Một là, tình trạng ô nhiễm môi trường
không khí vẫn tiếp tục gia tăng, nhất là tại các
khu đô thị, thành phố lớn Hà Nội và Thành phố
Hồ Chí Minh, ảnh hưởng lớn sức khỏe của con
người, môi trường, số ngày có thông số bụi mịn
PM2.5 tại các trạm quan trắc vượt quá giới hạn
cho phép ngày càng tăng; chỉ số AQI ở mức
“nâu” xuất hiện ngày càng nhiều, nguyên nhân
chủ yếu là do ảnh hưởng bởi các nhà máy điện
than và các khu công công nghiệp ở xung
quanh Hà Nội. Do vậy, muốn giảm thiểu ô
nhiễm không khí, phải kiểm soát được các
nguồn phát thải bụi mịn PM2.5 và PM10 như
các nhà máy điện than, các phương tiện giao
thông đường bộ, và các dự án xây dựng gây ô
nhiễm, các thói quen trong hoạt động nông
nghiệp, Giải pháp trước mắt là:
1) Cần loại trừ dần các nhà máy điện than,
thay vào đó là triển khai các dự án điện khí, các
hệ thống điện gió, điện mặt trời.
2) Tăng tiêu chuẩn khí thải của xe cơ giới,
nâng cao chất lượng nguyên liệu, áp dụng các
tiêu chuẩn EURO 4,5; khuyến khích sử dụng xe
điện, sử dụng công nghệ sạch thân thiện với
môi trường.
3) Cải thiện hệ thống giao thông công cộng;
tăng cường nhận thức của cộng đồng, để người
dân sản xuất nông nghiệp không đốt rác thải
nông nghiệp, đặc biệt là rơm rạ vào mùa thu
hoạch; xây dựng văn hóa ứng xử thân thiện với
môi trường trong cộng đồng.
Hai là, mặc dù đã có nhiều quy định pháp
luật về bảo vệ môi trường, phòng ngừa ô nhiễm
không khí đã được ban hành, nhưng ô nhiễm
môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, nhất là tại các
khu đô thị, thành phố lớn, ảnh hưởng lớn tới đời
sống, sinh hoạt của người dân, trở thành vấn đề
bức xúc của xã hội, nguyên nhân có đưa ra là:
1) Các cơ quan quản lí chuyên về không khí
còn thiếu, yếu, thiếu cán bộ có chuyên môn cao
trong lĩnh vực này; 2) Công tác quan trắc, thông
báo và dự báo về tình hình ô nhiễm không khí
không kịp thời; hệ thống thông tin công bố về
các chỉ số liên quan đến không khí chưa đồng
bộ, việc đánh giá tổn thất và thiệt hại do ô
nhiễm không khí chưa kịp thời; 3). Chưa có sự
phối hợp giữa các cơ quan quản lí nhà nước để
thông báo kịp thời về tình hình ô nhiễm không
khí trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Việc xử lí sự cố hoàn toàn lúng túng, chưa xác
định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lí nhà
nước, tổ chức và cá nhân đối với bảo vệ môi
trường không khí; bồi thường thiệt hại chưa kịp
thời. Vụ cháy xảy ra tại Công ty Cổ phần Bóng
đèn Phích nước Rạng Đông thuộc quận Thanh
Xuân, Thành phố Hà Nội đã phát tán ra môi
trường 27,2 kg thủy ngân, gây ô nhiễm môi
trường là minh chứng cho việc này; 4) Thiếu cơ
chế cho việc tiếp cận thông tin, sự tham gia của
công chúng trong quá trình ra quyết định và tiếp
cận công lí trong lĩnh vực môi trường. Theo tác
giả, giải pháp lâu dài là cần tích hợp những quy
định hiện hành về ô nhiễm không khí vào một
văn bản thống nhất, nghiên cứu xây dựng Luật
Phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm không khí.
Trong đó quy định cụ thể: các biện pháp phòng
ngừa và kiểm soát ô nhiễm không khí; đặt ra bộ
Tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng không khí;
quy định giới hạn cho phép tối đa đối với khí
thải, bụi, khói, các hạt trôi nổi từ các hoạt động
sản xuất kinh doanh, các nhà máy và cơ sở kinh
doanh, trong quá trình xây dựng, trong quá trình
sản xuất nông nghiệp và các hoạt động khác;
quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lí
nhà nước, tổ chức và cá nhân đối với bảo vệ
môi trường không khí; quy định thẩm quyền xét
xử, quy trình, thủ tục đòi bồi thường, cách thức
đánh giá thiệt hại khi xảy ra ô nhiễm không khí.
Hiện thực hóa nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải trả tiền vào thực tiễn.
Ba là, Ô nhiễm không khí có thể khuếch tán
và lan truyền nhanh, không chỉ gói gọn trong
một địa phương hoặc khu vực, đây là vấn đề
lớn, không phải một quốc gia có thể giải quyết,
mà cần có sự hợp tác quốc tế. Việt Nam cần
nghiên cứu gia nhập Công ước về tiếp cận
thông tin, tham gia của cộng đồng trong quá
trình ra quyết định và tiếp cận công lí trong lĩnh
vực môi trường; Công ước quốc tế về ô nhiễm
không khí xuyên biên giới tầm xa 1979; tăng
cường hợp tác quốc tế để có thể áp dụng công
nghệ và mô hình tiên tiến để xử lí và kiểm soát
chất lượng môi trường không khí; phát triển
công nghệ thân thiện môi trường; phát triển
nguồn nhân lực có trình độ và hiểu biết về kiểm
soát ô nhiễm không khí.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ô nhiễm không khí, hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 73-83
73
Review Article
Air Pollution, Vietnames Legal Finalization for
Environmental Protection
Mai Hai Dang*
VNU, School of Law, Vietnam National University, Hanoi,
144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Received 29 February 2020
Revised 12 March 2020; Accepted 24 March 2020
Abstract: Air pollution has been a growing concern for decades, which has a serious toxicological
impact on human health and the environment. It has a number of different emission sources, but
motor vehicles and industrial processes contribute the major part of air pollution. According to the
World Health Organization, six major air pollutants include particle pollution, ground-level ozone,
carbon monoxide, sulfur oxides, nitrogen oxides, and lead. Air pollution is considered as the major
environmental risk factor in the incidence and progression of some diseases such as asthma, lung
cancer, ventricular hypertrophy, Alzheimer's and Parkinson's diseases, psychological
complications, autism, retinopathy, fetal growth, and low birth weight. This article aims to discuss
toxicology of major air pollutants, sources of emission, and their impact on human health. We
have also proposed practical measures to reduce air pollution in VietNam.
Keywords: Air pollution, cardiovascular diseases, environment, human health, Vietnam.
________
Corresponding author.
E-mail address: dangmh@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4281
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 73-83
74
Ô nhiễm không khí, hoàn thiện pháp luật Việt Nam
về bảo vệ môi trường
Mai Hải Đăng*
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 29 tháng 2 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 12 tháng 3 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 24 tháng 3 năm 2020
Tóm tắt: Ô nhiễm không khí là một trong những mối lo ngại trong những thập kỷ gần đây, nó ảnh
hưởng đến sức khỏe con người và môi trường; ô nhiễm không khí có thể xuất phát từ nhiều nguồn
phát thải khác nhau, nhưng xe cơ giới và các hoạt động công nghiệp đóng góp phần lớn gây ra ô
nhiễm không khí. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, sáu chất gây ô nhiễm không khí chính bao gồm
nitơ dioxit; lưu huỳnh dioxit; cacbon monoxit; chì; ozon tầng bình lưu;Vật chất dạng hạt. Ô nhiễm
không khí được coi như là những nguyên nhân chính gây ra nguy cơ mắc các bệnh về hô hấp và
tim mạch, biến chứng thần kinh, kích ứng mắt, bệnh ngoài da và các bệnh mãn tính lâu dài như
ung thư. Bài viết này, nghiên cứu những nguyên nhân và những ảnh hưởng của ô nhiễm không khí
đối với sức khỏe con người, môi trường và đưa ra những đề xuất nhằm giảm thiểu ô nhiễm không
khí ở Việt Nam.
Từ khóa: Ô nhiễm không khí, bệnh tim mạch, môi trường, sức khỏe con người, Việt Nam.
1. Đặt vấn đề*
Ô nhiễm không khí đã trở thành vấn đề toàn
cầu ảnh hưởng đến sức khỏe con người và môi
trường, đe dọa an toàn, an ninh cá nhân mỗi con
người, ảnh hưởng đến việc hưởng thụ các
quyền con người, trước hết là quyền được sống
trong môi trường trong lành của tất cả mọi
người. Nguồn gây ô nhiễm có thể xuất phát từ
việc con người hút thuốc lá, các phương tiện xe
cơ giới, từ hoạt động xây dựng, đốt rơm rạ
________
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: dangmh@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4281
trong sản xuất nông nghiệp, đến các cơ sở sản
xuất công nghiệp có đốt nhiên liệu hóa thạch
hoặc các nguồn tự nhiên như hoạt động của núi
lửa, bão bụi và các quá trình tự nhiên khác cũng
gây ra ô nhiễm không khí.
Ô nhiễm không khí là nguy cơ gây tử vong
hàng thứ tư trên thế giới, gây ra một phần mười
số tử vong vào năm 2013 [1]. Một nghiên cứu
của Ngân hàng Thế giới năm 2016 cho thấy
tổng thiệt hại phúc lợi xã hội toàn cầu do tác
động gây tử vong sớm của ô nhiễm không khí
lên tới khoảng 5,11 nghìn tỉ USD. Ở Việt Nam,
những thiệt hại này tổng cộng ước tính khoảng
23,8 tỉ USD trong năm 2013, hoặc khoảng 5,2%
GDP của đất nước [2]. Theo WHO, ước tính có
M.H. Dang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 73-83
75
trên 7 triệu người tử vong mỗi năm do ô nhiễm
không khí. Trong đó số lượng tử vong nhiều
nhất từ Ấn Độ và Trung Quốc. Tại Trung Quốc
ước tính có trên 700.000 người tử vong do ô
nhiễm không khí mỗi năm. Theo số liệu gần
nhất của WHO, Việt Nam cũng là quốc gia nằm
trong nhóm có tỉ lệ tử vong do ô nhiễm không
khí cao nhất thế giới. Ở Việt Nam, hơn 60.000
người chết vì bệnh tim, đột quỵ, ung thư phổi,
tắc nghẽn phổi mãn tính trong năm 2016 đều do
ô nhiễm không khí gây ra.
Theo chỉ số hiệu suất môi trường (EPI)
2018 do Trung tâm nghiên cứu thuộc đại học
Yale và đại học Columbia của Hoa Kì thực hiện
vừa công bố, chỉ số hiệu suất hoạt động môi
trường của Việt Nam năm 2018 xếp ở vị trí
132/180 quốc gia, với 46,96 điểm/100 điểm,
thấp hơn Trung Quốc ở vị trí số 120 với 50,74
điểm/100 điểm [3]. Việt Nam nằm trong số các
quốc gia có chất lượng không khí thấp và ảnh
hưởng nhiều nhất đến sức khoẻ, bảng xếp hạng
của Air Visual ngày 21/2/2020 thể hiện Hà Nội
đứng thứ 1 thế giới về mức độ ô nhiễm không khí.
Những khu vực ở nội thành Hà Nội có mức độ ô
nhiễm không khí cao nhất là: Quảng An, quận
Tây Hồ, với AQI là 315; chợ Đồng Xuân, quận
Hoàn Kiếm, với AQI là 258; Mai Dịch, quận Cầu
Giấy, với AQI là 252; Trung Yên, quận Cầu Giấy,
với AQI là 256, Đây là ngưỡng cảnh báo chất
lượng không khí cao nhất, nguy hại cho sức khỏe
tất cả mọi người [4].
2. Nguyên nhân và những ảnh hưởng của ô
nhiễm không khí
2.1. Ô nhiễm không khí
Ô nhiễm không khí là việc con người trực
tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc năng
lượng vào không khí, khi việc đó gây ra những
tác hại như gây nguy hiểm cho sức khỏe con
người, gây tổn hại đến nguồn lợi sinh vật, hệ
sinh thái và gây ra thiệt hại về vật chất, làm ảnh
hưởng đến việc sử dụng môi trường tự nhiên
[5]. Ô nhiễm không khí cũng có thể hiểu là
trong không khí có chứa các chất gây ô nhiễm
gây nguy hiểm cho sức khỏe con người, hoặc
tạo ra những tác động xấu đối với môi trường
[6]. Xét về phương diện pháp lí, ô nhiễm không
khí được hiểu là sự thay đổi tính chất không
khí, vi phạm tiêu chuẩn không khí mà pháp luật
đã quy định. Ô nhiễm không khí là tình trạng
trong không khí có xuất hiện chất lạ hoặc có sự
biến đổi quan trọng trong thành phần không khí
làm thay đổi tính chất lí, hoá vốn có của nó, vi
phạm tiêu chuẩn môi trường do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành, gây tác động có
hại cho con người và thiên nhiên [7].
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, có 6 chất
chính gây ô nhiễm không khí ảnh hưởng đến
sức khỏe con người bao gồm [8]: nitơ dioxyt
(NOx); lưu huỳnh dioxyt (SOx); cacbon
monoxit (CO); chì (Pb); zon tầng bình lưu
(O3);vật chất dạng hạt (PM).
Bụi hay hợp chất trong bụi được gọi là PM
(Particulate matter) là những hạt dạng lỏng
hoặc rắn rất nhỏ trôi nổi trong không khí, trong
đó có bụi mịn PM10 và PM2.5, bao gồm
sulfate, nitrat, amoniac, natri clorua, carbon
đen, bụi khoáng và nước. Gần đây, tại Việt
Nam xuất hiện bụi siêu mịn PM1.0 (dưới 1µm)
và bụi nano PM0.1 (dưới 0.1 µm). Bụi mịn
PM10 là các hạt bụi lơ lửng có đường kính nhỏ
hơn hoặc bằng 10 µm (micromet) là những hạt
có thể bị con người hít vào khi thở, chúng sẽ
tích tụ trên phổi, gây ra nguy hại cho sức khoẻ
con người. Bụi mịn PM2,5 là các hạt bụi lơ
lửng có đường kính nhỏ hơn hoặc bằng 2,5 µm
(micromet) hoặc khoảng 1/3 chiều rộng của một
sợi tóc người. Bụi mịn PM2.5 và PM10 thường
đi vào qua đường hô hấp khi con người hít thở.
PM2.5 đặc biệt nguy hiểm hơn vì chúng bé đến
mức có thể luồn lách vào các nang phổi, tĩnh
mạch phổi và xâm nhập vào hệ tuần hoàn máu.
PM2.5 là nguyên nhân gây ra nhiễm độc máu.
2.2. Nguyên nhân và những ảnh hưởng của ô
nhiễm không khí
+ Nguyên nhân ô nhiễm không khí
Ô nhiễm không khí có thể xảy ra do các
hiện tượng tự nhiên (từ bụi, cháy rừng, núi lửa,
chất phóng xạ trong tự nhiên, sóng biển,)
hoặc từ hoạt động của con người: do hút thuốc
lá, quá trình đốt rơm rạ thải ra các khói, trong
M.H. Dang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 73-83
76
quá trình sản xuất công nghiệp, do đốt các
nhiên liệu hóa thạch: than, dầu, khí đốt tạo ra
CO2 , CO, SO2, NOx, các chất hữu cơ chưa
cháy hết, muội than, bụi, quá trình thất thoát, rò
rỉ trên dây chuyền công nghệ, do quá trình vận
chuyển các hóa chất bay hơi, bụi,... Ô nhiễm
môi trường không khí có thể xảy ra trên quy mô
một vùng, một quốc gia, một khu vực hoặc ô
nhiễm môi trường không khí toàn cầu.
Theo nghiên cứu của Chương trình Môi
trường Liên Hợp quốc có năm nguồn chính gây
ô nhiễm không khí [9]:
Hộ gia đình
Một trong những nguồn ô nhiễm không khí
chính là bắt nguồn từ các hộ gia đình khi đốt
các nhiên liệu hóa thạch, gỗ, phân động vật,
một lượng lớn phụ phẩm nông nghiệp, chủ yếu
là rơm, rạ và trấu để nấu ăn, sưởi ấm và thắp
sáng nhà cửa. Việc đốt các các nhiên liệu hóa
thạch, gỗ, phân động vật rơm, rạ, trấu tạo ra
nhiều chất gây ô nhiễm gây hại cho sức khỏe,
bao gồm các hạt vật chất (PM), metan, carbon
monoxide, hydrocarbon và các hợp chất hữu cơ
dễ bay hơi (VOC). Đốt cháy dầu hỏa trong khi
thắp sáng bằng đèn dầu cũng tạo ra lượng khí
thải đáng kể của các hạt mịn và các chất ô
nhiễm khác.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) hiện có
khoảng 3 tỉ người vẫn nấu ăn bằng nhiên liệu
rắn như gỗ, rơm rạ, than tổ ong, dầu hỏa và
phân động vật. Hầu hết những người này đều
nghèo và sống ở các nước thu nhập thấp,trung
bình [10].
Hoạt động công nghiệp
Đây là nguồn gây ô nhiễm lớn nhất do con
người gây ra. Quá trình gây ô nhiễm là quá
trình đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch như
than, dầu, khí đốt tạo ra các chất khí độc hại
(CO2, CO, SO2, NOx, các chất hữu cơ chưa
cháy hết: muội than, bụi). Các nhà máy nhiệt
điện chạy than là nguồn gây ô nhiễm chủ yếu,
các máy phát điện diesel cũng đóng góp cho
quá trình ô nhiễm này. Việc sử dụng dung môi,
trong các ngành công nghiệp hóa chất và khai
thác, cũng là những nguyên nhân gây ô nhiễm
không khí. Ngoài ra khí thải từ xe cơ giới và
các phương tiện vận chuyển hàng hoá, phục vụ
cho công nghiệp cũng là nguồn gây ô nhiễm
không khí đáng kể.
Giao thông vận tải
Ngành giao thông vận tải toàn cầu chiếm
gần một phần tư lượng khí thải carbon dioxide
liên quan đến năng lượng và tỉ lệ này đang ngày
một tăng lên. Ô nhiễm không khí từ giao thông
gây ra gần 400.000 ca tử vong sớm. Gần một
nửa số trường hợp tử vong do ô nhiễm không
khí do giao thông là do khí thải diesel, 12%
những người sống gần các tuyến đường huyết
mạnh giao thông chính có khả năng mắc chứng
bệnh mất trí nhớ. Quá trình đốt nhiên liệu động
cơ tạo ra các chất khí độc hại làm ảnh hưởng
đến không khí như CO2, CO, SO2, NOx, Pb,
CH4, Đối với những đất nước chưa phát triển
hoặc đang phát triển thì các phương tiện giao
thông có thể gây ô nhiễm không khí cao hơn
khi sử dụng các phương tiện giao thông lỗi thời,
cũ kĩ không đạt tiêu chuẩn khí thải, cũng như cơ
sở hạ tầng cho các dịch vụ di chuyển công còn
chưa phát triển.
Việc giảm khí thải từ các phương tiện giao
thông là một trong những cách làm cải thiện
chất lượng không khí, đặc biệt là ở khu vực
thành thị. Các chính sách và tiêu chuẩn về sử
dụng nhiên liệu sạch và tiêu chuẩn khí thải xe
tiên tiến có thể giảm 90% lượng khí thải.
Nông nghiệp
Các nguồn gây ô nhiễm không khí chính từ
nông nghiệp đó là từ chăn nuôi gia súc: trâu, bò,
ngựa, lợn,thải ra khí metan và amoniac, việc
đốt rơm rạ trên những cánh đồng cũng sản sinh
ra khí metan. Khí thải metan góp phần vào việc
hình thành ozone ở tầng bình lưu, là nguyên
nhân gây ra bệnh hen suyễn và các bệnh về
đường hô hấp. Khí metan cũng là một loại khí
đóng góp vào sự nóng lên toàn cầu mạnh. Việc
đốt rơm rạ trên những cánh đồng tạo ra khói,
bụi làm phát sinh khí thải CO2, CO, NO2 vào
môi trường, gây cản trở tầm nhìn, ảnh hưởng
đến chất lượng không khí. Chúng tạo ra các hạt
bụi mịn, ảnh hưởng sinh hoạt bình thường của
người dân. Nó không chỉ gây ô nhiễm tại khu
vực đốt rơm rạ, mà các chất ô nhiễm còn theo
gió phát tán ra vùng rộng lớn, làm gia tăng ô
nhiễm không khí cho những vùng xung quanh.
M.H. Dang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 73-83
77
Sử dụng thuốc trừ sâu, phân hóa học và các
loại phân tươi trong các hoạt động nông nghiệp
cũng phát sinh ra khí độc hại amoniac gây ô
nhiễm nguồn nước. Nếu hít phải nhiều amoniac
sẽ bị bỏng đường hô hấp (rát cổ họng), gấy ức
chế thần kinh tạo nên cảm giác khó chịu cáu
gắt, gây đau thắt ngực, khó thở. Năm 1962, nữ
văn sĩ Rachel Carson xuất bản cuốn sách “Mùa
xuân im lặng” đã tiết lộ về những hiểm họa của
thuốc trừ sâu DDT. Chỉ một lần phun thuốc trừ
sâu DDT để diệt một loài sâu hại cây trồng, nó
không chỉ diệt được loài sâu bệnh trong nhiều
tuần hoặc nhiều tháng, mà đồng thời cũng tiêu
diệt luôn nhiều loài côn trùng có lợi khác và tồn
lưu như một độc chất trong môi trường.
Chất thải
Đốt rác thải và chất thải hữu cơ trong các
bãi chôn lấp rác thải cũng phát sinh nhiều chất ô
nhiễm độc hại như: bụi, NOx, CO, CO2 , SOx,
THC, HCl, HF, dioxin/furan, hơi nước và tro
vào khí quyển. Khí thải sinh ra từ các lò đốt rác
cũng đang làm ô nhiễm môi trường không khí
nghiêm trọng và ảnh hưởng đến sức khỏe của
con người. Trên toàn cầu, ước tính 40% chất
thải được đốt công khai. Vấn đề nghiêm trọng
nhất ở các khu vực đô thị hóa và các nước đang
phát triển.
Những nguồn khác
Không phải tất cả các nguồn gây ô nhiễm
không khí đều đến từ hoạt động của con người.
Các vụ phun trào núi lửa, bão bụi và các quá
trình tự nhiên khác cũng gây ra ô nhiễm không
khí. Bão cát và bụi cũng là nguyên nhân gây ô
nhiễm không khí, các hạt bụi li ti có thể di
chuyển hàng ngàn dặm trong bầu khí quyển sau
của những cơn bão, đi theo chúng cũng có thể
mang mầm bệnh là những con vi rút hay các
chất độc hại, gây ra các bệnh đường hô hấp mãn
tính. Chiến tranh hay các cuộc tập trận quân
sự: vũ khí hạt nhân, khí độc, chiến tranh hóa
học và tên lửa cũng là một trong những nguyên
nhân gây ra sự ô nhiễm không khí.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) chỉ ra các
nguồn gây ô nhiễm không khí ngoài trời chủ
yếu là từ các phương phương tiện giao thông,
các nhà máy nhiệt điện than, trong nông nghiệp
và việc đốt các chất thải. Nấu ăn, sưởi ấm và
thắp sáng nhà cửa bằng cách sử dụng lửa khi
đốt các nhiên liệu hóa thạch (gỗ, phân động vật
và chất thải cây trồng) và than là nguồn chính
gây ô nhiễm không khí trong nhà [11].
+ Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí
Nghiên cứu của Tổ chức Y tế thế
giới (WHO) chỉ ra có khoảng 3,8 triệu ca tử
vong sớm là do ô nhiễm không khí trong nhà
mỗi năm, phần lớn trong số họ ở các nước đang
phát triển [12], trong đó: 27% là do viêm phổi,
18% từ đột quỵ, 27% từ bệnh tim thiếu máu cục
bộ, 20% từ bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
(COPD), 8% từ ung thư phổi.
Nhiều nghiên cứu khoa học đã chứng minh
rằng: hít thở không khí ô nhiễm làm tăng nguy
cơ mắc bệnh suy nhược và gây chết người như
bệnh tim, đột quỵ, ung thư phổi và viêm phế
quản mãn tính. Ô nhiễm không khí cũng được
coi là yếu tố nguy cơ gây ra một số bệnh như
hen suyễn, ung thư phổi, phì đại tâm thất, bệnh
alzheimer và parkinson, biến chứng tâm lí, tự
kỷ, bệnh võng mạc, giảm tăng trưởng thai nhi
và nhẹ cân.
Ô nhiễm không khí có thể khuếch tán và lan
truyền nhanh, không chỉ gói gọn trong một địa
phương hoặc khu vực, không phân chia được
ranh giới, không có biên giới (xuyên biên giới).
Nghiên cứu gần đây của M Sand và cộng sự
(2016) chỉ ra rằng ô nhiễm không khí ở một khu
vực cũng có thể có tác động đáng kể đến khí
hậu ở khu vực khác. Ví dụ, khí thải từ các quốc
gia Châu Á đóng góp rất lớn cho sự nóng lên ở
Bắc Cực [13]. Thương mại quốc tế do quá trình
toàn cầu hóa cũng đóng góp vào sự ô nhiễm
không khí.
Nghiên cứu của Jaganathan và cộng sự
(2019) cho thấy tác động bất lợi của ô nhiễm
không khí đối với bệnh ung thư và các bệnh
mãn tính, trong công trình nghiên cứu của
mình, các tác giả đã xem xét mối quan hệ giữa
phơi nhiễm lâu dài với bụi và các hợp chất
trong bụi được (Particulate matter) và bệnh
chuyển hóa tim ở các nước đang phát triển;
Theo Filippini và cộng sự (2019) nghiên cứu và
phân tích mối liên quan giữa ô nhiễm không khí
ngoài trời và bệnh bạch cầu ở trẻ em dựa trên
phân tích tổng hợp; Zhiming Yang và cộng sự
M.H. Dang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 73-83
78
(2019) chỉ ra mối quan hệ giữa ô nhiễm không
khí và béo phì dựa trên dữ liệu nghiên cứu từ
những người trung niên và cao tuổi ở Trung
Quốc. Trong nghiên cứu này đã chỉ ra ô nhiễm
không khí là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến béo phì: mức độ ô nhiễm không khí càng
cao, tác động càng nghiêm trọng và tác động
này có tác động đến bép phì những người trung
niên và cao tuổi ở Trung Quốc [14].
Một nghiên cứu khác của Niya Zhou và
cộng sự (2014) cho thấy ảnh hưởng của ô
nhiễm không khí dẫn đến bệnh vô sinh ở nam
giới [15]. Ngoài những tác động tiêu cực của ô
nhiễm không khí đối với sức khỏe con người,
thì còn có những thiệt hại kinh tế, năng suất cây
trồng, do đó ảnh hưởng đến an ninh lương thực.
Cho đến nay, các nhà khoa học đều cho rằng ô
nhiễm không khí là một nhân tố làm suy giảm
sự đa dạng sinh học trong đó hệ sinh thái nước
ngọt bị ảnh hưởng nhiều nhất. Sự ảnh hưởng
của ô nhiễm môi trường không khí liên quan
chủ yếu đến việc suy giảm, làm yếu đi các loài
mà không phải là gây ra tuyệt chủng. Tuy
nhiên, với xu hướng tiếp tục ô nhiễm như hiện
nay thì một số loài động thực vật bị mất đi là
không thể tránh khỏi. Ví dụ: biến đổi khí hậu
gây ra hiện tượng El nino gây khô hạn kéo dài
làm cạn kiệt nguồn nước, cháy rừng, nhiều loài
động thực vật bị chết.
3. Ô nhiễm không khí ở Việt Nam và một số
đề xuất hoàn thiện chính sách
3.1. Ô nhiễm không khí ở Việt Nam
Ở Việt Nam ô nhiễm môi trường vẫn tiếp
tục gia tăng, nhất là tại các khu đô thị, thành
phố lớn, ảnh hưởng lớn tới đời sống, sinh hoạt
của người dân, trở thành vấn đề bức xúc của xã
hội [16]. Nhiều sự cố, vấn đề liên quan đến môi
trường phát sinh ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống người dân. Điển hình như vụ cháy xảy ra
tại Công ty Cổ phần Bóng đèn Phích nước Rạng
Đông thuộc quận Thanh Xuân, Thành phố Hà
Nội gây ô nhiễm môi trường không khí, môi
trường nước; xả thải gây ô nhiễm nguồn nước
của Công ty Cổ phần Đầu tư Nước sạch Sông
Đà (Viwasupco) gây khủng hoảng nước sạch
nhiều quận, huyện, Thành phố Hà Nội trong
nhiều ngày; các đợt ô nhiễm không khí nghiêm
trọng xảy ra tại các thành phố lớn như Hà Nội,
Hồ Chí Minh đã tác động tiêu cực đến sức
khỏe, môi trường sống của người dân,... [17].
Trong tháng 12 năm 2019 và hai tháng đầu
năm 2020, Air Visual đưa ra cảnh báo ô nhiễm
không khí ở Hà Nội ở ngưỡng nguy hại cho sức
khỏe tất cả mọi người, Theo AirVisual
(14/12/2019), chỉ số AQI có bụi mịn PM2.5 tại
Hà Nội là 359, đạt mức ô nhiễm cao nhất thế
giới. Cả tuần trước đó, chỉ số AQI liên tục ở
mức trên 200 (nhóm 200 - 300 là mức “rất ô
nhiễm”, và trên 300 là mức “nguy hại”, không
nên ra đường).
Trong tháng 1/2020 Hà Nội có 9 ngày
thông số bụi mịn PM2.5 tại các trạm quan trắc
vượt quá giới hạn cho phép tại QCVN; tháng
2/2020 (tính đến ngày 20/2) có 11 ngày vượt
giới hạn cho phép [18]. Theo AirVisual
(13/12/2019), Hà Nội đứng đầu 10 thành phố ô
nhiễm nhất thế giới với chỉ số AQI ở mức
“nâu” (316). Cá biệt tại Tây Hồ chỉ số AQI lên
tới 405. Đây là đợt ô nhiễm không khí “khủng
khiếp nhất tại Hà Nội từ trước đến nay”. Theo
PAMAir, ô nhiễm nghiêm trọng ở khắp miền
Bắc Việt Nam, với ngưỡng “tím” (trên
200). Theo các chuyên gia dự báo, hiện tượng
nghịch nhiệt sẽ còn tiếp tục đến 3/2020 [19].
Ngày 21/2/2020 giá trị AQI là 314. Đây là
ngưỡng cảnh báo chất lượng không khí cao
nhất, nguy hại cho sức khỏe tất cả mọi người.
Hà Nội là thành phố duy nhất trên thế giới có
chất lượng không khí được cảnh báo ở ngưỡng
nguy hại. Theo Air Visual, những khu vực ở nội
thành Hà Nội có mức độ ô nhiễm không khí cao
nhất là: Quảng An ở quận Tây Hồ, với AQI là
315; chợ Đồng Xuân ở quận Hoàn Kiếm, với
AQI là 258; Mai Dịch ở quận Cầu Giấy, với
AQI là 252; Trung Yên ở quận Cầu Giấy, với
AQI là 256, [20].
Theo nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa
học và Công nghệ Việt Nam (VAST) và Viện
Phân tích Hệ thống Ứng dụng Quốc tế (IIASA)
của Áo (năm 2018), các kết quả cho thấy nồng
M.H. Dang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 73-83
79
độ PM2.5 trung bình năm vượt quá Quy chuẩn
kĩ thuật quốc gia (KTQG) về Chất lượng môi
trường không khí xung quanh, và vượt hơn
nhiều giá trị khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO). Dựa trên kiểm kê lượng phát thải
và số liệu khí tượng địa phương, nghiên cứu
cho thấy khác với nhiều nhận định trước đây,
nguồn thải giao thông không phải là nguồn ô
nhiễm PM2.5 chủ yếu ở Hà Nội, mặc dù nó
chiếm một phần tư nguồn thải ô nhiễm. Khoảng
ba phần tư nguồn ô nhiễm có nguồn gốc từ các
lĩnh vực khác. Ước tính rằng khoảng 20%
lượng PM2.5 trong không khí xung quanh ở Hà
Nội là từ các nhà máy nhiệt điện lớn và các khu
công công nghiệp ở xung quanh Hà Nội, 15%
phát thải từ các khu dân cư (sinh hoạt,), 15%
từ phát thải amoniac do chăn nuôi và phân bón,
khoảng 7% do đốt phụ phẩm nông nghiệp. Theo
báo cáo này, chỉ khoảng một phần ba lượng
PM2.5 trong không khí xung quanh ở Hà Nội
có nguồn gốc tại địa phương (tại các điểm nóng
giao thông, tỉ lệ có thể cao hơn). Khoảng hai
phần ba được lan truyền từ các các khu vực
Đông Hà Nội/ khu vực đồng bằng sông Hồng,
phần còn lại từ các tỉnh khác của Việt Nam, các
nước khác, vận chuyển quốc tế và các nguồn tự
nhiên. Phân tích chỉ ra rằng các hoạt động kinh
tế trong tương lai sẽ làm chất lượng không khí
xấu đi, dù các biện pháp kiểm soát ô nhiễm đã
được chính quyền thông qua. Đặc biệt, ước tính
rằng nếu không có các biện pháp cải thiện và
các chính sách chống ô nhiễm, đến năm 2030
PM2.5 ở miền Bắc Việt Nam có thể cao hơn
25-30% so với năm 2015 mặc dù vẫn có các
quy định về tiêu chuẩn khí thải. Điều này có
nghĩa là gần 85% dân số ở miền Bắc Việt Nam
sẽ tiếp xúc với chất lượng không khí không đạt
tiêu chuẩn quốc gia về PM2.5.
Kết quả nghiên cứu của Shannon N. Koplitz
và cộng sự (2017) tại Trường Đại học Harvard
dự báo về khí thải tăng lên tại các nhà máy điện
chạy than ở Đông Nam Á [21]. Nếu không có
gì thay đổi, khí thải từ đốt than tại Đông Nam Á
sẽ tăng gấp ba lần, nhất là ở Indonesia và Việt
Nam. Ước tính các nhà máy điện than đã gây ra
4.252 cái chết sớm ở Việt Nam (năm 2011) và
tăng lên 19.223 (năm 2030).
Gần đây, Hà Nội có nhiều sương mù, do
ảnh hưởng bởi 8 nhà máy điện than (từ 600 đến
2300 MW) chủ yếu ở Quảng Ninh và Hải
Phòng. Và Sài Gòn cũng bị ảnh hưởng bởi 4
nhà máy điện than Vĩnh Tân (ở Bình Thuận).
Điện than sinh ra nhiều khí độc như sulphur
dioxide (SO2), nếu hit phải sẽ khó thở và dễ bị
các bệnh phổi. Khí Sulphur dioxide được thải ra
sẽ phản ứng với VOC tạo ra hạt mịn PM2.5 trực
tiếp (carbon đen) và gián tiếp (Sulphur dioxide
chuyển thành dạng hạt). Điện than là nguồn
cung cấp hạt PM2.5 lớn nhất, và là tác nhân giết
người nhiều nhất qua ô nhiễm không khí, vì vậy
làm nhiều dự án điện than là tự sát [22]. Smog
(smoke+fog) là khí thải do ô nhiễm gặp sương
mù, dưới bức xạ mặt trời gây ra những phản
ứng quang hóa tạo thành các “hạt thứ
cấp” (secondary particle) và khí độc mới có hại
cho cơ thể như nitrogen dioxide (NO2). Khi
smog cộng hưởng với thời tiết xấu và địa hình
sẽ còn nguy hiểm hơn. Thảm họa môi trường ở
London cuối năm 1952 khi “Great Smog” kéo
dài nhiều ngày làm 8.000-12000 người chết.
Nhưng sát thủ trực tiếp là các khí độc như
nitrogen dioxide và hạt PM2.5.
3.2. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường
không khí và đề xuất hoàn thiện
Nhằm thực thi các cam kết của Việt Nam
trong các Hiệp định đa phương về môi trường
và xuất phát từ chính nhu cầu nội tại, Việt Nam
đã ban hành và triển khai nhiều chính sách,
pháp luật nhằm ngăn ngừa ô nhiễm môi trường,
trong đó có những quy định về ngăn ngừa ô
nhiễm không khí.
Hiến pháp Việt Nam 2013 quy định: Mọi
người có quyền được sống trong môi trường
trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường.
(Điều 43). Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi
trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và
suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lí nghiêm
và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt
hại. (Khoản 3 Điều 63).
Luật Bảo vệ Môi trường được ban hành lần
đầu năm 1994, được sửa đổi năm 2005, sửa đổi
lần 2 năm 2014 đã có những quy định về bảo vệ
môi trường không khí: “Các nguồn phát thải khí
M.H. Dang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 73-83
80
vào môi trường phải được đánh giá, kiểm soát
và tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ phát thải khí tác động xấu đến
môi trường có trách nhiệm giảm thiểu và xử lí
bảo đảm chất lượng môi trường không khí theo
quy định của pháp luật” (Điều 62). Quy định cụ
thể trách nhiệm của các cơ quan quản lí nhà
nước về bảo vệ môi trường “Cơ quan quản lí
nhà nước về bảo vệ môi trường có trách nhiệm
theo dõi, đánh giá chất lượng môi trường không
khí xung quanh và công bố công khai thông
tin; trường hợp môi trường không khí xung
quanh bị ô nhiễm thì phải cảnh báo, xử lí kịp
thời” (Điều 63). Đối với việc kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí, luật cũng quy định: “Cơ
sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát
thải khí công nghiệp lớn phải đăng kí nguồn
gây ô nhiễm, đo đạc, thống kê, kiểm kê và xây
dựng cơ sở dữ liệu về lưu lượng, tính chất, đặc
điểm khí thải. Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ có nguồn phát thải khí công nghiệp lưu
lượng lớn phải lắp đặt thiết bị quan trắc khí
thải tự động, liên tục và được cơ quan
quản lí nhà nước có thẩm quyền cấp phép xả
thải” (khoản 3, 4 Điều 64).
Đối với việc quản lí và kiểm soát bụi, khí
thải: “Tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ có phát tán bụi, khí thải
phải kiểm soát và xử lí bụi, khí thải bảo đảm
quy chuẩn kĩ thuật môi trường; Phương tiện
giao thông, máy móc, thiết bị, công trình xây
dựng phát tán bụi, khí thải phải có bộ phận lọc,
giảm thiểu khí thải, thiết bị che chắn hoặc biện
pháp khác để giảm thiểu bụi bảo đảm quy
chuẩn kĩ thuật môi trường” (Khoản 1, 2 Điều
102).
Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định
38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ
về quản lí chất thải và phế liệu cũng đề cập tới
quy định đăng kí nguồn thải, cấp phép xả thải
và quan trắc khí thải liên tục đối với các nguồn
phát thải khí công nghiệp lớn như xi măng,
nhiệt điện, sản xuất phôi thép, hóa chất và phân
bón hóa học,
Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày
13/5/2019 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung
một số điều của các Nghị định quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường,
theo đó quy định rõ: “ Đối với các dự án đầu tư
xây dựng khu công nghiệp và các dự án thuộc
loại hình sản xuất công nghiệp có nguy cơ gây
ô nhiễm môi trường quy định tại Phụ lục
IIaMục I Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định
này, trong báo cáo đánh giá tác động môi
trường phải có phương án phòng ngừa và ứng
phó sự cố môi trường đối với khí thải”; Tổ
chức, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi
trường không khí xung quanh phải có trách
nhiệm xử lí, cải tạo và phục hồi chất lượng môi
trường (khoản 4 Điều 13); Chủ dự án, chủ cơ sở
có phát sinh khí thải công nghiệp và thuộc đối
tượng phải kiểm tra, xác nhận hoàn thành công
trình bảo vệ môi trường quy định tại khoản 1
Điều 17 và khoản 3 Điều 22 Nghị định số
18/2015/NĐ-CP phải xây dựng và quản lí cơ sở
dữ liệu khí thải công nghiệp. Cơ sở dữ liệu khí
thải công nghiệp bao gồm các số liệu đo đạc,
thống kê, kiểm kê về lưu lượng, thông số, tính
chất, đặc điểm khí thải công nghiệp. Chủ dự án,
chủ cơ sở có trách nhiệm báo cáo việc thực hiện
nội dung này khi lập báo cáo kết quả hoàn
thành công trình bảo vệ môi trường và báo cáo
công tác bảo vệ môi trường hàng năm (Điều
45). Quy định về những đối tượng phải thực
hiện quan trắc khí thải tự động, liên tục. Chủ
nguồn thải khí thải công nghiệp có phát sinh khí
thải lưu lượng lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm môi
trường cao phải lắp đặt thiết bị quan trắc khí
thải tự động, liên tục, truyền số liệu trực tiếp
cho Sở Tài nguyên Môi trường để kiểm soát.
Các dự án có phát sinh chất thải công nghiệp
lớn đều phải có giấy phép xả khí thải công
nghiệp (Điều 47).
Thủ tướng Chính phủ cũng đã kí Quyết
định số 985a/QĐ-TTg, ngày 01/6/20016 về việc
phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về
quản lí chất lượng không khí đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2025. Đối phó với tình trạng
ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, nhất
là tại các khu đô thị, thành phố lớn, ảnh hưởng
lớn tới đời sống, sinh hoạt của người dân, trở
thành vấn đề bức xúc của xã hội, ngày
23/8/2019 của Bộ Chính trị đã họp và ra Kết
luận số 56-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị
M.H. Dang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 73-83
81
quyết Trung ương 7 khoá XI về chủ động ứng
phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lí tài
nguyên và bảo vệ môi trường, trong đó có bảo
vệ môi trường không khí.
Bộ luật Hình sự năm 2015, có hiệu lực vào
01/01/2018 đã quy định về tội gây ô nhiễm môi
trường, không chỉ quy định trách trách nhiệm
hình sự đối với cá nhân, mà còn quy định trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại
gây ô nhiễm môi trường (Điều 235); quy định
trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi
phạm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố
môi trường (Điều 237).
Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày
18/11/2016 của Chính phủ về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;
Nghị định 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của
Chính phủ về quản lí chất thải và phế liệu;
Quyết định 249/2005/QĐ-TTg ngày 10/10/2005
của Thủ tướng Chính phủ quy định lộ trình áp
dụng Tiêu chuẩn khí thải với phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ; Quyết định số
909/2010/QĐ-TTg ngày 17/6/2010 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Đề án kiểm soát khí
thải mô tô, xe gắn máy tham gia giao thông tại
các tỉnh, thành phố; Quyết định số 855/QĐ-TTg
ngày 06/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án kiểm soát ô nhiễm môi trường
trong hoạt động Giao thông vận tải; Quyết định
49/2011/QĐ-TTg ngày 01/9/2011 về việc Quy
định lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với
xe ô tô, xe mô tô hai bánh sản xuất, lắp ráp và
nhập khẩu mới; Quyết định số 1216/QĐ-TTg
ngày 05/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ về
Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Bộ Tài
nguyên và Môi trường ban hành Thông tư
16/2009/TT-BTNMT, ngày 07/10/2009 quy
định về quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về môi
trường, bao gồm: Quy chuẩn kĩ thuật quốc gia
về chất lượng không khí xung quanh và Quy
chuẩn kĩ thuật quốc gia về một số chất độc hại
trong không khí xung quanh; Thông tư
41/2010/TT-BTNMT, ngày 28/12/2010 quy định
Quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về khí thải lò đốt chất
thải công nghiệp; Thông tư 05/2013/BTNMT
quyđịnh Quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về chất
lượng không khí xung quanh,
4. Nhận xét, đánh giá và một số gợi ý chính
sách đối với Việt Nam
Một là, tình trạng ô nhiễm môi trường
không khí vẫn tiếp tục gia tăng, nhất là tại các
khu đô thị, thành phố lớn Hà Nội và Thành phố
Hồ Chí Minh, ảnh hưởng lớn sức khỏe của con
người, môi trường, số ngày có thông số bụi mịn
PM2.5 tại các trạm quan trắc vượt quá giới hạn
cho phép ngày càng tăng; chỉ số AQI ở mức
“nâu” xuất hiện ngày càng nhiều, nguyên nhân
chủ yếu là do ảnh hưởng bởi các nhà máy điện
than và các khu công công nghiệp ở xung
quanh Hà Nội. Do vậy, muốn giảm thiểu ô
nhiễm không khí, phải kiểm soát được các
nguồn phát thải bụi mịn PM2.5 và PM10 như
các nhà máy điện than, các phương tiện giao
thông đường bộ, và các dự án xây dựng gây ô
nhiễm, các thói quen trong hoạt động nông
nghiệp, Giải pháp trước mắt là:
1) Cần loại trừ dần các nhà máy điện than,
thay vào đó là triển khai các dự án điện khí, các
hệ thống điện gió, điện mặt trời.
2) Tăng tiêu chuẩn khí thải của xe cơ giới,
nâng cao chất lượng nguyên liệu, áp dụng các
tiêu chuẩn EURO 4,5; khuyến khích sử dụng xe
điện, sử dụng công nghệ sạch thân thiện với
môi trường.
3) Cải thiện hệ thống giao thông công cộng;
tăng cường nhận thức của cộng đồng, để người
dân sản xuất nông nghiệp không đốt rác thải
nông nghiệp, đặc biệt là rơm rạ vào mùa thu
hoạch; xây dựng văn hóa ứng xử thân thiện với
môi trường trong cộng đồng.
Hai là, mặc dù đã có nhiều quy định pháp
luật về bảo vệ môi trường, phòng ngừa ô nhiễm
không khí đã được ban hành, nhưng ô nhiễm
môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, nhất là tại các
khu đô thị, thành phố lớn, ảnh hưởng lớn tới đời
sống, sinh hoạt của người dân, trở thành vấn đề
bức xúc của xã hội, nguyên nhân có đưa ra là:
1) Các cơ quan quản lí chuyên về không khí
còn thiếu, yếu, thiếu cán bộ có chuyên môn cao
trong lĩnh vực này; 2) Công tác quan trắc, thông
M.H. Dang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 73-83
82
báo và dự báo về tình hình ô nhiễm không khí
không kịp thời; hệ thống thông tin công bố về
các chỉ số liên quan đến không khí chưa đồng
bộ, việc đánh giá tổn thất và thiệt hại do ô
nhiễm không khí chưa kịp thời; 3). Chưa có sự
phối hợp giữa các cơ quan quản lí nhà nước để
thông báo kịp thời về tình hình ô nhiễm không
khí trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Việc xử lí sự cố hoàn toàn lúng túng, chưa xác
định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lí nhà
nước, tổ chức và cá nhân đối với bảo vệ môi
trường không khí; bồi thường thiệt hại chưa kịp
thời. Vụ cháy xảy ra tại Công ty Cổ phần Bóng
đèn Phích nước Rạng Đông thuộc quận Thanh
Xuân, Thành phố Hà Nội đã phát tán ra môi
trường 27,2 kg thủy ngân, gây ô nhiễm môi
trường là minh chứng cho việc này; 4) Thiếu cơ
chế cho việc tiếp cận thông tin, sự tham gia của
công chúng trong quá trình ra quyết định và tiếp
cận công lí trong lĩnh vực môi trường. Theo tác
giả, giải pháp lâu dài là cần tích hợp những quy
định hiện hành về ô nhiễm không khí vào một
văn bản thống nhất, nghiên cứu xây dựng Luật
Phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm không khí.
Trong đó quy định cụ thể: các biện pháp phòng
ngừa và kiểm soát ô nhiễm không khí; đặt ra bộ
Tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng không khí;
quy định giới hạn cho phép tối đa đối với khí
thải, bụi, khói, các hạt trôi nổi từ các hoạt động
sản xuất kinh doanh, các nhà máy và cơ sở kinh
doanh, trong quá trình xây dựng, trong quá trình
sản xuất nông nghiệp và các hoạt động khác;
quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lí
nhà nước, tổ chức và cá nhân đối với bảo vệ
môi trường không khí; quy định thẩm quyền xét
xử, quy trình, thủ tục đòi bồi thường, cách thức
đánh giá thiệt hại khi xảy ra ô nhiễm không khí.
Hiện thực hóa nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải trả tiền vào thực tiễn.
Ba là, Ô nhiễm không khí có thể khuếch tán
và lan truyền nhanh, không chỉ gói gọn trong
một địa phương hoặc khu vực, đây là vấn đề
lớn, không phải một quốc gia có thể giải quyết,
mà cần có sự hợp tác quốc tế. Việt Nam cần
nghiên cứu gia nhập Công ước về tiếp cận
thông tin, tham gia của cộng đồng trong quá
trình ra quyết định và tiếp cận công lí trong lĩnh
vực môi trường; Công ước quốc tế về ô nhiễm
không khí xuyên biên giới tầm xa 1979; tăng
cường hợp tác quốc tế để có thể áp dụng công
nghệ và mô hình tiên tiến để xử lí và kiểm soát
chất lượng môi trường không khí; phát triển
công nghệ thân thiện môi trường; phát triển
nguồn nhân lực có trình độ và hiểu biết về kiểm
soát ô nhiễm không khí.
5. Kết luận
Ô nhiễm không khí có tác động lớn đến sức
khỏe con người và môi trường, là nguyên nhân
gây ra nhiều bệnh nguy hiểm và có nguy vơ tử
vong cao, đặc biệt là ở các nước đang phát triển
như Việt Nam. Do đó, kiểm soát, phòng ngừa ô
nhiễm không khí là rất quan trọng và nên nằm
trong danh sách ưu tiên hàng đầu của Chính
phủ. Các nhà hoạch định chính sách và lập pháp
phải cập nhật tất cả các luật và quy định liên
quan đến ô nhiễm không khí để xây dựng một
đạo luật chuyên biệt, Luật phòng ngừa và kiểm
soát ô nhiễm không khí. Cần có sự phối hợp
giữa các cơ quan ban ngành khác nhau liên
quan đến ô nhiễm không khí để có thể xử lí sự
cố xảy ra, trước mắt cần thành lập cơ quan
chuyên trách, độc lập về bảo vệ môi trường
không khí, nhà nước cấp đủ ngân sách cho quản
lí, nghiên cứu, giám sát, kiểm soát, phòng ngừa
ô nhiễm không khí.
Tài liệu tham khảo
[1] hic/global-
burden-air-pollution.
[2]
1473177013155/pdf/108141-REVISED-Cost-of-
PollutionWebCORRECTEDfile.pdf.
[3] https://epi.envirocenter.yale.edu/epi-topline.
[4] https://thanhnien.vn/thoi-su/khong-khi-ha-noi-lai-
vuon-len-muc-o-nhiem-nhat-the-gioi-
1185769.html.
[5] Convention on Long-Range Transboundary Air
Pollution (adopted 13 November 1979, entered
into force 16 March 1983).
[6] United States Environmental Protection Agency
(2007), “Terms of Environment: Glossary,
Abbreviations and Acronyms.
M.H. Dang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 73-83
83
[7] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật môi
trường, NXB. Công an Nhân dân, Hà Nội, 2014,
tr.165.
[8] WHO, ‘A Global Assessment of Exposure and
Burden of Disease: FAQs’
who.int/phe/health_topics/outdoorair/global-
exposure-assessment-faq/en.
[9] https://www.worldenvironmentday.global/what-
causes-air-pollution#agriculture.
[10] https://www.who.int/news-room/fact-
sheets/detail/household-air-pollution-and-health.
[11] WHO, “Household Air Pollution and Health”
(February 2016).
mediacentre/factsheets/fs292/en/.
[12] https://www.who.int/news-room/fact-
sheets/detail/household-air-pollution-and-health.
[13] M. Sand et al, “Response of Arctic Temperature
to Changes in Emissions of Short-Lived Climate
Forcers” (2016) 6 Nature Climate Change 286.
[14] https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC6
862654/#B2-ijerph-16-04296.
[15] https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/
S0269749114000062.
[16] Kết luận số 56-KL/TW, ngày 23/8/2019 của Bộ
Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 7 khoá XI về chủ động ứng phó với biến đổi
khí hậu, tăng cường quản lí tài nguyên và bảo vệ
môi trường.
[17] Quyết định số 79/QĐ-BTNMT, ngày 09/01/2020
của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về
việc công bố 10 sự kiện ngành tài nguyên và môi
trường năm 2019.
[18] https://www.thiennhien.net/2020/02/25/chat-
luong-khong-khi-do-thi-dien-bien-xau-trong-2-
thang-dau-nam/.
[19] https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/moi-
truong/khong-khi-ha-noi-o-nguong-rat-co-hai-
ngay-thu-7-lien-tiep-599095.html.
[20] https://thanhnien.vn/thoi-su/khong-khi-ha-noi-lai-
vuon-len-muc-o-nhiem-nhat-the-gioi-
1185769.html.
[21] Shannon N. Koplitz và cộng sự, Burden of Disease
from Rising Coal-Fired Power Plant Emissions in
Southeast Asia (2017),
https://pubs.acs.org/doi/pdf/10.1021/acs.est.6b03731.
[22] Nguyễn Quang Dy, Câu chuyện đầu năm: Nguy
cơ khủng hoảng môi trường,
studies.net/kinhte/NQuangDy_KhungHoangMoiT
ruong.html.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- o_nhiem_khong_khi_hoan_thien_phap_luat_viet_nam_ve_bao_ve_mo.pdf