Qua những nghiên cứu trên tại khu vực bãi
giếng, đã sáng tỏ đặc điểm phân bố của mangan
trong nước dưới đất của tất cả các tầng chứa nước.
Hàm lượng Mn2+ trong nước dưới đất biến đổi theo
mùa, sự dao động hàm lượng theo mùa tuy không
lớn song biểu hiện khá rõ. Hàm lượng Mn2+ cùng
với hàm lượng sắt tổng tăng dần theo chiều sâu tới
tầng chứa nước n22 thường đạt giá trị lớn, sau đó lại
giảm trong nước tầng n21, tuy nhiên hàm lượng của
chúng vẫn vượt tiêu chuẩn cho phép, duy chỉ có
nước tầng qp2-3 là đạt tiêu chuẩn cả về hàm lượng
mangan và sắt. Trong hầu hết các giếng, hàm
lượng Mn2+ và sắt tổng đều có xu hướng tăng theo
thời gian khai thác. Tương quan về hàm lượng
Mn2+ và sắt tổng rất chặt chẽ chứng tỏ mối quan hệ
đồng sinh của chúng. Nguồn gốc của chúng trong
nước dưới đất liên quan đến nguồn gốc và thành
phần trầm tích chứa nước và cách nước. Dạng tồn
tại của mangan trong nước phụ thuộc vào điều kiện
môi trường địa hóa và khá phù hợp với thành phần
hóa học nước dưới đất tại thành phố Hồ Chí Minh
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 585 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ô nhiễm mangan trong nước dưới đất tầng pleistocen khu vực thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
81
35(1), 81-87 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 3-2013
Ô NHIỄM MANGAN TRONG NƯỚC DƯỚI ĐẤT
TẦNG PLEISTOCEN
KHU VỰC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VIỆT KỲ, LÊ THỊ TUYẾT VÂN
E - mail: nvky@hcmut.edu.vn
Trường Đại học Bách khoa Tp. Hồ Chí Minh
Ngày nhận bài: 12 - 7 - 2012
1. Mở đầu
Hiện nước ngầm cung cấp đến 40% nhu cầu
nước sinh hoạt đô thị và từ 70 đến 80% nước sinh
họat nông thôn ở Việt Nam. Theo số liệu thống kê
đến năm 2006 của Bộ Y tế thì hiện chỉ có khoảng
60% dân số Việt Nam được tiếp cận với nước sạch
và nước hợp vệ sinh. Trong chiến lược quốc gia mà
Việt Nam đề ra thì đến năm 2020 sẽ đạt con số
100% người dân được tiếp cận với nước sạch và
nước hợp vệ sinh. Đây là mục tiêu khó vì Việt
Nam vẫn chưa kiểm soát tốt chất lượng nước
dưới đất.
Gần đây, tại nhiều nơi trên thế giới đã phát hiện
một lượng đáng kể Mn trong nước dưới đất như
miền bắc tiểu bang Massachusetts, ven biển New
England [8, 9]. Hàm lượng lớn mangan trong nước
sẽ có tác động đến hệ thần kinh của con người,
nhất là những người cao tuổi, phụ nữ đang mang
thai, và có thể gây ra hội chứng tương tự như
Parkinson.
Hàm lượng mangan trong nước ngầm ở nhiều
nơi tại Đồng bằng Nam Bộ vượt quá tiêu chuẩn
cho phép. Qua 6 tháng đầu năm 2008, quan trắc
các tầng chứa nước dưới đất ở Đồng bằng Nam Bộ,
Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên nước
miền Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho
biết: hầu hết các nguyên tố vi lượng trong các tầng
chứa nước đều nằm ở phạm vi cho phép, nhưng
riêng Mn lại vượt ngưỡng.
Cụ thể là: có 4 trong số 7 mẫu nước ở tầng
chứa nước Pleistocen thượng (qp3) có hàm lượng
Mn vượt quá tiêu chuẩn cho phép (TCCP). Nơi có
hàm lượng cao nhất đạt tới 2,55mg/l (công trình
Q409020 - Phường 6, Tx. Sóc Trăng - Sóc Trăng).
Tầng Pleistocen trung - thượng (qp2-3) có 2/8 mẫu
có hàm lượng Mn vượt quá TCCP, đạt 8,50mg/l
(công trình Q177020 - Tx. Cà Mau - Cà Mau).
Tầng Pleistocen hạ (qp1) có 4/9 mẫu có hàm lượng
Mn vượt quá TCCP, hàm lượng cao nhất đạt
1,80mg/l (công trình Q02204T - Thạnh Hoá - Long
An); Tầng Pliocen giữa (n22) có 2/9 mẫu có hàm
lượng Mn vượt quá TCCP, hàm lượng cao nhất đạt
0,69mg/l (công trình Q011040 - Quận 12 -
Tp. HCM). Độ tổng khoáng hóa nước dưới đất
tổng hợp cho các tầng chứa nước có xu hướng thay
đổi so với năm 2007 và so với trung bình nhiều
năm (1995-2008).
Cách đây không lâu, một nhóm nghiên cứu
Nhật Bản cùng nghiên cứu sinh Việt Nam đã tiến
hành nghiên cứu sự ô nhiễm mangan trong nước
mặt thuộc lưu vực sông Sài Gòn. Kết quả cho thấy
mangan có quan hệ chặt chẽ với thành phần thổ
nhưỡng và đất đá và hàm lượng mangan trong
nước mặt thay đổi theo mùa rõ rệt [1]. Tại Đồng
bằng Nam Bộ, các nhà nghiên cứu cũng đã chú ý
tới ô nhiễm mangan trong nước dưới đất, tuy
nhiên, các nghiên cứu dường như mới chỉ dừng ở
mức ghi nhận hiện trạng này. Trong khuôn khổ bài
báo, nhóm tác giả sử dụng số liệu quan trắc chất
lượng nước của một bãi giếng tại một quận phía
tây bắc Tp. Hồ Chí Minh để tìm hiểu sự ô nhiễm
mangan trong nước dưới đất, quy luật phân bố của
chúng, ở mức độ nhất định - nguồn gốc của
mangan trong nước dưới đất.
2. Cơ sở tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Bãi giếng nghiên cứu gồm 40 giếng khai thác
82
trong cả 4 tầng chứa nước với lưu lượng mỗi giếng
dao động từ 50 đến 130m3/h được phân bố như
trong hình 1. Hầu hết các giếng được xây dựng từ
những năm cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI.
Trong khu vực bãi giếng tồn tại 5 tầng chứa nước
lớn: (i) Tầng chứa nước Pleistocen trung - thượng
(qp2-3) phân bố ở độ sâu 10 - 40m; (ii) tầng chứa
nước Pleistocen hạ (qp1) phân bố ở độ sâu 60 -
90m; (iii) tầng chứa nước Pliocen giữa (n22) phân
bố từ 120 đến 140m; (iv) tầng chứa nước Pliocen
dưới (n21) phân bố ở độ sâu >160m đến 230m và
(v) tầng chứa nước Miocen trên (n13) (hình 2).
Cát chứa nước Sét cách nước
Hình 2. Mặt cắt địa chất thủy văn theo hướng Nam Tây Nam - Bắc Đông Bắc
Trong quá trình khai thác, đã tiến hành lấy mẫu
nước tất cả các giếng để phân tích nhằm theo dõi
chất lượng nước, qua đó có chế độ xử lý nước phù
hợp. Mẫu được lấy theo hai mùa, mùa khô và mùa
G1-G12
G10B
G8
G13
G14
G15
G15B
G16
G17
G17B
G18
G19
G20
G21
G21B
G13B
Hình 1. Sơ đồ bố trí mạng lưới giếng khoan tại khu vực nghiên cứu
Tuyến mặt cắt
83
mưa. Các chỉ tiêu phân tích gồm: Fetc; Mn2+, Cl- và
pH. Từ kết quả phân tích cho thấy, nước trong tất
cả các tầng đều đạt yêu cấu về hàm lượng Cl-,
Nước trong tầng qp2-3 đạt yêu cầu về hàm lượng
Mn (0,06mg/l) và Fe (0,19mg/l); còn lại nước
trong tầng qp1, n22 và n21 đều có hàm lượng Mn
(trung bình 0,64; 0,80; 0,95mg/l) và Fe (12,1; 15,5;
17mg/l) vượt ngưỡng cho phép. Giá trị pH của
nước hầu hết đều dao động trong khoảng 5,4 - 6,3.
Với chất lượng nước như vậy, việc xử lý trước khi
đưa vào đường ống cấp nước của thành phố là
cần thiết.
Nhằm đánh giá nguồn gốc của sự ô nhiễm
manganes trong nước dưới đất, nhóm nghiên cứu
đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu thủy địa
hóa truyền thống, trong đó chủ yếu là phương pháp
địa thống kê kết hợp với các phương pháp cổ địa lý
và địa chất.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Đặc điểm phân bố không gian và thời gian
của Mn2+
Trước hết, có thể nói rằng, hàm lượng mangan
trong nước dưới đất tại khu vực nghiên cứu trong
tất cả các tầng chứa nước đều thay đồi theo mùa rõ
rệt. Vào mùa mưa, hàm lượng Mn2+ trong nước cao
hơn so với mùa khô. Điều này có thể nhận thấy rõ
qua hình 3 - biểu đồ tổng hợp hàm lượng Mn2+ cho
tất cả các giếng không phân biệt tầng chứa nước
đang khai thác.
0.000
0.500
1.000
1.500
2.000
2.500
3.000
K
hoâ
M
öa
K
h oâ
M
ö a
K
ho â
M
ö a
K
hoâ
M
ö a
K
h oâ
M
ö a
K
ho â
M
öa
K
h oâ
M
ö a
K
ho â
M
ö a
K
hoâ
M
öa
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
G.1N G.1N G.1BS G.2N G.3N
G.3NQ G.4N G.5N G.6NQ G.6S
G.6N G.7N G.8S G.9S G.9NQ
G.10NQ G.10S G.11NQ
Hình 3. Biểu đồ biểu diễn hàm luợng Mn2+ trong NDĐ theo mùa tại khu vực nghiên cứu
Tại các giếng khai thác trong tầng qp2-3 sự dao
động này không đáng kể vì hàm lượng mangan
trong nước rất thấp (thường nhỏ hơn 0,05mg/l),
trong khi đó, đối với các tầng chứa nước khác,
chênh lệch hàm lượng mangan giữa hai mùa có
thể đạt tới trên 0,2 mg/l, ví dụ như tại giếng G1N
với độ sâu khai thác 187m và giếng G6S với độ
sâu 192m (hình 4). Chính sự biến đổi hàm lượng
Mn2+ theo mùa ở các tầng chứa nước nằm sâu, khi
miền cung cấp của chúng nằm xa miền phân
bố đòi hỏi chúng ta phải có cách lý giải thận
trọng hơn.
H
àm
lư
ợ
ng
M
n
(m
g/
l)
84
Hình 4. Diễn biến hàm lượng Mn2+ theo mùa tại giếng G1N và G6S (tầng n21)
Hàm lượng Mn2+ và Fetc trong nước dưới đất tại
khu vực nghiên cứu cũng biến đổi nhiều theo độ
sâu phân bố của tầng chứa nước (hình 5). Qua hình
5 ta thấy rằng hàm lượng Mn2+ và Fetc trong các
tầng chứa nước nằm ở độ sâu dưới 50m (thuộc tầng
qp2-3) thấp nhất và đều nằm trong giới hạn cho
phép. Hàm lượng các ion này trong nước các tầng
sâu hơn đa số đều cao hơn tiêu chuẩn cho phép.
Tuy nhiên, hàm lượng của chúng cao nhất thường
gặp ở tầng chứa nước n22 ở độ sâu 110 - 130m, ở
tầng n21 - hàm lượng sắt và mangan vẫn cao hơn
tiêu chuẩn song thấp hơn hàm lượng của chúng
trong tầng n22. Cũng trên hình 5, ta có thể thấy rõ
mối tương quan của hàm lượng Mn2+ và Fetc. Nhìn
chung, khi hàm lượng sắt trong nước tăng, hàm
lượng Mn2+ cũng tăng theo.
Để khẳng định mối tương quan này, nhóm
nghiên cứu đã xây dựng biểu đồ tương quan giữa
hàm lượng của 2 ion đang xét (hình 6).
Hệ số tương quan giữa lưu lượng bơm khai thác,
hàm lượng Mn2+, Fetc, Cl- được trình bày ở bảng 1.
Như vậy, tương quan giữa Fetc và Mn2+ rất chặt
chẽ, hệ số tương quan đạt 0,99556, đây là một
minh chứng cho quan hệ đồng sinh của sắt và
Hàm lượng Mn trong nước giếng G.1N
0.000
0.050
0.100
0.150
0.200
0.250
0.300
0.350
0.400
K
ho
â
M
öa
K
ho
â
M
öa
K
ho
â
M
öa
K
ho
â
M
öa
K
ho
â
M
öa
K
ho
â
M
öa
K
ho
â
M
öa
K
ho
â
M
öa
K
ho
â
M
öa
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
(m
g/
l)
Hàm lượng Mn trong nước giếng G.6S
0.000
0.050
0.100
0.150
0.200
0.250
0.300
0.350
K
ho
â
M
öa
K
ho
â
M
öa
K
ho
â
M
öa
K
ho
â
M
öa
K
ho
â
M
öa
K
ho
â
M
öa
K
ho
â
M
öa
K
ho
â
M
öa
K
ho
â
M
öa
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
(m
g/
l)
Fe
-250
-200
-150
-100
-50
0
0 10 20 30 40
Mn
-250
-200
-150
-100
-50
0
0 0.5 1 1.5 2
Hình 5. Sự biến đổi hàm lượng Mn2+ và Fetc theo độ sâu
(mg/l) (mg/l)
Độ sâu (m) Độ sâu (m)
85
mangan trong nước dưới đất. Giữa các ion khác với
nhau và với lưu lượng khai thác không quan sát
thấy mối tương quan rõ ràng nào.
Hình 6. Tương quan hàm lượng Mn2+ và Fetc
Bảng 1. Hệ số tương quan giữa các ion và lưu lượng
Q Q Fetc Mn2+ Cl-
Fetc 1 -0,25355 -0,28878 -0,23314
Mn2+ 1 0,998566 -0,05994
Cl- 1 -0,01289
1
Hàm lượng Mn2+ và sắt cũng tăng theo thời
gian khai thác mặc dù sự gia tăng này không lớn
song khá rõ (hình 7). Tuy nhiên, sự gia tăng này có
thể không gặp ở một vài giếng, ví dụ như giếng
G1BS. Tại giếng này, hàm lượng Fetc và Mn2+
trong nước tăng đến trên 20mg/l (Fe) và trên
1,2mg/l (Mn) vào năm 2005, sau đó giảm xuống
tương ứng còn 14,5mg/l; 1,0mg/l vào năm 2009
(hình 8). Trong 40 giếng nghiên cứu, gặp trường
hợp này có 7 giếng.
Hình 7. Diễn biến hàm lượng Mn và Fe theo thời gian tại giếng G1N
Hình 8. Diễn biến hàm lượng Fe và Mn theo thời gian trong nước giếng G1BS
Như vậy, có thể nói rằng xu thế gia tăng hàm
lượng Fetc và Mn2+ theo thời gian khai thác là xu
thế chung của bãi giếng trong khu vực nghiên cứu.
Hiện tượng này còn được nhiều chuyên gia địa chất
Diến biến hàm lương Mn theo T
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
2000 2002 2004 2006 2008 2010
Thời gian
H
àm
lư
ợ
ng
M
n
(m
g/
l)
Diễn biến hàm lượng Fe theo T
0
5
10
15
20
25
2000 2002 2004 2006 2008 2010
Thời gian
H
àm
lư
ợ
ng
F
e
(m
g/
l)
Tương quan hàm lượng Fe và Mn trong NDĐ
0
5
10
15
20
25
30
35
40
0 0.5 1 1.5 2
Hàm lượng Mn (mg/l)
H
àm
lư
ợ
ng
F
e
(m
g/
l)
Diễn biến hàm lượng Mn theo T
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0.25
0.3
0.35
0.4
2000 2002 2004 2006 2008 2010
Thời gian
H
àm
lư
ợ
ng
M
n
(m
g/
l)
Diễn biến hàm lượng Fe theo T
0
5
10
15
20
25
2000 2002 2004 2006 2008 2010
Thời gian
H
àm
lư
ợ
ng
F
e
(m
g/
l)
86
thủy văn ghi nhận khi tiến hành thi công các giếng
khai thác nước dưới đất tại khu công nghiệp Tân
Tạo, tại Q.7, Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.
Mặc dù trong các tài liệu quan trắc không nói
đến giá trị Eh của môi trường, song có thể nói rằng,
ở các tầng chứa nước nằm sâu, môi trường địa hóa
là môi trường khử yếu đến mạnh. Ở môi trường
này, thường mangan tồn tại dưới dạng MnHCO3-.
Điều này hoàn toàn phù hợp với loại hình hóa học
của nước dưới đất ở thành phố Hồ Chí Minh:
HCO3-Na, HCO3-Cl-Na hoặc Cl-HCO3-Na.
3.2. Về nguồn cung cấp Mn2+ cho NDĐ
Từ những kết quả xử lý số liệu về hàm lượng
Mn2+ và Fetc trên, chúng ta có thể nhận định: rõ
ràng, hàm lượng Mn2+ không thể có nguồn gốc từ
những chất thải trên mặt ngấm xuống, khi mà tầng
chứa nước nằm nông nhất qp2-3 có hàm lượng này
nhỏ nhất, càng xuống sâu, hàm lượng các ion này
càng tăng. Toàn bộ các giếng khai thác đều được
kết cấu bằng ống nhựa PVC, trừ ống lọc được sử
dụng bằng ống inox (Ống loc Jonhson - Mỹ), từ đó,
chúng ta cũng có thể loại bỏ nguyên nhân xuất hiện
Mn và Fe từ các vật liệu kết cấu giếng.
Như vậy, sự xuất hiện Mn2+ cùng với Fetc trong
nước dưới đất của bãi giếng liên quan tới thành
phần trầm tích chứa nước. Theo báo cáo tổng kết
đề án “Phân chia địa tầng N-Q và nghiên cứu cấu
trúc đồng bằng Nam Bộ” do LĐ bản đồ Địa chất
miền Nam chủ biên và báo cáo tổng kết đề tài
“Biên hội bản đồ ĐC, ĐCTV - ĐCCT thành phố
Hồ Chí Minh tỷ lệ 1/50.000”, tại khu vực nghiên
cứu tồn tại các tầng chứa nước:
- Tầng chứa nước qp2-3 với thành phần phần
thạch học chủ yếu là cát mịn đến thô, cát bột, bột
cát phân lớp, phân nhịp khá dày tùy nơi màu
xám trắng, xám vàng, đỏ nâu loang lổ đôi khi có
lẫn sạn sỏi. Trên các mặt cắt thường có mặt các
thấu kính bột, bột sét, sét, nguồn gốc sông -
biển, sông.
- Tầng chứa nước qp1 với thành phần thạch học
chủ yếu là cát mịn, mịn đến thô có lẫn sạn sỏi phân
lớp và phân nhịp khá dày màu vàng, vàng nâu,
trắng xám. Thường xen kẹp thấu kính cát bột, bột
sét, bột cát, Trầm tích có nguồn gốc chủ yếu
sông - biển, sông.
- Tầng chứa nước n22: Thành phần thạch học
chủ yếu là cát mịn, mịn đến thô có lẫn sạn sỏi phân
lớp và phân nhịp khá dày màu vàng, vàng nâu,
trắng xám. Thường xen kẹp thấu kính cát bột, bột
sét, bột cát. Nguồn gốc sông - biển, sông.
- Tầng chứa nước n21: Thành phần thạch học
chủ yếu là cát trung, trung thô, mịn phân nhịp,
phân lớp khá rõ, đôi khi có lẫn sạn sỏi màu xám
xanh, xanh lục, vàng nâu. Trên mặt cắt thường xen
kẹp các thấu kính hạt mịn khá dày từ vài mét đến
khoảng 20,0m. Trầm tích có nguồn gốc sông, sông
- biển hỗn hợp.
Các trầm tích có nguồn gốc sông - biển thường
có chứa một lượng đáng kể các khoáng vật nhóm
sulfua như pyrit, chancopyrit, dạng xâm tán.
Chính các khoáng vật này đã cung cấp cho nước
dưới đất, nước mặt một hàm lượng đáng kể ion
Fe2+ và Fe3+ tùy theo môi trường địa hóa. Đối với
phần trên mặt đất và nước mặt, chúng tạo nên dạng
đất phèn đặc trưng của đồng bằng Nam Bộ. Nước
dưới đất khu vực thành phố Hồ Chí Minh cũng bị
nhiễm phèn (nhiễm sắt) ở nhiều nơi và gặp ở hầu
hết các tầng chứa nước. Có thể dự báo rằng, hiện
tượng nhiễm Mn2+ trong nước dưới đất có thể gặp
trong tất cả các giếng khai thác bị nhiễm sắt.
3.3. Xử lý nước nhiễm sắt và mangan
Nước từ tất cả các giếng của hệ thống cấp nước
được dẫn về khu xử lý tập trung. Quy trình xử lý
như sau:
Nước thô từ các trạm bơm giếng tập trung về
dàn mưa (làm thoáng tự nhiên). Nước thu được sau
dàn mưa được bổ sung vôi và chlor rồi dẫn qua bể
trộn đứng để trộn đều nước với hóa chất. Tiếp sau,
nước được dẫn đến bể lắng - tiếp xúc ngang, qua
bể lọc nhanh (loại hở trọng lực). Nước sau khi lọc
được khử trùng bằng chlor và floruor và chứa vào
bể nước sạch và được trạm bơm cấp II (bơm nước
sạch) bơm hòa vào mạng cấp nước của thành phố.
Định mức hóa chất dùng cho xử lý nước như
sau: Vôi - 96,6g/m3 nước sạch; Chlor - 3,8g/m3
nước sạch; Fluor - 0,44g/m3 nước sạch. Lưu lượng
nước thô trung bình của bãi giếng hiện nay đạt
73.000m3/ngđ, nước sạch đạt 68.000m3/ngđ. Chất
lượng nước đạt được sau xử lý đạt tiêu chuẩn nước
ăn uống, sinh hoạt (bảng 2).
Bảng 2. Kết quả xử lý nước dưới đất tại khu vực
nghiên cứu
Chỉ tiêu pH Fetc (mg/l) Mn2+ (mg/l)
Nước thô 5,9 17,6 1,04
Nước sạch 7,1 0,19 0,012
87
Tuy vậy, đối với những hộ dân hoặc những
cụm khai thác nước tập trung quy mô nhỏ vài chục
m3/ngđ, nều hàm lượng sắt không quá lớn vẫn có
thể dùng dàn mưa 2 cấp để xử lý, sau đó cho lọc
qua cát mịn, nếu cần thiết bổ sung thêm một lượng
nhỏ nước vôi (lượng nước vôi tùy thuộc theo lượng
nước và mức độ nhiễm sắt và Mn) trước khi qua
dàn mưa. Đối với các đối tượng này, nên tiến hành
lấy mẫu nước trước và sau xử lý để kiểm tra và
hiệu chỉnh quy trình lọc nhằm đảm bảo chất lượng
nước sử dụng.
4. Kết luận
Qua những nghiên cứu trên tại khu vực bãi
giếng, đã sáng tỏ đặc điểm phân bố của mangan
trong nước dưới đất của tất cả các tầng chứa nước.
Hàm lượng Mn2+ trong nước dưới đất biến đổi theo
mùa, sự dao động hàm lượng theo mùa tuy không
lớn song biểu hiện khá rõ. Hàm lượng Mn2+ cùng
với hàm lượng sắt tổng tăng dần theo chiều sâu tới
tầng chứa nước n22 thường đạt giá trị lớn, sau đó lại
giảm trong nước tầng n21, tuy nhiên hàm lượng của
chúng vẫn vượt tiêu chuẩn cho phép, duy chỉ có
nước tầng qp2-3 là đạt tiêu chuẩn cả về hàm lượng
mangan và sắt. Trong hầu hết các giếng, hàm
lượng Mn2+ và sắt tổng đều có xu hướng tăng theo
thời gian khai thác. Tương quan về hàm lượng
Mn2+ và sắt tổng rất chặt chẽ chứng tỏ mối quan hệ
đồng sinh của chúng. Nguồn gốc của chúng trong
nước dưới đất liên quan đến nguồn gốc và thành
phần trầm tích chứa nước và cách nước. Dạng tồn
tại của mangan trong nước phụ thuộc vào điều kiện
môi trường địa hóa và khá phù hợp với thành phần
hóa học nước dưới đất tại thành phố Hồ Chí Minh.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Nguyen Thi Van Ha, 2011: Sources and
leaching of manganese and iron in the Sai Gon
River Basin, Viet Nam. Water Science &
Technology .
[2] Nguyễn Kim Ngọc và nnk, 2005: Thủy địa
hóa học. Nxb. Giao thông vận tải.
[3] Patrick A. Domenico, Franklin W. Scheartz,
1990: Physical and Chemical Hydrogeology. John
Wiley & Sons, New York, Inc.
[4] Pitieva K.E. Practikum Po
Hydrogeochimyi, 1982: Izdatelstvo Moscovski
Universitet. (Tiếng Nga).
[5] Báo cáo tổng kết đề án “Phân chia địa tầng
N-Q và nghiên cứu cấu trúc đồng bằng Nam Bộ”
do Nguyễn Thế Dũng, Liên đoàn Bản đồ Địa chất
chủ biên, 2005.
[6] Báo cáo tổng kết đề án: “Biên hội bản đồ
Địa chất, Địa chất thủy văn, Địa chất công trình
thành phố Hồ Chí Minh tỷ lệ 1:50.000” do Bùi
Trần Vượng, Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra Tài
nguyên nước miền Nam chủ biên 2010.
[7] Báo cáo kết quả quan trắc của nhà máy
nước X từ 2000 đến 2010.
[8]
html của Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh đối với
thông tin sức khỏe trên mangan
[9] của Hiệp hội chất
lượng nước
SUMMARY
Manganese pollution in ground water of Pleistocene aquifers in Hochiminh City area
Currently, Manganese (Mn) pollution in groundwater in Ho Chi Minh City was detected and became an interested
issue for many researchers. In a well which belongs to the water supply company in HCM city, Mn contents comparing to
standards increase many times and fluctuate by seasons markedly, while in some other wells, the Mn contents are still
relatively stable. The content of Mn, similar to that of As, has a close relationship to iron content in the water. The
correlation coefficient between iron and manganese reached 0.99856, showing that they have a syngenetic relationship.
From some results of data processing on the concentration of Mn2+ and Fetc, it is stated that: the content of Mn2+ cannot
be derived from the surface waste seeping down because it is minimum in the shallowest aquifer qp2-3. The
concentration of Mn2+ ions increases in tandem with the depth. Their origin in groundwater related to the origin and
composition of sediments of aquifer and aquiclude. The infiltration mechanism of Mn into the water is not clear. The
treatment of Mn in groundwater is proposed in the paper, but other cheap solutions in accordance with the conditions of
the community still need to find.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3043_10271_1_pb_526_2107954.pdf