
khác nhau với ảnh vết dầu cần thiết phải tiến hành
hiệu chỉnh hình học hoặc thay đổi phép chiếu (re-
project) về một hệ quy chiếu thống nhất. Hơn nữa,
tư liệu siêu cao tần mặc dù được xử lý về phép
chiếu UTM/WGS84 tuy nhiên vì quỹ đạo vệ tinh
không được thiết kế để bảo đảm mỗi cảnh ảnh nằm
gọn trong một múi nào đó nên các cảnh ảnh thường
nằm trên hai hoặc nhiều múi khác nhau. Giải pháp
thực tế đã được các tác giả thử nghiệm và đạt được
kết quả chính xác là phương pháp hiệu chỉnh hình
học cho toàn ảnh theo đa thức bậc 3 dựa trên ma
trận với các cặp điểm tọa độ trong UTM/WGS84
và tọa độ trắc địa. Việc sử dụng phương pháp hiệu
chỉnh hình học theo đa thức sẽ nhanh hơn nhiều so
với phương pháp đưa một ảnh từ UTM/ WGS84 về
tọa độ trắc địa kinh vĩ bằng cách tính chuyển cho
từng điểm ảnh.
Quá trình nhận dạng và phân tích vết dầu trên
biển được thực hiện phần lớn tự động dựa trên sự
phân bố cấp độ xám trong ảnh (những mảng sáng,
tối). Nhằm tạo ra môi trường đồng nhất trong xử
lý, bước đầu tiên cần làm là loại bỏ toàn bộ vùng
đất liền, hải đảo ra ngoài quá trình phân tích. Tư
liệu siêu cao tần khác với tư liệu quang học là
không thể nhận biết được các đối tượng chỉ dựa
trên các thông tin ảnh, do vậy việc loại bỏ một đối
tượng nào đó cần phải có sự can thiệp của người
xử lý. Quá trình loại bỏ vùng đất liền và hải đảo
được thực hiện dựa trên tư liệu sau hiệu chỉnh hình
học tích hợp với cơ sở dữ liệu đường bờ và hải
đảo. Trước khi chuyển đổi các dữ liệu vec tơ này
về dữ liệu điểm ảnh với độ phân giải phù hợp,
vùng đệm với bán kính 5km (những vết dầu nằm
trong phạm vi bán kính này không có ý nghĩa trong
quan trắc) đã được xây dựng cho đường bờ và
khoanh vi các đảo. Tư liệu siêu cao tần tùy thuộc
vào chế độ quan trắc có thể có độ phân giải từ
12.5m đến 150m. Trước khi chồng phủ đường bờ
đã được tính vùng đệm cần phải tái chia mẫu về độ
phân giải tương đương với tư liệu siêu cao tần. Giá
trị của các điểm ảnh chỉ đơn giản là 1 cho vùng đất
liền và hải đảo. Sau khi chồng phủ sẽ thu được kết
quả ảnh siêu cao tần đã được loại bỏ vùng đất liền
và hải đảo.
Như chúng ta biết, tư liệu siêu cao tần được tạo
nên từ quan trắc bên sườn (side looking). Trong
trường hợp quan trắc vết dầu trên biển, nếu xét trên
một ảnh thì độ đen cũng như độ tương phản của vết
đen với các vùng xung quanh không những phụ
thuộc vào đặc tính của bản thân vết đen mà còn
phụ thuộc vào yếu tố trong quá trình thu nhận của
ảnh SAR như sự khác biệt giá trị tán xạ ở gần và ở
xa bộ cảm vệ tinh (near - far range), sự khác biệt
của các vùng biển khác nhau. Do ảnh hưởng của
hiệu ứng này nên giá trị phân ngưỡng của vết dầu
không ổn định trong ảnh. Cùng một vết dầu nếu
phân bố gần vệ tinh hơn thì ngưỡng phân biệt sẽ
cao hơn nhiều so với khi vết dầu nằm xa vệ tinh.
Điều này gây khó khăn trong việc nhận dạng vết
dầu, đặc biệt khi áp dụng các phương pháp phân
tích số. Nhằm loại bỏ ảnh hưởng của hiệu ứng này
cần thiết phải chuẩn hóa ảnh sao cho các đối tượng
giống nhau sẽ có mức tán xạ tương đương nhau
không phụ thuộc vào vị trí phân bố trong ảnh. Vấn
đề chuẩn hóa loại trừ hiệu ứng xa gần chưa được
bàn luận nhiều về mặt học thuật. Hiện nay chưa có
công trình nào công bố về vấn đề này. Tuy nhiên,
những nghiên cứu vừa mang tính học thuật vừa là
giải pháp thực tế đã được triển khai trong đề tài. Ở
đây các tác giả đã sử dụng phương pháp tuyến tính
hóa mặt cắt tán xạ. Trên hình 1 là ví dụ về hiệu ứng
xa gần thể hiện trên ảnh và trên mặt cắt vuông góc
với quỹ đạo vệ tinh [3]. Mục tiêu ở đây là xây
dựng hàm tuyến tính xấp xỉ cho biến thiên giá trị
tán xạ và sau đó tính góc xoay và xoay sao cho
hàm tuyến tính sẽ có hệ số a bằng 0 hay nói cách
khác là có hướng song song với trục hoành.
427
Hình 1. Mặt cắt tán xạ vuông góc với tuyến bay trước chuẩn hóa (trái) và sau chuẩn hóa (phải)
Quy trình nhận dạng và phân tích vết dầu trên
biển bằng tư liệu viễn thám siêu cao tần được chia
thành 2 bước chính: (1) Phát hiện các vết đen trên
ảnh SAR, (2) Phân biệt vết dầu và vết nhiễu.
Khi quan sát bề mặt biển thì các yếu tố như gió
và bản thân sự dao động sóng của bề mặt biển sẽ
ảnh hưởng đến năng lượng phản xạ và tán xạ của
tín hiệu siêu cao tần thu nhận được tại bộ cảm.
Chính những yếu tố này tạo ra những yếu tố nhiễu
khi quan trắc vết dầu trên biển bằng tư liệu viễn
thám siêu cao tần. Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến
quan trắc vết dầu trên biển là chính là các hiện
tượng thiên nhiên. Các hiện tượng thiên nhiên trên
biển cũng có tác động làm giảm dao động của sóng
biển và tạo ra các vết đen trên ảnh SAR. Những vết
đen nhiễu trên ảnh SAR có thể là vùng lặng gió,
vùng tảo biển, các vùng khuất bởi đất liền, bởi
mưa, tảng băng và các đảo. Những yếu tố quan
trọng được sử dụng để phân biệt vết dầu và vết
nhiễu bao gồm tốc độ gió, yếu tố vật lý, hình học
và các yếu tố về địa lý.
Do sự suy giảm năng lượng tán xạ nên các vết
dầu thường tạo vệt đen trên ảnh SAR. Vì vậy,
chúng ta có thể sử dụng phương pháp phân ngưỡng
để phát hiện và khoanh vùng vết đen trên ảnh. Việc
xác định tự động ngưỡng dầu đã được nhiều
chuyên gia nghiên cứu và đề xuất, có rất nhiều các
phương pháp được áp dụng với mục đích phát hiện
tất cả các vệt đen và bảo toàn được hình dạng của
vệt đen. Trong chương trình OilDetect 1.0 có phát
triển một số thuật toán phân ngưỡng vết đen trên
ảnh siêu cao tần sau khi đã được chuẩn hóa như
thuật toán Mean, thuật toán Moments và thuật toán
Percentite. Quá trình tìm kiếm ngưỡng T dựa vào
phân tích biểu đồ Histogram của ảnh. Việc sử dụng
Histogram để tìm kiếm giá trị ngưỡng thường đơn
giản, dễ thực hiện và thời gian tìm kiếm nhanh. Kết
quả thử nghiệm với các phương pháp tự động phân
ngưỡng được mô tả trong hình 2.
Hình 2. Kết quả tự động tìm kiếm ngưỡng của vết đen bằng các thuật toán phân ngưỡng như Mean, Moments và Percentile
Trong đó:
(a) Ảnh gốc;
(b) Kết quả phân ngưỡng bằng thuật toán
Percentile với ngưỡng = 52;
(c) Kết quả phân ngưỡng bằng thuật toán
Moments với ngưỡng = 62;
(d) Kết quả phân ngưỡng bằng thuật toán Mean
với ngưỡng = 41.
Các vết dầu là các vùng tối tuy nhiên sự đồng
nhất của chúng thường không cao. Do vậy nếu sử
dụng các phương pháp phân ngưỡng thông thường
thì rất khó tách được hoàn toàn các vết dầu từ nền
ảnh. Do vậy, phương pháp nở vùng (region
(a) (b) (b) (d)
428
growing) đã được sử dụng. Phương pháp nở vùng
được bắt đầu từ một điểm bên trong vùng và với
thuật toán tìm kiếm tương tự như thuật toán tô tràn
(flood fill) vùng cần xác định sẽ được lớn dần lên
theo một quy tắc nào đó. Việc sử dụng các quy tắc
khác nhau sẽ đưa đến các phương pháp nở vùng
khác nhau. Hai phương pháp đã được sử dụng để
khoanh vẽ tự động vết dầu là phương pháp nở vùng
thống kê và nở vùng lưu vực. Trong tất cả các
phương pháp nở vùng đều cần đến công cụ gieo
mầm tức là xác định một điểm nằm bên trong vết
dầu và đôi khi một điểm nằm trên rìa vết dầu để
loại bỏ việc vết dầu lan rộng quá. Người phân tích
sẽ đánh dấu vào mỗi vết dầu một điểm bên trong
và một điểm nằm trên vùng phân cách giữa vết dầu
và vùng không có vết dầu. Tiếp theo sẽ cung cấp
thông tin về chọn lựa phương pháp nở vùng để tách
các vết dầu.
Sau khi các vết dầu đã được tách ra, chương
trình sẽ vec tơ hoá và lưu ở dạng shapefile của
hãng ESRI có thể nhập vào ArcGIS. Mục đích
chuyển vết dầu về dạng vectơ là nhằm một mặt tích
hợp với các thông tin khác trong cơ sở dữ liệu để
định vị mặt khác tính toán các tham số hình học
của vết dầu như diện tích, chu vi, độ phức tạp của
đường biên, hướng lan truyền. Việc vec tơ hóa một
vùng nhìn chung là một tác nghiệp đã được triển
khai nhiều và có nhiều thuật toán đã được công bố.
Tuy nhiên trong thực tế khi triển khai, mỗi tác giả
đều có những cải biên nhất định phù hợp điều kiện
thực tế. Trong trường hợp vết dầu trên biển chúng
ta chỉ quan tâm đến đường bao của vết dầu. Các
ảnh SAR thường có kích thước hàng cột tương đối
lớn. Trong quá trình vec tơ hóa đường biên nhiều
khi chúng ta gặp các điểm ảnh đơn lẻ, thông
thường tại các điểm đó thuật toán sẽ phải duyệt hai
lần và vì vậy vấn đề lập trình sẽ phức tạp hơn.
Nhằm tránh các rắc rối có thể xảy ra các ảnh chứa
vết dầu sẽ được nhân đôi lên mỗi chiều, như vậy
yêu cầu bộ nhớ cho việc lưu ảnh chứa vết dầu cũng
tăng lên. Nhằm làm cho giải pháp được trở thành
hiện thực ảnh vết dầu dạng 1 byte sẽ được chuyển
thành ảnh nhị phân với mỗi điểm ảnh được mã 1
bit. Sau đó các vết dầu sẽ được vec tơ hóa đường
biên trong ảnh nhị phân này.
Ngoài ra, các ảnh kết quả cũng được chuẩn hóa
và lưu ở khuôn dạng GeoTIFF và khuôn dạng nén
ECW. Việc lưu ảnh chuẩn hóa trong khuôn dạng
GeoTIFF và ECW nói chung đơn giản vì sử dụng
các thư viện được lập trình sẵn. Hướng dẫn sử
dụng các thư viện này cũng dễ dàng tải từ trên
mạng về. Các ảnh này rất có ý nghĩa trong việc tích
hợp với GIS (GeoTIFF) và chia sẻ dữ liệu trên
mạng (ECW).
Dựa trên kết quả thử nghiệm, phương pháp bán
tự động nhận dạng và phân tích vết dầu trên biển
trên tư liệu ảnh SAR đã đạt được những yêu cầu
đặt ra. Tuy nhiên, trong tương lai nhóm tác giả sẽ
nghiên cứu sâu hơn các thuật toán để tự động hóa
quá trình phát hiện vết dầu.
4. Xây dựng bản đồ phân bố nguy cơ ô nhiễm
dầu trên vùng biển Việt Nam và kế cận
Cho đến nay phương pháp luận về đánh giá
nguy cơ ô nhiễm dầu trên biển về cơ bản đều dựa
trên phương pháp chồng ghép (overlay) với trọng
số được xác định dựa theo đánh giá của chuyên
gia. Việc đánh giá phân bố nguy cơ ô nhiễm là
bước tiếp theo sau khi đã xác định được các nguồn
gây ô nhiễm dầu tiềm năng trên vùng biển Việt
Nam và kế cận. Phương pháp đánh giá dựa trên
phương pháp cộng có trọng số ảnh hưởng của các
hợp phần. Mục tiêu của việc đánh giá này là xây
dựng được bản đồ phân bố nguy cơ ô nhiễm cho
từng hợp phần và bản đồ phân bố nguy cơ ô nhiễm
với tác động tổng hợp của các hợp phần. Để thành
lập bản đồ phân bố nguy cơ ô nhiễm dầu, một vài
phương pháp đã được kết hợp gồm: phương pháp
cho điểm và đánh trọng số, phương pháp tính mật
độ, phương pháp chồng ghép toán học và phương
pháp xác định vùng phân bố.
Cơ sở dữ liệu về nguồn ô nhiễm dầu được xây
dựng trong môi trường ArcGIS 9.2. Các lớp thông
tin được số hóa dưới các dạng điểm, đường và
vùng. Việc thành lập bản đồ phân bố ô nhiễm dầu
được thực hiện sau khi đã chuyển đổi dữ liệu từ
dạng vectơ sang dạng raster. Nguy cơ ô nhiễm dầu
được đánh giá cho từng loại nguồn ô nhiễm riêng
biệt và cuối cùng được tổng hợp trong bản đồ phân
bố nguy cơ ô nhiễm cho toàn bộ vùng biển Việt
Nam và kế cận. Việc đánh giá nguy cơ được thực
hiện cho từng thành phần và cuối cùng là xây dựng
bản đồ nguy cơ ô nhiễm dầu tổng hợp [1]. Do các
đối tượng ô nhiễm thành phần được lưu giữ ở cả 3
dạng cơ bản: điểm, đường và vùng cho nên việc
đánh giá được thực hiện theo ba phương pháp khác
nhau. Tuy nhiên, mô hình phân tích chính là
chuyển các đối tượng từ không gian rời rạc sang
không gian liên tục dựa trên việc xác định mật độ
của các đối tượng tại bất kỳ một điểm nào trong
429
khu vực nghiên cứu. Việc xác định mật độ dựa trên
một bán kính tìm kiếm và tần suất xuất hiện của
các đối tượng trong khu vực đó chia cho diện tích
vùng tính mật độ. Trước khi tiến hành phân tích số
liệu được chuyển đổi từ dạng vectơ sang dạng
raster với độ phân giải pixel là 100 × 100m. Khu
vực tìm kiếm xác định mật độ là 50km tương
đương với 500 điểm ảnh. Do các vết dầu được số
hóa ở dạng vùng nên trước khi tính mật độ các
vùng này đã chuyển về dạng điểm và việc tính mật
độ được thực hiện giống như trường hợp các đối
tượng điểm.
Căn cứ vào các lớp thông tin đầu vào và điều
kiện thủy hải văn của vùng biển Việt Nam và kế
cận, trọng số cho các lớp thông tin được xác định
theo phương pháp chuyên gia như bảng 1.
Bảng 1. Điểm và trọng số của các lớp thông tin đầu vào
KH
Lớp thông tin
(Ai, i = 1-7)
Số điểm Trọng số (Ki) Lý giải
A1 Mật độ các vết dầu đã
tìm thấy từ tư liệu vệ
tinh radar
30 0,435 Sự phân bố không gian các vết dầu phân tích từ ảnh vệ tinh từ 2007 đến
2009 là một bằng chứng cho phép phân định những nơi nào thường
xuyên có ô nhiễm dầu. Chính vì lý do đó nên trọng số của hợp phần này
được cho cao nhất.
A2 Mật độ các tuyến giao
thông vận tải biển
quốc tế
10 0,145 Tuyến giao thông biển quốc tế có tiềm năng gây ô nhiễm dầu cao, đặc
biệt trong trường hợp các tàu chở dầu xúc xả trái phép trước khi hút dầu
thô.
A3 Mật độ các tuyến giao
thông vận tải biển nội
địa
5 0,072 Nguy cơ ô nhiễm dầu chủ yếu xuất phát từ va chạm, mắc cạn. Những sự
cố này nhìn chung có thể khắc phục được nếu công tác dẫn đường được
cải thiện.
A4 Mật độ các cơ sở khai
thác dầu khí nước
ngoài
10 0,145 Các cơ sở khai thác dầu luôn tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm dầu cao.
A5 Mật độ các cơ sở khai
thác dầu khí của Việt
Nam
10 0,145 Các cơ sở khai thác dầu Việt Nam cũng tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm, tuy
nhiên, trong trường hợp xuất khẩu dầu thô thì nguy cơ này càng cao hơn
vì khả năng các tàu chở dầu của nước ngoài không tuân thủ quy định của
Việt Nam về xử lý nước dằm.
A6 Mật độ các tàu chở
dầu bị đắm trong
chiến tranh thế giới
thứ 2
2 0,029 Đây chỉ là nguy cơ tiềm ẩn. Cho đến nay chưa có bằng chứng nào cho
thấy có những vết dầu thoát ra từ các tàu này.
A7 Mật độ các sự cố ô
nhiễm dầu trong quá
khứ trên biển Việt
Nam và kế cận
2 0,029 Đây là thống kê các sự cố dầu đã xảy ra trong quá khứ.
Tổng 69 1
Mục tiêu của xác định vùng nguy cơ ô nhiễm
dầu trên vùng biển Việt Nam và kế cận trước tiên
phục vụ công tác giám sát và cảnh báo sớm ô
nhiễm dầu trên biển. Việc xác định vùng hợp lý sẽ
giúp cho công tác ứng phó sự cố tràn dầu hợp lý
hơn về mặt tổ chức. Trước tiên để có được kết quả
đánh giá tổng hợp, cần phải xác định trọng số cho
từng hợp phần [6]. Việc đánh giá cho điểm hoàn
toàn dựa trên nhận thức và suy luận của tác giả như
trên bảng 2. Tuy nhiên, kết quả đã được xác định
sau khi thử nghiệm nhiều phương án.
Mô hình đánh giá nguy cơ ô nhiễm dầu là mô
hình tuyến tính có dạng F = ∑ Ai*Ki
Trong đó ∑Ki = 1, Ki là trọng số và Ai là giá trị
các hợp phần gây ô nhiễm dầu. Giá trị này được
tính như đã trình bày trong mục 2 là mật độ của
nguồn gây ô nhiễm trong vùng bán kính 50km. Bên
cạnh việc đánh giá tổng hợp việc phân tích tác
động của từng hợp phần cũng rất cần thiết bởi lẽ
mô hình tổng hợp được đề xuất ở đây được sử
dụng trên cơ sở các nghiên cứu trước đây tuy nhiên
chưa có kiểm định đánh giá thực tế nào chứng
minh được sự hợp lý của mô hình.
5. Kết quả và thảo luận
Bản đồ kết quả phân bố nguy cơ ô nhiễm dầu
cho vùng biển Việt Nam và kế cận được phân theo
5 cấp: Không có nguy cơ ô nhiễm; Nguy cơ ô
nhiễm rất ít; Nguy cơ ô nhiễm ít; Nguy cơ ô nhiễm
trung bình; Nguy cơ ô nhiễm cao. Bản đồ được xây
dựng ở tỷ lệ 1:1.000.000 và 1:2.500.000, phạm vi
nghiên cứu 0°- 25° Bắc và 100° - 120° Đông bao
phủ toàn bộ vùng biển Việt Nam và kế cận. Hệ tọa
độ và lưới chiếu được sử dụng thống nhất theo bản
đồ nền của Đề tài, cụ thể là sử dụng hệ tọa độ trong
lưới chiếu Mecartor, Ellipsoid WGS-84 (hình 3).
430
Hình 3. Bản đồ phân bố nguy cơ ô nhiễm
Khu vực có nguy cơ ô nhiễm cao có diện tích
15057 km2 và chiếm tỷ lệ 0,43 % diện tích biển
trong khu vực nghiên cứu (bảng 2). Việc đánh giá
nguy cơ ô nhiễm dầu đã được thực hiện cho 9 vùng
biển Việt Nam và kế cận. Vùng có nguy cơ ô
nhiễm cao nhất nằm trên thềm lục địa tại khu vực
thăm dò và khai thác dầu khí của Việt Nam.
Bảng 2. Diện tích các vùng có nguy cơ ô nhiễm dầu
TT Mức độ nguy cơ Diện tích (km2) Tỷ lệ (%)
1 Nguy cơ ô nhiễm rất ít 1269714 36,03
2 Nguy cơ ô nhiễm ít 989322 28,07
3 Nguy cơ ô nhiễm trung bình 44292 1,25
4 Nguy cơ ô nhiễm cao 15057 0,43
Vùng biển bắc vịnh Bắc Bộ là khu vực có các
hoạt động giao thông biển rất phát triển tại khu vực
cảng Hải Phòng. Xét về nguồn gây ô nhiễm ta thấy
ở đây chủ yếu là hoạt động giao thông vận tải biển.
Khai thác dầu khí có chủ yếu tại khu vực bắc vịnh
Bắc Bộ trong vùng lãnh hải của Trung Quốc.
Trong quá khứ các sự cố tràn dầu cũng đã xảy ra
tương đối nhiều. Các vết dầu không rõ nguồn gốc
phân bố dọc theo các tuyến giao thông biển. Nguy
cơ ô nhiễm dầu tổng hợp cho vùng bắc vịnh Bắc
Bộ được xếp vào hạng ít ô nhiễm.
Vùng biển nam vịnh Bắc Bộ không có nhiều
nguồn ô nhiễm dầu lớn. Khu vực này chủ yếu chỉ
có các tuyến hàng hải nội địa và quốc tế đi qua.
Khu vực nam vịnh Bắc Bộ được đánh giá là khu
vực ít có nguy cơ ô nhiễm dầu. Bên cạnh các
nguồn ô nhiễm dầu từ các tuyến vận tải biển, ở đây
có một số tàu chở dầu bị đắm trong chiến tranh thế
giới thứ II. Mặc dù chưa có minh chứng nào về ô
nhiễm dầu từ nguồn này nhưng theo đánh giá
chung thì đây cũng là một nguy cơ tiềm ẩn.
Khu vực biển từ Bình Định đến Ninh Thuận về
cơ bản không có các cơ sở khai thác chế biến dầu
khí, trừ một số sự cố tràn dầu vùng ven bờ cũng
không có gì quá đặc biệt. Do giao thông vận tải
biển trong khu vực nên đã xuất hiện nhiều vết dầu
không rõ nguồn gốc trên biển. Đặc biệt trên vùng
biển này có 6 tàu chở dầu bị đắm trong chiến tranh
thế giới thứ II. Đây là nguồn ô nhiễm dầu tiềm
năng cần được nghiên cứu thỏa đáng trong tương
lai. Nhìn chung ô nhiễm dầu trên toàn bộ vùng biển
này được phân loại là ít, tuy nhiên có một vùng
nhỏ phía tây nam được phân hạng mức trung bình.
Vùng biển từ Bình Thuận đến Cà Mau là khu
vực có nguy cơ ô nhiễm dầu cao nhất trong tất cả
các vùng biển Việt Nam và kế cận. Tại đây các
hoạt động khai thác dầu khí diễn ra vô cùng tích
cực. Mặc dù các tuyến hàng hải quốc tế đi qua
không chỉ riêng vùng biển này mà rất nhiều khu
431
vực trên vùng biển Việt Nam và kế cận nhưng mật
độ các vết dầu không rõ nguồn gốc xuất hiện tại
khu vực này là rất lớn. Đây là vùng có nhiều mỏ
dầu đang được thăm dò và khai thác trên thềm lục
địa Việt Nam. Mật độ giao thông nội địa cũng rất
lớn do các tàu ra vào cảng Sài Gòn. Trong quá khứ
cũng đã xuất hiện tương đối nhiều các vụ va chạm
tàu gây sự cố tràn dầu. Có thể nói đây là khu vực
tiêu biểu của ô nhiễm dầu trên biển.
Khu vực biển từ Cà Mau đến Kiên Giang nằm
trong vùng vịnh Thái Lan nơi cũng có nhiều hoạt
động khai thác dầu khí từ Việt Nam và Malaysia.
Về mặt phân chia khu vực thì xét như vậy nhưng
đứng về khía cạnh tác động của ô nhiễm dầu cần
nghiên cứu khu vực này một cách thống nhất và
cần xét đến cả các vùng biển lân cận trên vịnh Thái
Lan. Đây là vùng biển theo nghiên cứu của nước
ngoài cũng có mức độ ô nhiễm dầu tương đối cao.
Do tư liệu viễn thám tại khu vực này không nhiều
do đó chưa nghiên cứu được quy luật phân bố các
vết dầu trên biển. Tại khu vực này cũng đã xuất
hiện các sự cố ô nhiễm dầu trong quá khứ, một số
vết dầu trên biển cũng đã được phát hiện từ ảnh
siêu cao tần. Dựa trên kết quả đánh giá tổng hợp về
ô nhiễm dầu thì vùng biển từ Cà Mau đến Kiên
Giang có mức độ ô nhiễm dầu thấp hoặc không bị
ô nhiễm.
Vùng biển bắc Biển Đông không tiếp giáp trực
tiếp với các tỉnh ven biển Việt Nam. Tuy nhiên,
chịu nhiều ảnh hưởng bởi khai thác và thăm dò dầu
khí trên vùng biển ven bờ của Trung Quốc. Nơi
đây cũng có những đường giao thông huyết mạch
quốc tế đi qua. Sử dụng ảnh vệ tinh cũng phát hiện
được một số vết dầu trên biển. Nhìn chung, nguy
cơ ô nhiễm được đánh giá là ít dọc theo các tuyến
hàng hải quốc tế. Sự đóng góp của các nguy cơ ô
nhiễm khác là không đáng kể. Tuy vậy, tại các nơi
tiềm ẩn các nguy cơ ô nhiễm dầu như mỏ dầu Lưu
Hoa của Trung Quốc nếu xảy ra các sự cố tràn dầu
thì cũng có khả năng ảnh hưởng tới vùng bờ biển
Việt Nam.
Trong khu vực giữa Biển Đông cũng có một số
tàu chở dầu bị đánh đắm trong thời kỳ chiến tranh
thế giới thứ II. Tuy nhiên, chỉ có hai tàu ở khu vực
giữa biển và 3 tàu trên vùng biển của Philippines.
Nếu không kể đến vùng phía tây tiếp giáp với
vùng biển từ Bình Thuận đến Cà Mau nơi có nguy
cơ ô nhiễm dầu cao nhất thì nhìn chung vùng biển
nam Biển Đông cũng là khu vực không có nhiều
nguy cơ ô nhiễm dầu. Vùng biển nam Biển Đông
bao trùm phần lớn quần đảo Trường Sa. Các tuyến
giao thông biển chủ yếu đi qua vùng phía tây hoặc
dọc theo bờ biển Indonesia. Các cơ sở khai thác
dầu khí cũng tập trung chủ yếu tại hai khu vực nói
trên. Mặc dù vùng phía đông giáp Malaysia và
Indonesia có mức ô nhiễm thấp theo đánh gía của
các chuyên gia Singapore. Nhìn chung, đây là vùng
có nguy cơ ô nhiễm dầu thấp và nếu có xảy ra thì
cũng ít ảnh hưởng trực tiếp đến bờ biển Việt Nam.
6. Kết luận
Dựa trên cơ sở dữ liệu đã được xây dựng, lần
đầu tiên xác định phân bố không gian nguy cơ ô
nhiễm dầu đã được thực hiện. Bản đồ phân bố
nguy cơ ô nhiễm dầu cho biển Việt Nam và kế cận
là một trong những sản phẩm quan trọng của đề tài.
Để thực hiện được mục tiêu đặt ra, các tác giả đã
khai thác, tổng hợp và kế thừa có hiệu quả các
thông tin, số liệu, kết quả từ các chuyên đề khác
thuộc đề tài có nội dung liên quan. Đặc biệt quan
trọng bản đồ đã sử dụng kết quả tự động phân tích
nhận dạng vết dầu từ một khối lượng lớn ảnh siêu
cao tần bằng phần mềm OilDetect 1.0, góp phần
tạo ra một tư liệu đầu vào có ý nghĩa cho việc xây
dựng bản đồ phân bố ô nhiễm.
Bản đồ kết quả đóng góp một phần quan trọng
vào việc thực hiện nhiệm vụ chung của đề tài là
xác định nguy cơ ô nhiễm dầu của các vùng biển
Việt Nam, từ đó đặt ra các biện pháp phòng ngừa,
giảm thiểu tác hại của ô nhiễm dầu. Từ bản đồ kết
quả, những khu vực có nguy cơ ô nhiễm cao sẽ
được xem xét kỹ để dự báo nguyên nhân xảy ra ô
nhiễm, từ đó khoanh vùng các khu vực cần giám
sát chặt chẽ và đặc biệt có các yêu cầu quan trắc từ
vệ tinh một cách thường xuyên, đồng thời tiến
hành các nghiên cứu tiếp theo nhằm tìm ra nguyên
nhân và tiến đến khống chế có hiệu quả các nguồn
gây ô nhiễm.
Việc đánh giá nguy cơ ô nhiễm dầu trên vùng
biển Việt Nam và kế cận được thực hiện đối với
từng hợp phần và đánh giá tổng hợp. Trong nhiều
trường hợp việc đánh giá tác động của từng hợp
phần cho phép lý giải chi tiết và cụ thể hơn khả
năng gây ô nhiễm dầu từ các nguồn ô nhiễm dầu cụ
thể. Tuy nhiên bản đồ tổng hợp đươc thành lập dựa
trên mô hình tổng hợp đa chỉ tiêu với các trọng số
được lựa chọn dựa trên nhận định chuyên gia đưa
ra một bức tranh tổng thể về tình hình ô nhiễm dầu
trên toàn bộ vùng nghiên cứu. Hơn nữa, những kết
432
quả tổng hợp được thể hiện trực quan lên bản đồ là
một sản phẩm có ý nghĩa lớn trong việc nghiên cứu
vấn đề ô nhiễm dầu trên biển nói chung. Cơ sở
khoa học cùng phương pháp đánh giá được trình
bày trong bài báo là những kết quả nghiên cứu đầu
tiên dựa trên các lập luận của tác giả. Những kết
quả này chưa được kiểm chứng, tuy nhiên dựa trên
quá trình theo dõi sự xuất hiện của các ô nhiễm
trong quá khứ và trong tương lai, bản đồ có thể
được cập nhật bổ sung nhằm đưa ra các đánh giá
sát thực hơn với tình hình thực tế.
Việc xác định vùng nguy cơ ô nhiễm dầu đối
với từng thành phần và tác động tổng hợp có ý
nghĩa quan trọng và thực tế vì biển Việt Nam và kế
cận rất rộng lớn nếu quan trắc đồng thời trên tất cả
các vùng biển là một điều không thể đặc biệt đối
với điều kiện kinh tế kỹ thuật của Việt Nam hiện
nay. Việc tập trung giám sát vào một khu vực nhỏ
sẽ tăng tính hiệu quả và tính khả thi của công tác
đầu tư và triển khai.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Tran Van Dien, Do Thu Huong, 2006:
Integrated numerical and spatial models for oil
pollution risk zoning in Ha Long Bay.
Procceedings of CoastGIS 2006, GIS for the
Coastal Zone: Spatial Data, Modelling and
Management.
[2] Nguyễn Đình Dương, 2011: Ô nhiễm dầu
trên biển và quan trắc bằng viễn thám siêu cao tần.
Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 107-137.
[3] Joseph K. Berry, 1993: Cartographic
modeling: the analytical capabilities of GIS,
Environmental modeling with GIS, pp.58-74.
[4] Hứa Chiến Thắng: Vấn đề ô nhiễm và đa
dạng sinh học biển. Cục Môi trường.
&news_id=560&lang=1.
[5] GIWA Regional assessment 54 - South
China Sea.
[6] Natalia Martini and Admiral Roberto
Patruno, Oil pollution risk assessment and
preparedness in the east Mediterranean.
International Oil Spill conference. Miami, USA,
15-19.
SUMMARY
Oil pollution in Vietnam and neighboring Sea
Vietnam and neighboring Sea is one of regions which own amount of oil resources in the world. Currently,
exploration and exploitation is being promoted not only in shallow water but also increasingly expanded in deeper water.
In addition, East Sea is the place where is available high density of major transportation routes in the world. Due to
impact of these activities, oil pollution in the sea is inevitable. Marine oil pollution causes by drilling and exploring
operations, drilling problems especially illegal discharge of oil tankers. In order to timely detection and early warning of
oil spill and illegal discharge cases, microwave remote sensing has been used in many countries in the world. Being able
to obtain in all weather conditions as well as day and night time, microwave remote sensing data can provide information
about sea surface over a large area with suitable resolution which is considered as an effective tool for monitoring oil
pollution in the sea. In this paper, authors present research which conducted application of microwave remote sensing
data in detection of oil spill in Vietnam and East Sea. Based on process and analysis of ALOS PALSAR satellite data in
ScanSAR mode acquired in 2008 and 2009, the authors established map of oil pollution risk over the study area and
drew out some first conclusion about rule of spatial distribution of oil pollution in Vietnam and neighboring Sea.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4130_14670_2_pb_991_2107858.pdf