Năm là, phê chuẩn điều ước quốc tế
Việc quốc gia tham gia vào một điều ước
quốc tế, từ đó phát sinh các nghĩa vụ ràng
buộc, có thể gây ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống xã hội trong nước. Về bản chất, việc phê
chuẩn một điều ước quốc tế rõ ràng là một
vấn đề liên quan đến chính sách kinh tế, xã
hội của đất nước30. Tuy nhiên, phê chuẩn một
điều ước quốc tế bằng hình thức trưng cầu ý
dân không phải không có những khía cạnh
tiêu cực của nó. Thủ tục tiến hành trưng cầu
ý dân luôn kéo dài (từ việc thực hiện cho đến
kiểm soát trưng cầu ý dân, kiểm tra kết quả,
khiếu nại, kháng cáo quyết định ) có thể
làm Việt Nam bỏ lỡ các lợi ích khi chậm gia
nhập vào một điều ước quốc tế, nhất là điều
ước quốc tế về hợp tác kinh tế và tự do hóa
thương mại. Ví dụ, việc chậm gia nhập vào
một điều ước quốc tế thiết lập nên một FTA
có thể làm các doanh nghiệp Việt Nam không
được hưởng các ưu đãi thương mại và có thể
tiếp tục gánh chịu các chi phí trong khoảng
thời gian kéo dài đó. Ngoài ra, những thế lực
bảo thủ trong nước có thể gây ra sự cản trở
đối với công cuộc đổi mới và hội nhập sâu
rộng hơn của quốc gia vào cộng đồng quốc
tế, chẳng hạn có thể cản trở các điều ước quốc
tế song phương tạo thuận lợi cho sự dịch
chuyển lao động có tay nghề cao từ nước
ngoài. Cuối cùng, từ những gì đã đề cập đối
với trường hợp của Pháp, việc quy định đưa
ra trưng cầu ý dân đối với phê chuẩn điều ước
quốc tế có thể kéo theo hệ quả là việc bãi bỏ
một đạo luật về phê chuẩn điều ước quốc tế
của Quốc hội cũng có thể thuộc phạm vi
trưng cầu ý dân, như vậy Việt Nam có thể
đứng trước tình huống vi phạm cam kết quốc
tế và nguyên tắc pacta sunt servanda. Vì
những lý do trên, thiết nghĩ nên tiếp tục giữ
ổn định thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc
tế tuyệt đối thuộc về Quốc hội
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 180 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phạm vi áp dụng trưng cầu dân ý trong pháp luật của Pháp và Nga: Một số kinh nghiệm cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHAÅM VI AÁP DUÅNG TRÛNG CÊÌU DÊN YÁ TRONG PHAÁP LUÊÅT
CUÃA PHAÁP VAÂ NGA: MÖÅT SÖË KINH NGHIÏåM CHO VIÏåT NAM
TRẦN VIỆT DŨNG*
LÊ TẤN PHÁT **
Trưng cầu ý dân (referendum) là một hình thức thể hiện dân chủ thông
qua bỏ phiếu trực tiếp, trong đó các công dân sẽ được yêu cầu thể hiện
(thông qua cuộc bỏ phiếu toàn dân) ý kiến hoặc ý chí của mình đối với một
vấn đề của đất nước theo yêu cầu của nhà nước1. Trong cơ chế dân chủ
trực tiếp này, nhà nước sẽ dành quyền quyết định cho các cử tri là công
dân có quyền lợi và trách nhiệm đối với vấn đề liên quan; nhà nước có nghĩa
vụ thực hiện quyết nghị theo ý kiến của nhân dân. Bài viết phân tích một
khía cạnh quan trọng của pháp luật về trưng cầu ý dân, đó là phạm vi các
vấn đề áp dụng trưng cầu ý dân trên cơ sở pháp luật và thực tiễn pháp lý
của Pháp và Nga, hy vọng có thể đóng góp tích cực cho quá trình soạn thảo
Luật Trưng cầu ý dân của Việt Nam.
1. Pháp luật về trưng cầu ý dân của Liên
bang Nga
Trưng cầu ý dân là một hiện tượng tương
đối mới tại Nga. Nó chỉ mới được ghi nhận
trong hệ thống pháp luật Nga vào cuối thập
niên 1930. Mặc dù trong lịch sử nước Nga
cổ đại cũng đã tồn tại một hình thức dân chủ
trực tiếp là “biểu quyết toàn dân” (всенарод-
нoe голосование), nhưng ý nghĩa và tầm
vóc, cách thức tổ chức sự kiện này khác với
trưng cầu ý dân2.
Nghiên cứu về pháp luật về trưng cầu ý
dân tại Nga có thể được phân thành hai giai
đoạn phát triển cơ bản: (i) giai đoạn nước
Nga thuộc Liên Xô và (ii) giai đoạn nước
Nga độc lập (sau khi Liên Xô tan rã) từ năm
1992 tới nay.
1.1. Pháp luật và thực tiễn trưng cầu ý
dân của Nga thời kỳ Liên Xô
Chế định trưng cầu ý dân bắt đầu được
hình thành hệ thống pháp luật của Liên Xô
vào cuối thập niên 1930 và được đưa vào
Hiến pháp năm 19363. Sau đó, nước Cộng
56 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 22 (302) T11/2015
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
* TS. Trưởng khoa Luật Quốc tế, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
** ThS,GV. khoa Luật Quốc tế, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
1 Julien Laferrière (1947), Manuel de droit constitutionnel, Domat –. Monchrestien, Paris, p. 289.
2 Комарова В. В. (2014), Референдумный процесс Российской Федерации, Thủ tục trưng cầu ý dân của Liên bang Nga,
DirectMedia. Trước khi Hiến pháp 1936, Chính quyền Xô viết giai đoạn 1917-1936 cũng đã từng tổ chức hỏi ý kiến toàn
dân nhưng chỉ dưới hình thức trao đổi với nhân dân và không dựa trên một cơ sở pháp lý cụ thể.
hòa XHCN Xô viết Liên bang Nga (với tư
cách là một chủ thể của Liên Xô lúc bấy giờ)
cũng đã pháp điển hóa cơ chế trưng cầu ý
dân để quyết định các vấn đề quan trọng
trong bản Hiến pháp của mình năm 1937
(với nội dung tương tự như Hiến pháp năm
1936 của Liên Xô)4. Mặc dù không quy định
cụ thể trong Hiến pháp về phạm vi trưng cầu
ý dân, trong giai đoạn này, các cuộc trưng
cầu ý dân tại các nước cộng hòa thuộc Liên
Xô (chủ thể liên bang) của Nga5 và của Liên
Xô chỉ giới hạn ở các vấn đề về lãnh thổ và
các vấn đề dân tộc.
Năm 1977, Liên Xô ban hành hiến pháp
mới, trong đó quy định hai hình thức: (i) lấy ý
kiến nhân dân và (ii) trưng cầu ý dân6. Quy
định tương tự cũng được thể hiện một cách
minh thị trong Điều 5 Hiến pháp Nga vào
năm 1978. Tuy nhiên, pháp luật Liên Xô và
Nga trong giai đoạn này không quy định cụ
thể về phạm vi các vấn đề được đưa ra trưng
cầu ý dân cũng như thủ tục cho cơ chế trưng
cầu ý dân. Mãi tới năm 1990, Luật Trưng cầu
ý dân đầu tiên mới được xây dựng và thông
qua tại Đại hội Xô viết Tối cao của Liên Xô,
có hiệu lực trên toàn Liên Xô (bao gồm Nga)7.
Điều 4 Luật Trưng cầu ý dân của Liên
Xô quy định bốn vấn đề có thể được quyết
định bằng trưng cầu ý dân, bao gồm: (i) ban
hành luật liên bang (Liên Xô) mới, (ii) thay
đổi toàn bộ hoặc một phần của một đạo luật
liên bang, (iii) quyết định nội dung chính của
đạo luật và các văn bản pháp luật khác của
liên bang và (iv) quyết định những vấn đề
quan trọng khác của liên bang.
Tính hợp pháp và hợp lý của Luật này
đã gây tranh cãi chính vì quy định về phạm
vi các vấn đề là đối tượng của trưng cầu ý
dân. Hai vấn đề đầu thuộc thẩm quyền và
chức năng của cơ quan lập pháp của Liên Xô
- Đại hội Xô viết và được quy định trong
Hiến pháp. Vấn đề thứ ba bị đánh giá thiếu
thực tế vì khó có thể lượng hóa được nội
dung nào của văn bản pháp luật là nội dung
chính. Vấn đề thứ tư cũng bị nhiều học giả
chỉ trích là mơ hồ vì khó xác định những vấn
đề nào thuộc thẩm quyền của Liên bang sẽ
được coi là quan trọng và đồng thời có
những vấn đề quan trọng mang tính sống còn
của Liên bang Xô viết như việc duy trì và
thay đổi cơ cấu liên bang thì lại không thuộc
thẩm quyền của Liên bang (theo Hiến pháp),
mà phải dựa vào thỏa thuận của các chủ thể
liên bang. Mong muốn của các lãnh đạo Liên
Xô dành cho cơ chế trưng cầu ý dân tại Liên
Xô giá trị bắt buộc đã không có một nền tảng
pháp lý vững vàng. Điều này đã thể hiện qua
tác động của cuộc trưng cầu ý dân tại Liên
Xô năm 1991.
Ngày 17/03/1991, Liên Xô đã tổ chức
một cuộc trưng cầu ý dân để xác định ý chí
của nhân dân về một trong những vấn đề
quan trọng nhất của xã hội Liên Xô lúc bấy
giờ, đó là sự cần thiết của việc duy trì Liên
bang Xô viết8. Cuộc trưng cầu được tiến
hành theo đề xuất của Tổng thống Liên Xô,
Mikhail S. Gorbachev, với mục đích làm rõ
rằng mặc dù chủ nghĩa ly khai đang phát
triển tại nhiều chủ thể của Liên Xô, nhưng
đa số công dân Liên Xô vẫn mong muốn tiếp
3 Комарова В. В. (2014), tlđd, tr. 27.
4 Nga là một nước trong Liên bang Xô viết (Liên Xô), nhưng bản thân Nga cũng là một liên bang các nước cộng hòa. Theo
truyền thống pháp lý của Liên Xô và Nga, các nước cộng hòa và khu vực tự trị trong khuôn khổ liên bang được gọi là các
chủ thể liên bang. Cũng xem: Комарова В. В. (2014), tlđd, tr. 26-27.
5 Điều 5 Hiến pháp Liên Xô năm 1977.
6 Luật Trưng cầu ý dân của Liên Xô (luật No 1869-1), ban hành ngày 27/12/1990. Điều 29: “Quyết định được lấy từ kết quả
trưng cầu ý dân tại Liên Xô, sẽ là cuối cùng, có hiệu lực bắt buộc trên toàn lãnh thổ của Liên Xô, và chỉ có thể bị hủy bỏ
hay chỉ sửa đổi bởi một cuộc trưng cầu ý dân khác tại Liên Xô”.
7 Brady, Henry E., and Kaplan, Cynthia S. (1994). “Eastern Europe and the Former Soviet Union” in Referendums around the
World: The Growing Use of Direct Democracy, Washington, DC: AEI Press, tr. 25.
8 Như trên, tr. 25, 26.
57NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 22 (302) T11/2015
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
tục duy trì đất nước dưới hình thức một liên
bang thống nhất9. Câu hỏi được đưa ra để
trưng cầu ý dân là “[Quý vị] có cho rằng cần
thiết phải duy trì Liên bang Xô viết dưới hình
thức một liên bang mới của các nước cộng
hòa có chủ quyền bình đẳng, mà trong đó
bảo đảm các quyền và tự do của con người
thuộc mọi dân tộc?”. Sáu nước cộng hòa có
phong trào ly khai mạnh nhất là Armenia,
Estonia, Georgia, Latvia, Lithuania, Mol-
davia10 đã tẩy chay cuộc trưng cầu ý dân
này. Tuy nhiên, dân số của họ chỉ chiếm
khoảng 7% tổng số dân Liên Xô. Trong tất
cả các nước cộng hòa, nơi mà trưng cầu ý
dân được tổ chức, lá phiếu ủng hộ cho sự
duy trì liên bang là khá cao. Tại Nga, nước
cộng hòa chiếm 2/3 dân số của Liên Xô, số
lượng cử tri tham gia trưng cầu ý dân là
80%, và có 76,4% bỏ phiếu “ủng hộ” duy trì
liên bang11. Kết quả này ban đầu được nhìn
nhận như chiến thắng của chính quyền trung
ương và những người ủng hộ liên bang. Tuy
nhiên, tầm quan trọng của cuộc trưng cầu ý
dân đã bị suy giảm do sự mơ hồ của câu hỏi.
Quan trọng hơn, bản thân tính hợp hiến của
vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân cũng bị
thách thức. Theo Hiến pháp Liên Xô, các
nước cộng hòa Xô viết chính là chủ thể
quyết định sự tồn tại của Liên Xô và vì vậy,
vấn đề quyết định về sự tồn tại của Liên Xô
bị coi là không thuộc thẩm quyền của liên
bang. Kết quả là cuộc trưng cầu ý dân đã
thất bại trong việc giải quyết vấn đề khủng
hoảng về toàn vẹn lãnh thổ của Liên Xô. Sáu
tháng sau cuộc trưng cầu ý dân lịch sử này,
Liên Xô đã chấm dứt tồn tại theo quyết định
của lãnh đạo các nước cộng hòa thuộc liên
bang Xô Viết.
1.2. Pháp luật và thực tiễn trưng cầu ý
dân của Nga từ sau khi tuyên bố độc lập
Sau khi tuyên bố độc lập, tách ra khỏi
Liên Xô12, Liên bang Nga đã tiến hành
những thay đổi sâu rộng về hệ thống chính
trị, trong đó đặc biệt đề cao vai trò của dân
chủ trực tiếp (được thể hiện thông qua trưng
cầu ý dân). Nước Nga khẳng định tôn trọng
quyền lực tối cao của nhân dân và coi đó là
nền tảng cho nền dân chủ của liên bang thời
hậu Liên Xô.
Năm 1993, để giải quyết khủng hoảng
chính trị do những mâu thuẫn về thẩm quyền
và chức năng của các cơ quan nhà nước thời
kỳ hậu Xô viết, Tổng thống Liên bang Nga
đã tổ chức trưng cầu ý dân về bốn vấn đề: (i)
sự tin tưởng của nhân dân đối với tổng thống
Boris N. Elsin; (ii) sự đồng thuận với chính
sách kinh tế - xã hội được thực hiện bởi Liên
bang Nga và Chính phủ Liên bang Nga; (iii)
ý kiến về sự cần thiết tổ chức bầu tổng thống
Liên bang Nga trước thời hạn; và (iv) ý kiến
về sự cần thiết tổ chức bầu đại biểu Hạ viện
(Duma) Liên bang Nga trước thời hạn. Dựa
trên kết quả lá phiếu bầu của người dân Nga,
Tổng thống Bori N. Elsin đã ra quyết định
giải tán Quốc hội để bầu lại các đại biểu của
Duma. Năm 1993, Liên bang Nga cũng tổ
chức một sự kiện tương tự để thông qua Hiến
pháp mới.
Điểm đáng lưu ý ở đây là mặc dù sự
kiện được truyền thông và Chính phủ Nga
coi như trưng cầu ý dân, thực tế nó được vận
hành theo cơ chế “toàn dân biểu quyết” (все-
народнoe голосование)13 và không dựa trên
một cơ sở pháp lý cụ thể nào vì vào thời điểm
đó Nga không có Luật Trưng cầu ý dân. Để
tránh tình trạng phe đối lập đặt vấn đề về tính
9 Liên Xô được hình thành trên cơ sở thỏa thuận liên minh của 15 nước cộng hòa.
10 Gale Encyclopedia of Russian History: Referendum of March 1991 (Từ điển Bách khoa toàn thư của Gale về lịch sử Nga:
Trưng cầu ý dân tháng 3 năm 1991).
11 (truy cập: 20/4/2015).
12 Tuyên bố về chủ quyền quốc gia của Liên bang Cộng hòa XHCN Nga (Декларация о государственном суверенитете
РСФСР, принята Первым Съездом Hародных Депутатов РСФСР), 12/06/1990.
13 Cuộc trưng cầu ý dân này được thực hiện trên cơ sở Sắc lệnh của Tổng thống Liên bang Nga số 1633 về việc “Tổ chức lấy
ý kiến toàn dân về dự án Hiến pháp Liên bang Nga vào ngày 12/12/1993”. Thực chất việc dùng khái niệm “lấy ý kiến nhân
58 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 22 (302) T11/2015
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
hợp hiến và hợp pháp của sự kiện trưng cầu
ý dân, các nhà lập pháp Nga đã khẳng định
vai trò của trưng cầu ý dân trong Hiến pháp
năm 1993 và sau đó tiếp tục ban hành Luật
Trưng cầu ý dân14.
Rút kinh nghiệm từ Luật Trưng cầu ý dân
năm 1991, các nhà lập pháp Liên bang Nga
đã quy định rất cụ thể các vấn đề có thể được
trưng cầu ý dân. Trước hết, vấn đề thông qua
Hiến pháp mới của Liên bang sẽ phải được
thực hiện thông qua cuộc trưng cầu ý dân bắt
buộc, nếu Hội đồng lập hiến có quyết định
lấy ý kiến toàn dân về dự thảo hiến pháp
mới15. Quy định này gợi ý việc ban hành hiến
pháp mới của Liên bang Nga nên được thực
hiện thông qua trưng cầu ý dân (cần lưu ý là
việc thông qua Hiến pháp mới không bắt
buộc phải dựa trên trưng cầu ý dân, đây vẫn
là vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội).
Bên cạnh đó, Điều 3 Luật Trưng cầu ý
dân Liên bang Nga năm 1995 cũng nêu rõ
những vấn đề không phải là đối tượng của
trưng cầu ý dân như sau:
1) Thay đổi tư cách pháp lý của các chủ
thể của Liên bang Nga;
2) Kéo dài hoặc hạn chế thời hạn nhiệm
kỳ của Tổng thống Liên bang Nga, Hội đồng
Liên bang, Duma Quốc gia; bầu cử trước thời
hạn của Tổng thống Liên bang Nga, Hội đồng
Liên bang, Duma Quốc gia;
3) Thông qua và thay đổi ngân sách liên
bang, thực hiện và sửa đổi các nghĩa vụ tài
chính của nhà nước;
4) Giới thiệu, thay đổi và chấm dứt chính
sách thuế liên bang hoặc bãi bỏ thu thuế cũng
như cho phép miễn đóng thuế;
5) Ban hành các biện pháp khẩn cấp để
đảm bảo an toàn và sức khỏe cho người dân;
và
6) Ân xá và đặc xá.
Luật cũng nhấn mạnh, các vấn đề được
đưa ra trưng cầu ý dân tại Liên bang Nga
không được giới hạn hoặc thu hồi, thay đổi
các quyền và tự do phổ thông của con người,
của công dân và các bảo đảm của Hiến pháp
về việc thực hiện các quyền tự do này16.
Trong lần sửa đổi năm 2004, Luật Trưng
cầu ý dân của Liên bang Nga đã bổ sung phạm
vi các giới hạn của trưng cầu ý dân. Theo đó,
sẽ không được đưa ra trưng cầu ý dân các vấn
đề liên quan tới các thẩm quyền mang tính
“đặc quyền” của cơ quan nhà nước Liên bang
như (i) bầu, bổ nhiệm, bãi nhiệm, đình chỉ
quyền hạn quan chức trong bộ máy nhà nước
của Liên bang, (ii) quyết định thành phần của
các cơ quan liên bang, và (iii) thành lập, thay
đổi, giải tán các cơ quan được thành lập theo
các điều ước quốc tế của Liên bang Nga.
Có thể thấy, phạm vi trưng cầu ý dân
trong pháp luật Liên bang Nga tương đối
rộng, nhưng cũng có giới hạn đối với một số
vấn đề nhạy cảm như quyền tự quyết về chủ
quyền của các nước cộng hòa thuộc Liên
bang (liên quan tới việc một chủ thể tách khỏi
Liên bang), sự tồn tại và vận hành của các
nhánh quyền lực nhà nước, ngân sách liên
bang và chính sách thuế, cũng như thay đổi,
thu hồi các quyền tự do công dân và quyền
con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp.
Hiến pháp và Luật Trưng cầu ý dân trao
cho Tổng thống quyền yêu cầu tổ chức trưng
cầu ý dân17. Bên cạnh đó, để đảm bảo vấn đề
được đưa ra trưng cầu ý dân không vi hiến và
59NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 22 (302) T11/2015
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
dân” của Liên bang Nga là một hình thức lách luật bởi lúc đó Liên bang Nga chưa có Luật liên bang về trưng cầu ý dân
trong khi cũng không muốn thực hiện trưng cầu ý dân trên cơ sở Luật về Trưng cầu ý dân của Liên Xô.
14 Luật Liên bang Nga về Trưng cầu ý dân (Федеральный конституционный закон от 10 октября 1995 года N2-ФКЗ “О
референдуме Российской Федерации”) sau đây gọi là “Luật Trưng cầu ý dân Liên bang Nga”. Luật này đã được bổ sung
sửa đổi vào 28/06/2004 và 24/04/2008.
15 Điều 3 Luật Trưng cầu ý dân Liên bang Nga 1995 (Điều 6 Luật Trưng cầu ý dân Liên bang Nga năm 2004).
16 Như trên.
17 Điều 84 Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 và Điều 23.1 Luật Trưng cầu ý dân năm 2004.
18 Điều 23.2 Luật Trưng cầu ý dân năm 2004.
19 Hiến pháp Pháp 1958.
20 Tên đầy đủ của văn bản: Luật Hiến pháp số 2008-724 ngày 23/7/2008 về hiện đại hóa các chế định của Hiến pháp.
(
ture=null&g=ls), truy cập:28/3/2015.
không vi phạm các quyền tự do của con
người và công dân được bảo đảm bởi Hiến
pháp, Tổng thống sẽ phải xin ý kiến của Tòa
hiến pháp Liên bang. Nếu sáng kiến trưng cầu
ý dân là hợp hiến, Tổng thống sẽ công bố
ngày trưng cầu ý dân trong vòng 15 ngày kể
từ ngày có quyết định của tòa; ngược lại nếu
Tòa hiến pháp coi sáng kiến không phù hợp
với Hiến pháp thì cuộc trưng cầu ý dân sẽ
không được tổ chức18. Cơ chế này được hình
thành nhằm khẳng định vai trò của Hiến pháp
và đồng thời tránh hậu quả tương tự như cuộc
trưng cầu ý dân của Liên Xô năm 1991.
Theo quy định của pháp luật Liên bang
Nga, kết quả của trưng cầu ý dân có hiệu lực
ngay lập tức mà không cần phê chuẩn của bất
kỳ cơ quan nhà nước nào, và chỉ có thể bị thay
thế bởi một quyết định trưng cầu ý dân khác.
Các vi phạm quy định của Luật Trưng cầu ý
dân sẽ bị xử phạt hành chính hoặc hình sự.
2. Phạm vi trưng cầu ý dân trong pháp
luật của Pháp
Pháp là một quốc gia có truyền thống
dân chủ lâu đời. Chế định trưng cầu ý dân ở
đây cũng đã được xây dựng và phát triển,
củng cố qua nhiều thăng trầm của lịch sử chế
độ cộng hòa dân chủ. Ngày nay, trưng cầu ý
dân là hình thức tối thượng mà người dân
Pháp thể hiện và thực hiện quyền dân chủ và
chủ quyền19. Như vậy, về vai trò và giá trị
pháp lý, trưng cầu ý dân hoàn toàn khác với
các hình thức lấy ý kiến nhân dân khác (ví
dụ: lấy kiến nhân dân hay toàn dân biểu
quyết).
Hiến pháp năm 1958 của Pháp quy định
cụ thể về trưng cầu ý dân tại Điều 11, Điều
89 và Điều 72.1. Theo đó, các vấn đề thuộc
phạm vi trưng cầu ý dân được xác định bao
gồm:
1) Thông qua một dự thảo luật liên quan
đến tổ chức cơ quan Nhà nước, cải cách
chính sách kinh tế, xã hội, môi trường của
đất nước, dịch vụ công cộng.
2) Thông qua một dự thảo luật để phê
chuẩn điều ước quốc tế.
3) Sửa đổi Hiến pháp.
4) Ở cấp địa phương, các dự thảo Nghị
quyết và văn bản thuộc thẩm quyền của
Cộng đồng lãnh thổ.
Có thể thấy, các vấn đề có thể đưa ra
trưng cầu ý dân của Pháp được quy định rất
rộng. Tinh thần này được phản ánh ngay từ
bản Hiến pháp đầu tiên của nền đệ ngũ cộng
hòa vào năm 1958, và tiếp tục được bổ sung,
mở rộng thông qua các bản Hiến pháp sau
này, gần nhất là Hiến pháp năm 200820. Một
trong những sự kiện đáng chú ý nhất có thể
kể đến là quy định trong dự thảo Hiến pháp
ngày 20/7/1984. Theo đó, vấn đề “bảo đảm
các quyền con người” đã được đề xuất đưa
vào phạm vi trưng cầu ý dân với quan điểm
ủng hộ cho rằng, quyền con người nói chung
và vấn đề bảo đảm quyền con người nói riêng
là cực kỳ quan trọng và là lợi ích thiết thân
của mỗi công dân Pháp. Vì vậy, những dự
thảo luật có thể mang đến hệ quả là thu hẹp
hoặc gây phương hại đến quyền con người
phải được quyết định bởi tất cả công dân
Pháp thông qua hình thức trưng cầu ý dân.
Tuy nhiên, các quan điểm chiếm đa số lại tỏ
ra thận trọng và chỉ trích quy định này vì lo
ngại rằng, việc tổ chức trưng cầu ý kiến toàn
dân đối với các vấn đề liên quan đến quyền
cơ bản của con người có thể là một “con dao
hai lưỡi” vì nó có thể bị một phe phái hoặc
một sắc dân có vị thế cao trong xã hội lợi
dụng để gây phương hại đến các quyền cơ
bản của con người mà Hội đồng Hiến pháp
60 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 22 (302) T11/2015
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
không thể kiểm soát được21. Các quan điểm
thận trọng của Pháp xuất phát từ những kinh
nghiệm “xương máu” đã diễn ra tại Hoa Kỳ
và một số nước vào thế kỷ XIX và XX. Điển
hình, trong thập niên 1960 ở Hoa Kỳ, rất
nhiều tiểu bang đã tổ chức những cuộc bỏ
phiếu trưng cầu ý dân nhằm chống lại việc
phân chia bình đẳng nhà ở giữa người da đen
và người da trắng (anti-fair hausing). Ngoài
ra, không hiếm những trường hợp bỏ phiếu
trưng cầu ý dân nhằm chống lại người nhập
cư hay người đồng tính22. Theo quy định của
Pháp, các sáng kiến, đề xuất, đề nghị trưng
cầu ý dân phải được kiểm tra tính hợp hiến
bởi Hội đồng Hiến pháp trước khi đưa ra tổ
chức. Về mặt lý thuyết, hoạt động của Hội
đồng Hiến pháp vẫn có thể đóng vai trò là cái
“van an toàn” để ngăn chặn những trường
hợp trên tái hiện ở nước Pháp. Tuy nhiên, trên
thực tế, việc bác bỏ hoặc gạn lọc vấn đề quan
trọng có ảnh hưởng tới các lợi ích của các giai
tầng xã hội, sắc tộc, tôn giáo sẽ luôn rất nhạy
cảm và nhiều áp lực.
Cách quy định rộng trong Hiến pháp của
Pháp về trưng cầu ý dân đã tạo nên nhiều
cách diễn giải về các vấn đề thuộc phạm vi
của Điều 11 Hiến pháp, đặc biệt trong bối
cảnh các luật tổ chức (Loi organique)23 của
Pháp cũng không đề cập và làm rõ phạm vi
của Điều 11. Vì thế, những câu hỏi như vấn
đề nào (dự thảo luật nào) liên quan đến chính
sách kinh tế, xã hội của đất nước, một dự
toán ngân sách nhà nước hoặc luật sửa đổi
Bộ luật Hình sự với mục đích bãi bỏ hình
phạt tử hình, vấn đề ly khai của một bộ phận
lãnh thổ24 có thể là đối tượng để trưng cầu
ý dân hay không thực sự không dễ để tìm ra
câu trả lời. Thực tế, đã có rất nhiều tranh luận
diễn ra trong khuôn khổ nước Pháp về những
vấn đề có thể được đưa ra trưng cầu ý dân.
Gần đây nhất là tranh cãi về các vấn đề liên
quan đến hôn nhân đồng tính, nhận con nuôi
của người đồng tính có thuộc phạm vi của
trưng cầu ý dân hay không.
Đối với vấn đề thông qua một dự thảo
luật để phê chuẩn điều ước quốc tế, lời văn
của Điều 11 quy định rằng: “dự luật phê
chuẩn điều ước quốc tế không có quy định
trái với Hiến pháp nhưng có ảnh hưởng đến
hoạt động của các thiết chế Nhà nước”. Rõ
ràng, nếu căn cứ vào phạm vi trưng cầu ý
dân, đây là một quy phạm chung chung và
rất rộng. Rất hiếm các điều ước quốc tế
không có ảnh hưởng đến hoạt động của các
thiết chế nhà nước, từ các điều ước quốc tế
về quyền con người cho đến các điều ước
quốc tế về thương mại đều đòi hỏi sự thiết
lập hoặc thay đổi bộ máy các cơ quan hành
pháp trong nước. Quy định này đặt ra nhiều
vấn đề tranh cãi. Chẳng hạn, việc phê chuẩn
điều ước quốc tế nào sẽ phải được đưa ra
trưng cầu ý dân?
Hơn thế nữa, tại Pháp, việc phê chuẩn
các điều ước quốc tế về thương mại, hòa
bình, hiệp ước về tổ chức quốc tế, điều ước
liên quan đến tài chính của Nhà nước phải
được thực hiện bằng một đạo luật (nghĩa là
phải là phê chuẩn của Nghị viện - cơ quan
duy nhất có thẩm quyền lập pháp tại Pháp)
quy định tại Điều 53 Hiến pháp. Như vậy,
nếu sau khi Nghị viện đã ban hành đạo luật
về việc phê chuẩn một điều ước quốc tế thì
có thể tổ chức trưng cầu ý dân về việc phê
chuẩn điều ước đó hay đạo luật đó không?
21 Trong khi đó, vấn đề về quyền cơ bản của con người thuộc thẩm quyền lập hiến (và phải được kiểm soát bởi Hội đồng
Hiến pháp).
22 Marthe Fatin-Rouge Stéfanini, Le référendum et la protection des droits fondamentaux, Revue française de droit constitu-
tionnel, p. 79.
23 Trong pháp luật Pháp, luật tổ chức là văn bản quy phạm pháp luật do Nghị viện ban hành nhằm bổ sung hay cụ thể hóa
các quy định của Hiến pháp. Các đạo luật tổ chức có giá trị pháp lý cao ngay dưới Hiến pháp và trên các đạo luật thông
thường khác.
24 Diémert Stéphane, « Le référendum législatif d’initiative minoritaire dans l’article 11, révisé, de la Constitution », Revue
française de droit constitutionnel 1/2009 (n° 77) , p. 55-97.
61NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 22 (302) T11/2015
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
Nếu thừa nhận loại việc này cũng thuộc
phạm vi trưng cầu ý dân thì khi xảy ra trường
hợp ý dân ủng hộ việc bãi bỏ luật phê chuẩn
điều ước quốc tế của Nghị viện, nước Pháp
có vi phạm nguyên tắc pacta sunt servanda25
trong quan hệ quốc tế và nguyên tắc giá trị
pháp lý cao hơn của một điều ước quốc tế (so
với pháp luật quốc gia) tại Điều 55 của Hiến
pháp hay không26. Nhìn nhận một cách chủ
quan, có lẽ đây là những vấn đề khó có câu
trả lời cụ thể và chính xác và cội nguồn của
chúng xuất phát từ việc quy định về phạm vi
trưng cầu ý dân của pháp luật Pháp.
Nghiên cứu về pháp luật và thực tiễn của
Pháp đối với trưng cầu ý dân, có thể nhận
thấy về mặt lý thuyết, việc quy định rộng và
chung chung như Pháp sẽ tạo ra những vấn
đề gây tranh cãi, mặc dù trên thực tế nó cũng
không phải là thách thức thường xuyên trước
nhà nước. Việc kiến nghị tổ chức trưng cầu
ý dân sẽ phải được thực hiện bởi Tổng thống
và cũng phải được “kiểm duyệt” bởi Hội
đồng Hiến pháp. Nói cách khác, không phải
tất cả các vấn đề chính trị - xã hội đều có thể
được đưa ra trưng cầu ý dân tại Pháp27. Cho
tới nay, hầu hết các cuộc trưng cầu ý dân tại
Pháp đều chỉ giới hạn trong hai vấn đề (i)
thông qua dự thảo Hiến pháp (kể từ khi có
EU thì còn bao gồm cả Hiến pháp EU) và (ii)
phê duyệt các điều ước quốc tế quan trọng.
3. Một số kiến nghị cho Việt Nam trong
việc thiết lập phạm vi trưng cầu ý dân
trong Dự thảo Luật Trưng cầu ý dân
Từ những phân tích về kinh nghiệm lập
pháp và thực tiễn pháp lý của Pháp và Nga,
có thể thấy, pháp luật Việt Nam cũng phải
làm rõ những đối tượng thuộc phạm vi trưng
cầu ý dân và các vấn đề không thể được trưng
cầu ý dân. Việc quy định rộng và chung
chung như Điều 11 của Hiến pháp Pháp sẽ
làm cho người dân có cảm giác nhà nước đề
cao dân chủ trực tiếp, nhưng cách tiếp cận đó
có thể gây khó khăn cho việc thực thi chế
định trưng cầu ý dân. Có lẽ Việt Nam nên tiếp
cận mô hình của Liên bang Nga, tức là quy
định trong Hiến pháp những vấn đề mang
tính nguyên tắc về đối tượng và cơ chế trưng
cầu ý dân, đồng thời cũng liệt kê rõ các vấn
đề không thể được đưa ra trưng cầu ý dân.
Xét từ góc độ khoa học pháp lý, phương
án tối ưu sẽ là các nội dung trên được quy
định trực tiếp trong Hiến pháp. Tuy nhiên,
trong bối cảnh chúng ta vừa sửa đổi Hiến
pháp thì không nên tiếp tục sửa đổi Hiến
pháp nữa. Luật Trưng cầu ý dân sẽ làm việc
này. Việc quy định các đối tượng không được
đưa ra trưng cầu ý dân bên cạnh các vấn đề
thuộc phạm vi trưng cầu ý dân, có thể đáp
ứng được tính minh bạch, giúp nhân dân tin
tưởng thực sự vào tính khả thi của đạo luật
này. Ngoài ra, việc quy định những vấn đề
không thuộc phạm vi trưng cầu ý dân có thể
giúp Quốc hội không phải đưa ra thảo luận
và biểu quyết một số vấn đề thuộc thẩm
quyền riêng biệt của Nhà nước, qua đó tiết
kiệm được nguồn lực cho đất nước.
Trên tinh thần đó, chúng tôi đề xuất các
vấn đề sau không thể được đưa vào phạm vi
trưng cầu ý dân28:
Một là, các vấn đề trái với Hiến pháp
25 Trong tiếng La-tinh có câu châm ngôn “pacta sunt servanda” (“Pacta” là những điều giao ước; “sunt” là thì; “servanda” là
cần phải được giữ). Nghĩa là những điều đã giao ước thì phải được tuân giữ; nói cách khác là phải tôn trọng những nội
dung mình đã giao ước. Câu trên đã được vận dụng vào ngành luật quốc tế, trở thành một nguyên tắc pháp lý cơ bản
trong quan hệ quốc tế, tồn tại dưới hình thức tập quán quốc tế. Theo các văn kiện pháp lý quốc tế hiện hành, nguyên tắc
pacta sunt servanda bao gồm các nội dung: Mọi quốc gia đều có nghĩa vụ thực hiện tự nguyện và có thiện chí, trung thực
và đầy đủ các nghĩa vụ từ các điều ước quốc tế mà nước mình đã ký kết, tham gia, không phụ thuộc vào các sự kiện trong
và ngoài nước (chú thích của BTV).
26 Diémert Stéphane, « Le référendum législatif d’initiative minoritaire dans l’article 11, révisé, de la Constitution », Revue
française de droit constitutionnel 1/2009 (n° 77) , p. 55-97.
27 éférendum-constitution-conseil-constitutionnel-didier-
maus-article-816382.html (truy cập: 20/4/2015).
28 Trong các cuộc thảo luận liên quan đến cải cách Hiến pháp Pháp vào năm 1995, nhiều tác giả nêu quan điểm phải loại bỏ
một số vấn đề ra khỏi phạm vi áp dụng référendum, điển hình: Bộ trưởng Bộ Tư pháp - Toubon, đại diện của Chính phủ
62 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 22 (302) T11/2015
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
Rõ ràng, không nên đưa ra trưng cầu ý
dân đối với các vấn đề trái với Hiến pháp,
đạo luật gốc của một quốc gia, chẳng hạn
trưng cầu ý dân đối với sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam (Điều 4 Hiến pháp năm
2013). Chúng ta thấy tại Điều 89 của Hiến
pháp Pháp về trưng cầu ý dân đối với sửa đổi
Hiến pháp thì hình thức chính thể Cộng hòa
của nước Pháp là không thể sửa đổi. Điều đó
có nghĩa là, vấn đề thay đổi hình thức chính
thể của nước Pháp là vấn đề không thể được
đưa ra trưng cầu ý dân cho dù đây rõ ràng là
một vấn đề quan trọng có thể liên quan đến
việc tổ chức nhà nước, vốn rơi vào phạm vi
của Điều 11 Hiến pháp. Ngoài ra, Điều 61
Hiến pháp Pháp (được sửa đổi, bổ sung bởi
Hiến pháp năm 2008) quy định các dự thảo
luật được đưa ra trưng cầu ý dân theo Điều
11 phải được đệ trình lên Hội đồng Hiến
pháp để kiểm tra tính hợp hiến. Tóm lại,
những vấn đề bị coi là vi hiến sẽ không thể
được đưa ra trưng cầu ý dân.
Hai là, các vấn đề liên quan đến quyền
cơ bản của con người
Với những phân tích ở trên liên quan đến
trường hợp cụ thể của Pháp, chúng ta cũng
không nên đưa vấn đề này vào phạm vi trưng
cầu ý dân. Ở Pháp, Nga và hầu hết các quốc
gia dân chủ trên thế giới, các vấn đề liên
quan đến quyền tự do cơ bản của con người
và đặc biệt là vấn đề liên quan tới hạn chế
các quyền tự do cơ bản của con người này
không thể được đưa ra trưng cầu ý dân.
Trưng cầu ý dân về một vấn đề liên quan tới
việc công nhận bổ sung quyền tự do của con
người cũng cần phải rất cẩn trọng. Từ những
thực tiễn đã diễn ra tại Pháp trong việc đưa
ra trưng cầu ý dân đối với các quyền con
người mang tính chất nhạy cảm (ví dụ hôn
nhân đồng tính hoặc chế độ nhập cư, lao
động của người nước ngoài) có thể gây bất
lợi nhiều hơn cho nhà nước và có thể tạo ra
nhiều mâu thuẫn xã hội. Cần tránh tình trạng
những vấn đề của nhóm thiểu số bị bỏ qua
hoặc bị áp đặt do mô hình “chuyên chế số
đông”29.
Ba là, các vấn đề liên quan đến luật thuế
và ngân sách nhà nước
Luật thuế và ngân sách nhà nước là
những vấn đề có tác động sâu rộng tới toàn
bộ hệ thống kinh tế, xã hội của đất nước. Nga
quy định rõ trong Luật Trưng cầu ý dân rằng,
vấn đề tài chính và ngân sách nhà nước
không thuộc phạm vi trưng cầu ý dân. Kinh
nghiệm của Pháp, Nga cho thấy, mặc dù
không quy định rõ trong Hiến pháp nhưng họ
coi ngân sách là vấn đề “bất khả xâm phạm”
của Quốc hội và không thể đưa vấn đề liên
quan đến ngân sách nhà nước vào phạm vi
trưng cầu ý dân. Nguyên nhân có thể do 2
vấn đề sau: (i) thuế và ngân sách nhà nước
liên quan mật thiết đến hoạt động của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước. Do đó, nếu can
thiệp quá sâu và quá nhiều ý kiến sẽ dẫn đến
hạn chế quyền lực nhà nước. Trên hết, vấn
đề thông qua ngân sách cũng đã được xem
xét, thảo luận và biểu quyết bởi cơ quan đại
diện và qua đó cũng thể hiện ý chí của nhân
dân; và (ii) vấn đề thuế và ngân sách nhà
nước rất phức tạp, liên quan đến kiến thức
rộng lớn của nhiều lĩnh vực, nhiều bộ ngành.
Việc đưa ra biểu quyết toàn dân có thể không
đạt hiệu quả do người dân không đủ thông
tin và kiến thức để thực sự đưa ra quyết định
độc lập và duy lý của mình. Phần lớn họ sẽ
đưa ra quyết định theo cảm tính (ví dụ thấy
chi ngân sách nhiều thì không đồng tình
trong khi không có đủ kiến thức và thông tin
để nhìn thấy được những lợi ích mà nó có thể
mang lại hoặc giá trị thực sự của dự án đó)
thuyết trình về dự thảo sửa đổi Hiến pháp, cho rằng các vấn đề như quyền con người, luật hình sự, các luật về tài chính,
và những vấn đề thuộc về chủ quyền như quốc phòng, cảnh sát, đối ngoại thuộc “đặc quyền truyền thống của Nghị viện”.
Vấn đề tự do công đoàn không được đưa ra trưng cầu ý dân. Xem thêm Marthe Fatin-Rouge Stéfanini, Le référendum et
la protection des droits fondamentaux, Revue française de droit constitutionnel, p. 76.
29 Paula Cossart, Initiative, référendum, recall: progrès ou recul démocratique, Paris, 2011.
63NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 22 (302) T11/2015
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
30 Ví dụ, việc tham gia vào tiến trình tự do hóa thương mại trong khuôn khổ WTO không chỉ ảnh hưởng rất lớn đến các
ngành sản xuất trong nước mà còn liên quan đến chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (từ đó tạo động lực phát
triển kinh tế) của Đảng và Nhà nước ta.
hoặc bị ảnh hưởng bởi các cuộc vận động
hành lang.
Theo kinh nghiệm của Pháp và Nga,
những vấn đề về tài chính, ngân sách nhà
nước và thuế thuộc thẩm quyền tuyệt đối của
Quốc hội. Người dân có thể thực hiện quyền
dân chủ gián tiếp thông qua đại diện chứ
không được thực hiện dân chủ trực tiếp.
Bốn là các vấn đề liên quan đến quốc
phòng an ninh, chiến tranh và hòa bình
Đây là các vấn đề liên quan đến việc
tham gia liên minh quân sự quốc phòng, hoặc
hợp tác quốc phòng an ninh với các quốc gia
khác và rõ ràng có liên quan đến các bí mật
về quân sự và quốc phòng. Ngoài ra, nó còn
liên quan đến quan điểm nhất quán của Đảng
và Nhà nước ta về việc Việt Nam không tham
gia liên minh quân sự để chống lại bất kỳ
nước thứ ba nào. Do đó, thiết nghĩ không nên
đưa ra trưng cầu ý dân. Như đã trình bày ở
trên, Pháp cũng không đưa vấn đề này vào
phạm vi của trưng cầu ý dân. Lời văn của
Hiến pháp không quy định và ngay cả trong
các cuộc thảo luận về việc mở rộng phạm vi
của trưng cầu ý dân, người ta vẫn thường
tranh luận về các quyền con người cơ bản chứ
không đề cập đến quốc phòng an ninh.
Ngoài ra, đối với vấn đề chiến tranh và
hòa bình (như hội nghị Diên Hồng trong lịch
sử) thì đầu tiên, xét về tầm quan trọng, vấn đề
này rõ ràng phải được đưa ra trưng cầu ý dân
vì nó liên quan trực tiếp đến vận mệnh đất
nước nói chung và từng công dân nói riêng.
Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, một khi vấn
đề an ninh quốc phòng đã không được đưa ra
trưng cầu ý dân thì vấn đề cần phải biết nhiều
đến các thông tin bí mật quốc phòng như
chiến tranh và hòa bình thì lại càng không thể
đưa ra công khai (vì người dân cần phải biết
rõ tiềm lực quân sự của Việt Nam để có thể
quyết định hòa hay chiến). Vì thế, theo cùng
logic, chúng ta cũng không nên cho phép
trưng cầu ý dân đối với các vấn đề liên quan
đến chiến tranh và hòa bình.
Năm là, phê chuẩn điều ước quốc tế
Việc quốc gia tham gia vào một điều ước
quốc tế, từ đó phát sinh các nghĩa vụ ràng
buộc, có thể gây ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống xã hội trong nước. Về bản chất, việc phê
chuẩn một điều ước quốc tế rõ ràng là một
vấn đề liên quan đến chính sách kinh tế, xã
hội của đất nước30. Tuy nhiên, phê chuẩn một
điều ước quốc tế bằng hình thức trưng cầu ý
dân không phải không có những khía cạnh
tiêu cực của nó. Thủ tục tiến hành trưng cầu
ý dân luôn kéo dài (từ việc thực hiện cho đến
kiểm soát trưng cầu ý dân, kiểm tra kết quả,
khiếu nại, kháng cáo quyết định) có thể
làm Việt Nam bỏ lỡ các lợi ích khi chậm gia
nhập vào một điều ước quốc tế, nhất là điều
ước quốc tế về hợp tác kinh tế và tự do hóa
thương mại. Ví dụ, việc chậm gia nhập vào
một điều ước quốc tế thiết lập nên một FTA
có thể làm các doanh nghiệp Việt Nam không
được hưởng các ưu đãi thương mại và có thể
tiếp tục gánh chịu các chi phí trong khoảng
thời gian kéo dài đó. Ngoài ra, những thế lực
bảo thủ trong nước có thể gây ra sự cản trở
đối với công cuộc đổi mới và hội nhập sâu
rộng hơn của quốc gia vào cộng đồng quốc
tế, chẳng hạn có thể cản trở các điều ước quốc
tế song phương tạo thuận lợi cho sự dịch
chuyển lao động có tay nghề cao từ nước
ngoài. Cuối cùng, từ những gì đã đề cập đối
với trường hợp của Pháp, việc quy định đưa
ra trưng cầu ý dân đối với phê chuẩn điều ước
quốc tế có thể kéo theo hệ quả là việc bãi bỏ
một đạo luật về phê chuẩn điều ước quốc tế
của Quốc hội cũng có thể thuộc phạm vi
trưng cầu ý dân, như vậy Việt Nam có thể
đứng trước tình huống vi phạm cam kết quốc
tế và nguyên tắc pacta sunt servanda. Vì
những lý do trên, thiết nghĩ nên tiếp tục giữ
ổn định thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc
tế tuyệt đối thuộc về Quốc hội n
64 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 22 (302) T11/2015
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- pham_vi_ap_dung_trung_cau_dan_y_trong_phap_luat_cua_phap_va.pdf