Điều 30 và 31 của Hiến pháp năm 2013
ghi nhận quyền được khôi phục danh dự và
không giới hạn ở lĩnh vực nào, cũng không
giới hạn chủ thể nào (cả cá nhân và tổ chức
đều được bảo vệ), và có những trường hợp
việc khôi phục danh dự cho các chủ thể là
rất cần thiết nhưng lại chưa được Luật và
Dự thảo sửa đổi quy định. Thực tế, khoản 1
Điều 34 BLDS năm 2015 còn khẳng định:
“Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là
bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo
vệ” và quy định này không giới hạn việc
bảo vệ danh dự, uy tín ở bất kỳ lĩnh vực, ở
bất kỳ trường hợp nào. Do đó, để bảo vệ
danh dự của cá nhân và để bảo vệ uy tín của
các tổ chức (tức nên bổ sung quy định về
khôi phục uy tín của tổ chức như khôi phục
danh dự của cá nhân) đồng thời để có sự
thống nhất với BLDS, Dự thảo sửa đổi
không nên theo hướng liệt kê những trường
hợp được khôi phục danh dự (tức trường
hợp cá nhân được khôi phục danh dự),
những trường hợp được khôi phục uy tín
(tức những trường hợp tổ chức được khôi
phục uy tín). Ở đây, Dự thảo sửa đổi chỉ nên
tập trung vào cách thức khôi phục danh dự
cho cá nhân, cách thức khôi phục uy tín cho
tổ chức và trách nhiệm khôi phục này cần
được áp dụng cho mọi trường hợp khi có
việc xâm phạm của người thi hành công vụ
(có hành vi trái pháp luật).
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 221 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phạm vi của luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
PHAÅM VI CUÃA LUÊÅT TRAÁCH NHIÏåM
BÖÌI THÛÚÂNG CUÃA NHAÂ NÛÚÁC
Đỗ VăN Đại*
1. Thực trạng về phạm vi của Luật và Dự
thảo sửa đổi
Liệt kê trong Luật và Dự thảo sửa đổi
Luật và Dự thảo sửa đổi đều quy định
theo hướng liệt kê lĩnh vực và trong từng
lĩnh vực lại liệt kê những trường hợp làm
phát sinh TNBT của Nhà nước.
Điều 1 của Luật khẳng định: “Luật này
quy định TNBT của Nhà nước đối với cá
nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành
công vụ gây ra trong hoạt động quản lý
hành chính, tố tụng, thi hành án (THA)”.
Đối với từng lĩnh vực, Luật lại liệt kê những
trường hợp mà Nhà nước có TNBT. Theo
đó, Điều 13 liệt kê các trường hợp Nhà nước
có TNBT trong hoạt động quản lý hành
chính, Điều 26 liệt kê các trường hợp Nhà
nước có TNBT trong hoạt động tố tụng hình
sự (TTHS), Điều 28 liệt kê các trường hợp
Nhà nước có TNBT trong hoạt động tố tụng
dân sự (TTDS) và tố tụng hành chính
(TTHC), Điều 38 và 39 liệt kê các trường
hợp Nhà nước có TNBT trong hoạt động
THA hình sự và THA dân sự.
Dự thảo sửa đổi cũng theo hướng của
Luật với quy định tại Điều 1, rằng: “Luật
này quy định TNBT của Nhà nước đối với
cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi
hành công vụ gây ra trong hoạt động quản
lý hành chính, tố tụng và THA”. Trong từng
lĩnh vực, Dự thảo sửa đổi cũng liệt kê những
trường hợp, hành vi làm phát sinh TNBT
của Nhà nước. Cụ thể, Điều 17 liệt kê các
trường hợp Nhà nước có TNBT trong hoạt
động quản lý hành chính, Điều 18 liệt kê các
trường hợp Nhà nước có TNBT trong hoạt
động TTHS, Điều 19 liệt kê các trường hợp
Nhà nước có TNBT trong hoạt động TTDS
và TTHC, Điều 20 và 21 liệt kê các trường
hợp Nhà nước có TNBT trong hoạt động
THA hình sự và THA dân sự.
* PGS,TS. Trưởng Khoa Luật Dân sự - Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Luật Trách nhiệm bồi thường (TNBT) của Nhà nước đã được thi hành từ ngày
1/1/2010. Để khắc phục các bất cập và phù hợp hơn với thực tiễn áp dụng, Chính
phủ đã trình Quốc hội Dự thảo sửa đổi Luật TNBT của Nhà nước (Dự thảo sửa
đổi). Ủy ban thường vụ Quốc hội và Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đã cho ý kiến
về Dự thảo sửa đổi. Bài viết này bàn thêm về phạm vi của Luật TNBT của Nhà
nước (Luật) và Dự thảo sửa đổi.
31
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 20(324) T10/2016
32
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 20(324) T10/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
Khác biệt giữa Luật và Dự thảo
sửa đổi
Trong từng lĩnh vực nêu trên, Dự thảo
sửa đổi có sự thay đổi bằng cách bổ sung
một số trường hợp Nhà nước chịu TNBT
chưa được liệt kê trong Luật.
Ngoài ra, Dự thảo sửa đổi còn có sự
thay đổi là thiết kế tất cả các danh sách trên
theo hướng danh sách đóng. Cụ thể, trong
Luật, ngoài việc nêu 11 trường hợp ở 11
khoản khác nhau tại Điều 13 về lĩnh vực
quản lý hành chính, Điều 13 của Luật nêu
trên còn thêm khoản “quét” với nội dung
“Các trường hợp được bồi thường khác do
pháp luật quy định” (khoản 12). Quy định
như vậy là cần thiết vì Luật không thể dự
liệu được hết các hoàn cảnh nên cần có quy
định “mở thêm” những trường hợp khác và
thực tế, Tòa án đã khai thác quy định “quét”
(hay mở) này để cho người dân được bồi
thường khi không thuộc trường hợp nêu từ
khoản 1 đến khoản 11 tại Điều 131. Dự thảo
sửa đổi đã bỏ quy định nêu trên. Cụ thể,
Điều 17 Dự thảo sửa đổi tương ứng với Điều
13 Luật chỉ dừng lại ở khoản 11 với nội
dung “ra quyết định xử lý kỷ luật buộc thôi
việc đối với công chức giữ chức vụ từ Tổng
cục trưởng và tương đương trở xuống trái
pháp luật” và đã bỏ hoàn toàn điều khoản
“quét” (điều khoản mở) nêu trên (khoản 12
Điều 13 của Luật). Các điều luật tiếp theo
của Dự thảo sửa đổi liệt kê những trường
hợp Nhà nước có TNBT cũng được thiết kế
tương tự như Điều 17 của Dự thảo sửa đổi
là không có điều khoản “quét”. Nói cách
khác, Dự thảo theo hướng tất cả các trường
hợp, hành vi làm phát sinh TNBT của Nhà
nước là danh sách đóng (không thể có
trường hợp nào khác).
2. Bất cập về phạm vi của Luật và Dự
thảo sửa đổi
Trường hợp không được liệt kê
Với phương pháp liệt kê lĩnh vực và liệt
kê trường hợp Nhà nước có TNBT (tức
người bị xâm phạm được bồi thường) với
hướng đóng, chắc chắn sẽ gặp trường hợp
người thi hành công vụ có hành vi trái pháp
luật gây thiệt hại nhưng lại không thuộc
trường hợp được liệt kê. Đối với những
trường hợp không được Luật và Dự thảo sửa
đổi liệt kê, người bị thiệt hại từ hành vi trái
pháp luật của người thi hành công vụ có
được bồi thường không?
Thực tế, đã có những trường hợp người
thi hành công vụ gây thiệt hại nhưng hoàn
cảnh này chưa được Luật điều chỉnh. Chẳng
hạn, người của công an xã đi tuần tra giao
thông (cùng với công an huyện) đánh người
gây thương tích, hay từ việc cho rằng một cá
nhân lấy trộm tài sản mà công an xã đã bắt
giữ người, sau đó hành hung dẫn tới người
bị bắt giữ chết... Tương tự, trước việc xô xát
đánh nhau, công an huyện mời những người
liên quan về trụ sở công an huyện nhưng đã
để cho một cá nhân (không là người của
công an) khám xét người được đưa về trụ sở
và việc này đã được xác định là không đúng
pháp luật. Thực tế đã gặp trường hợp, một cá
nhân bị công an bắt trong một chuyên án, do
không nhận tội nên đã bị công an dùng nhục
hình đến chết và Tòa án đã xác định người
của công an huyện đã phạm tội nhục hình.
Ví dụ khác, khi phát hiện có đối tượng khai
thác cát trái phép, người của quân đội đã
dùng súng bắn dẫn đến chết người và việc
dùng súng bắn chết người được xác định là
trái pháp luật, nhưng cũng không thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật.
1 Xem Đỗ Văn Đại và Nguyễn Trương Tín, Pháp luật Việt Nam về TNBT của Nhà nước, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh 2015 (xuất bản lần thứ hai), phần số 207.
33
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 20(324) T10/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
2 Bản án số 02/2015/HSST ngày 15/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.
3 Bản án số 07/2011/HSST ngày 08/12/2011 của Tòa án Quân sự Quân khu VII.
4 Bản án số 08/2014/HSPT ngày 14/01/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
Trước ngày Bộ luật Dân sự (BLDS)
năm 2015 có hiệu lực
Đối với trường hợp chưa được Luật điều
chỉnh như trên, thực tế, Tòa án vẫn cho bồi
thường thiệt hại (BTTH) trên cơ sở BLDS
năm 2005 và để đạt được điều này, Tòa án
đã khai thác một trong hai cơ chế sau đây:
Thực tế, BLDS năm 2005 có quy định
điều chỉnh trách nhiệm BTTH do người thi
hành công vụ gây ra. Đó là quy định về
BTTH do cán bộ, công chức gây ra tại Điều
619 (với nội dung “Cơ quan, tổ chức quản
lý cán bộ, công chức phải BTTH do cán bộ,
công chức của mình gây ra trong khi thi
hành công vụ”) và về BTTH do người có
thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng
gây ra tại Điều 620 (với nội dung “Cơ quan
tiến hành tố tụng phải BTTH do người có
thẩm quyền của mình gây ra khi thực hiện
nhiệm vụ trong quá trình tiến hành tố tụng”)
nên khi Luật TNBT của Nhà nước không
điều chỉnh, Tòa án phải khai thác quy định
trên của BLDS năm 2005 để cho người dân
được bồi thường. Chẳng hạn, liên quan đến
việc công an huyện dùng nhục hình gây chết
người nêu trên, Tòa án đã không khai thác
Luật TNBT của Nhà nước mà đã theo hướng
áp dụng Điều 620 BLDS với nội dung “Về
bồi thường dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật
Hình sự, các Điều 610, 620 BLDS” để
“Buộc Công an thành phố Tuy Hòa cấp
dưỡng nuôi hai con anh Kiều là các cháu
Thảo - sinh ngày 09/12/2006, Oanh sinh
ngày 01/06/2012 mỗi cháu 575.000đ/tháng
do chị Tâm trực tiếp nhận; thời gian cấp
dưỡng đối với cháu Thanh Thảo từ ngày
13/5/2012 và cháu Oanh từ ngày 01/06/2012
cho đến khi phát sinh một trong các trường
hợp chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng quy định
tại Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 (Điều 61 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000)”2. Tương tự, đối với trường hợp
người của quân đội dùng súng gây chết
người khi phát hiện khai thác cát trái phép,
Tòa án đã theo hướng áp dụng Điều 619
BLDS năm 2005 với nội dung: “Căn cứ quy
định tại các Điều 42 BLHS, Điều 605, Điều
610, Điều 612, Điều 619 và Nghị quyết số
03/2006/NQ- HĐTP ngày 08/07/2006 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn về BTTH ngoài hợp đồng, Hội
đồng xét xử thấy rằng những chi phí sau đây
là có căn cứ pháp luật - buộc Ban Chỉ huy
quân sự Quận 9, Bộ Tư lệnh TP. Hồ Chí
Minh và bị cáo phải bồi thường”3.
Điều 619 và Điều 620 BLDS năm 2005
nêu trên có phạm vi về chủ thể khá hẹp là
chỉ áp dụng cho người thi hành công vụ là
“cán bộ, công chức” và “người có thẩm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng”. Do
đó, đối với người thi hành công vụ không
thuộc những đối tượng vừa nêu như trường
hợp của công an xã nói trên, Tòa án không
thể khai thác hai điều luật này và đã chuyển
sang khai thác quy định về BTTH do người
của pháp nhân gây ra (tức Điều 618 BLDS
năm 2005 theo đó, “Pháp nhân phải BTTH
do người của mình gây ra trong khi thực
hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao”). Cụ
thể, liên quan đến người của công an xã đi
tuần tra giao thông đánh người bị thương
nêu trên, Tòa án đã áp dụng “Điều 608, Điều
609, Điều 618 BLDS” để quyết định “Buộc
Công an xã Diên Phú, huyện Diên Khánh,
tỉnh Khánh Hòa phải bồi thường cho anh
Nam 70.795.000 đồng và bồi thường cho
ông Đại 559.000 đồng”4. Tương tự như vậy,
trong vụ việc sau đây: anh Nam là thành
34
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 20(324) T10/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
viên của đội dân phòng ấp do Uỷ ban nhân
dân (UBND) xã phân công, Công an xã và
Trưởng Công an ấp quản lý và phân công
anh Nam làm những công việc thường
xuyên của ấp. Trong một lần thực hiện công
việc được phân công là phát hoang và đốn
cây thì anh Nam đã để cây đè vào người
khác gây thiệt hại. Về trách nhiệm BTTH,
Tòa án đã xác định “vào thời điểm anh
Nam đốn cây gây thương tích cho bà Chính
vào ngày 30/9/2012 thì anh Nam là người
của pháp nhân đang thực hiện nhiệm vụ
được pháp nhân giao. UBND xã Vĩnh Xuân
là pháp nhân quản lý anh Nam nên UBND
xã Vĩnh Xuân phải có trách nhiệm BTTH
do anh Nam gây ra trong khi thực hiện
nhiệm vụ do UBND xã Vĩnh Xuân giao.
Sau khi BTTH cho bà Chính xong, UBND
xã Vĩnh Xuân có quyền yêu cầu anh Nam
phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định
của pháp luật là đúng với quy định tại Điều
618 của BLDS”5.
Từ khi BLDS năm 2015 có hiệu lực
Nếu BLDS năm 2015 vẫn giữ nguyên
các quy định nêu trên của BLDS năm 2005,
việc Luật TNBT của Nhà nước dùng phương
pháp liệt kê về lĩnh vực cũng như trường hợp
làm phát sinh TNBT của Nhà nước sẽ không
ảnh hưởng tới quyền của người dân bị thiệt
hại do người thi hành công vụ gây ra. Bởi lẽ,
họ vẫn được BTTH trên cơ sở quy định của
BLDS năm 2005 như đã nêu trên.
Tuy nhiên, BLDS năm 2015 đã thay
đổi, vì Điều 598 BLDS năm 2015 khẳng
định: “Nhà nước có trách nhiệm BTTH do
hành vi trái pháp luật của người thi hành
công vụ gây ra theo quy định của Luật
TNBT của Nhà nước”6. Như vậy, BLDS
năm 2015 không điều chỉnh TNBT của Nhà
nước đối với thiệt hại do người thi hành
công vụ gây ra và theo hướng để Luật
TNBT của Nhà nước điều chỉnh vấn đề này.
Ở đây, BLDS năm 2015 cùng theo hướng
Luật TNBT của Nhà nước là luật chung điều
chỉnh vấn đề bồi thường do hành vi trái pháp
luật của người thi hành công vụ gây ra,
nhưng Luật TNBT của Nhà nước và Dự thảo
sửa đổi lại chỉ điều chỉnh những lĩnh vực và
trường hợp được liệt kê.
Điều đó có nghĩa là, Luật TNBT của
Nhà nước và Dự thảo sửa đổi đã loại bỏ
quyền được bồi thường của người dân đối
với những lĩnh vực và trường hợp không
được liệt kê. Hướng này là không thuyết
phục, vì không có lý do chính đáng khi
không cho người dân được bồi thường trong
những trường hợp họ bị xâm phạm do hành
vi trái pháp luật của người thi hành công vụ.
3. Hướng hoàn thiện Luật và Dự thảo
sửa đổi
Cơ sở hiến định
Hiến pháp năm 2013 có quy định về
quyền được bồi thường. Cụ thể, theo Điều
30 Hiến pháp, “Mọi người có quyền khiếu
nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền về những việc làm trái pháp
luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”, và
“Người bị thiệt hại có quyền được bồi
thường về vật chất, tinh thần và phục hồi
danh dự theo quy định của pháp luật”. Bên
cạnh đó, Điều 31 khẳng định “Người bị bắt,
tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, THA trái pháp luật có quyền được
BTTH về vật chất, tinh thần và phục hồi
danh dự” (khoản 5). So với Hiến pháp năm
1992, quyền được bồi thường ở đây được
mở rộng cho cả tổn thất tinh thần (không
chỉ cho thiệt hại vật chất).
Hiến pháp năm 2013 là đưa quyền được
bồi thường thành một trong những “quyền
5 Bản án số 10/2015/DSST ngày 02/4/2015 của Toà án nhân dân huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long.
6 Về điểm mới này trong BLDS 2015, xem thêm Đỗ Văn Đại (chủ biên): Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS
2015, phần số 450; Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam (tái bản lần thứ hai), 2016.
35
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 20(324) T10/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân”, vì hai điều luật trên nằm trong
Chương II về Quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân. Khoản 2
Điều 14 Hiến pháp đã khẳng định “Quyền
con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn
chế theo quy định của luật trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội,
sức khỏe của cộng đồng”. Từ các quy định
trên, chúng ta khẳng định quyền được bồi
thường trong Hiến pháp (quyền hiến định)
bao gồm quyền được BTTH (vật chất và
tinh thần) và quyền được khôi phục danh dự.
Đây là quyền cơ bản và chỉ bị hạn chế bằng
luật (tức bằng văn bản do Quốc hội ban
hành) trong trường hợp cần thiết7.
Điều 31 Hiến pháp năm 2013 đã ghi
nhận quyền được bồi thường khi một người
“bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, THA trái pháp luật” và
không có giới hạn quyền được bồi thường
này ở lĩnh vực nào, trường hợp cụ thể nào.
Hiến pháp cũng thừa nhận quyền được bồi
thường trong những trường hợp vừa nêu
như một quyền con người, quyền cơ bản
của công dân, và khoản 2 Điều 14 Hiến
pháp năm 2013 đã khẳng định quyền này
chỉ có thể bị hạn chế “trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng”, trong khi đó, việc loại
bỏ quyền được bồi thường như Luật TNBT
của Nhà nước và Dự thảo sửa đổi không vì
những lý do này.
Nói cách khác, việc Dự thảo sửa đổi
theo hướng chỉ liệt kê lĩnh vực và liệt kê
những trường hợp trong từng lĩnh vực để ghi
nhận TNBT của Nhà nước là hạn chế quyền
được bồi thường của người dân và trái với
Hiến pháp năm 2013. Bên cạnh đó, Điều 30
Hiến pháp theo hướng “Người bị thiệt hại
có quyền được bồi thường về vật chất, tinh
thần và phục hồi danh dự theo quy định của
pháp luật”. Khác với Điều 31 nêu trên, Điều
30 (có phạm vi điều chỉnh khác Điều 31) đã
thêm cụm “theo quy định của pháp luật”
(không có trong Hiến pháp năm 1992 vì
Hiến pháp năm 1992 ghi nhận quyền được
bồi thường mà không có quy định vừa nêu8),
nhưng cụm từ này không rõ nghĩa và có thể
hiểu theo hướng không phải quyền được bồi
thường phát sinh “theo quy định của pháp
luật”, mà quyền được bồi thường đã được
Hiến pháp quy định và chỉ cách thức thực
hiện quyền này mới “theo quy định của pháp
luật”. Nếu theo hướng này thì việc Luật
TNBT của Nhà nước và Dự thảo sửa đổi liệt
kê lĩnh vực và trường hợp trong từng lĩnh
vực cũng không tương thích với Hiến pháp
năm 2013. “Quyền này đã được Hiến định,
mà đã Hiến định rồi thì không được giới hạn
bởi một luật khác. Chúng ta quy định chỉ có
ba lĩnh vực thì có vi hiến hay không? Đề
nghị cân nhắc xác định lại phạm vi điều
chỉnh của Luật cho bao quát hơn, phù hợp
hơn và cũng hợp hiến”9.
Lĩnh vực được điều chỉnh
Về lĩnh vực làm phát sinh TNBT của
Nhà nước, Luật và Dự thảo sửa đổi đều quy
định tại Điều 1 rằng: “Luật này quy định
TNBT của Nhà nước đối với cá nhân, tổ
chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ
gây ra trong hoạt động quản lý hành chính,
7 Về tác động của Hiến pháp, xem thêm Đỗ Văn Đại, Tác động của các quy định mới trong Hiến pháp năm 2013 tới pháp
luật dân sự, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 11/2014.
8 Hiến pháp năm 1992 duy trì việc ghi nhận quyền được bồi thường (đã có trong Hiến pháp trước) tại Điều 72 và Điều 74,
theo đó “người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và
phục hồi danh dự” và “mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công
dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự”.
9 Ý kiến của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân trong phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 19/9/2016 liên
quan đến quyền được bồi thường trong Dự thảo sửa đổi.
36
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 20(324) T10/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
10 Aldo Travi, L’extension de la responsabilité de l’administration publique en italie, Revue française d’administration publique
2013/3 (N° 147), tr. 677 – 690.
11 Pascale Gonod, Les tendances contemporaines de la responsabilité administrative en france et à l’étranger: quelles con-
vergences?, Revue française d’administration publique 2013/3 (N° 147), tr. 719 – 724.
tố tụng và THA”. Tuy nhiên, xoay quanh
chủ đề này vẫn còn ý kiến khác nhau.
Tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội ngày 19/9/2016, “Ý kiến thẩm tra
sơ bộ của Ủy ban Pháp luật đề nghị không
giới hạn lĩnh vực nào, hành vi nào, loại việc
nào bởi vì theo quy định của Hiến pháp, mọi
hành vi gây thiệt hại đều được bồi thường”.
Còn Bộ trưởng Bộ Tư pháp (đại diện cơ
quan soạn thảo Dự thảo sửa đổi) cho rằng:
“Có bốn lĩnh vực lớn: lĩnh vực thứ nhất là
quản lý hành chính nhà nước; lĩnh vực thứ
hai là pháp luật tố tụng, bao gồm TTHS,
TTDS, TTHC; lĩnh vực thứ ba là THA. Theo
cách phân chia này, có bốn lĩnh vực, chúng
ta loại lĩnh vực lập pháp và lập quy ra, còn
lại về cơ bản là nằm hết trong này, không đi
theo kinh tế - xã hội, không đi theo chính trị.
Bốn lĩnh vực này về cơ bản là theo cách tiếp
cận của luật hiện hành và chúng ta loại trừ
lĩnh vực lập pháp và lập quy, thực tiễn các
nước không có. Trong quá trình thảo luận để
xây dựng Dự thảo luật này, về cơ bản chúng
ta thống nhất với nhau là loại lĩnh vực lập
pháp và lập quy ra, còn lại là ba lĩnh vực”.
Điều đó có nghĩa là, theo phía Ban soạn
thảo, quyền được bồi thường của người dân
và tương ứng là TNBT của Nhà nước có thể
phát sinh trong mọi lĩnh vực trừ “lĩnh vực
lập pháp và lập quy”. Điều đó cũng có nghĩa
là giữa Ủy ban Pháp luật (cơ quan thẩm
định) và Bộ Tư pháp (cơ quan soạn thảo) chỉ
còn chưa thống nhất về lĩnh vực “lập pháp
và lập quy”.
Liên quan đến lĩnh vực “lập pháp và lập
quy”, phía Bộ Tư pháp cho rằng: “thực tiễn
các nước không có” là chưa thuyết phục.
Thực tế cho thấy, lĩnh vực này cũng đã làm
phát sinh TNBT của Nhà nước như trường
hợp của Pháp, Ý đối với trường hợp luật trái
với điều ước quốc tế trong Cộng đồng Liên
minh châu Âu, như Tòa án tối cao Ý đã từng
chấp nhận TNBT của Nhà nước trong lĩnh
vực lập pháp khi có việc vi phạm hay chậm
áp dụng quy định của Cộng đồng châu Âu10.
Ngoài ra, Hiến pháp năm 1997 của Ba Lan
hay Luật năm 2007 của Bồ Đào Nha cũng
ghi nhận TNBT của Nhà nước cả trong lĩnh
vực lập pháp, tư pháp11.
Nếu đồng ý loại trừ lĩnh vực “lập pháp
và lập quy” thì hướng quy định của Luật và
Dự thảo sửa đổi cũng chưa thuyết phục. Tại
sao lại theo phương án liệt kê những lĩnh
vực làm phát sinh TNBT của Nhà nước? Có
phải ngoài ba lĩnh vực trong Luật và Dự
thảo sửa đổi là “hoạt động quản lý hành
chính, tố tụng và THA” thì chỉ còn lại lĩnh
vực “lập pháp và lập quy”? Hoạt động của
quân đội gây thiệt hại như trường hợp người
của quân đội dùng súng gây chết người khi
phát hiện có khai thác cát trái phép ở trên,
chắc chắn không thuộc lĩnh “lập pháp và lập
quy”, nhưng có thuộc “hoạt động quản lý
hành chính, tố tụng và THA” không? Khó
có thể tìm được câu trả lời thuyết phục với
cách thiết kế các quy định mang tính liệt kê
như trên (Dự thảo sửa đổi có dự liệu trách
nhiệm của quân đội nhưng chỉ trong lĩnh
vực TTHS). BLDS đã chuyển vấn đề TNBT
của Nhà nước sang Luật TNBT của Nhà
nước và như vậy đã coi đây là Luật chung
của TNBT của Nhà nước, nhưng Luật và Dự
thảo sửa đổi đều theo hướng liệt kê những
lĩnh vực được điều chỉnh nên chưa thể hiện
là luật chung (chúng ta không liệt kê trường
hợp được điều chỉnh trong luật chung). Nếu
theo hướng chỉ loại trừ lĩnh vực “lập pháp
và lập quy” như đề xuất của Bộ Tư pháp thì
37
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 20(324) T10/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
phương án liệt kê những lĩnh vực được điều
chỉnh như hiện nay trong Luật và Dự thảo
sửa đổi là không thuyết phục, mà nên theo
hướng liệt kê lĩnh vực được loại trừ như
cách một số nước trên thế giới đã làm, và
Thụy Sỹ là một ví dụ điển hình. Thụy Sỹ đã
ban hành Luật về BTTH do người của Liên
bang gây ra, Điều 1 của Luật này khẳng
định: “Những quy định của Luật này được
áp dụng cho tất cả những người có chức
năng công vụ của Liên bang. Những người
thuộc quân đội được miễn đối với hoàn cảnh
quân đội của họ và đối với nghĩa vụ quân sự
của họ”. Ở đây, Luật về BTTH của Thụy Sỹ
quy định theo hướng tất cả thiệt hại do
người thi hành công vụ gây ra thuộc phạm
vi điều chỉnh của Luật (không liệt kê những
trường hợp thuộc phạm vi điều chỉnh của
Luật và đây là Luật chung về BTTH do
người công vụ Liên bang gây ra), và chỉ loại
trừ một số trường hợp người của quân đội
gây thiệt hại liên quan đến nghĩa vụ quân sự.
Vì vậy, nếu thống nhất với hướng đề nghị
của Bộ Tư pháp là chỉ loại trừ lĩnh vực “lập
pháp và lập quy”, thì nên không liệt kê
những lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh,
mà chỉ liệt kê lĩnh vực không thuộc phạm vi
điều chỉnh, như cách mà Thụy Sỹ đã làm.
Nếu quy định theo hướng không loại trừ
cả lĩnh vực “lập pháp và lập quy”, tức lĩnh
vực nào cũng có thể làm phát sinh TNBT
của Nhà nước khi người thi hành công vụ có
hành vi trái pháp luật gây thiệt hại như đề
xuất của Ủy ban Pháp luật Quốc hội, chúng
ta càng không nên liệt kê như Luật và Dự
thảo sửa đổi hiện nay. Trong trường hợp này,
sẽ thuyết phục hơn nhiều khi theo hướng chỉ
quy định “Luật này quy định TNBT của Nhà
nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do
người thi hành công vụ gây ra”, tức bỏ đoạn
“trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng
và THA”.
Trường hợp trong từng lĩnh vực
Luật và Dự thảo sửa đổi quy định theo
hướng có các điều luật cụ thể liệt kê các
trường hợp Nhà nước có TNBT trong hoạt
động quản lý hành chính, các trường hợp
Nhà nước có TNBT trong hoạt động TTHS,
các trường hợp Nhà nước có TNBT trong
hoạt động TTDS và TTHC, các trường hợp
Nhà nước có TNBT trong hoạt động THA
hình sự và THA dân sự. Dự thảo sửa đổi
không có quy định “quét” cho những trường
hợp chưa được các điều luật trên liệt kê, tức
TNBT của Nhà nước chỉ có thể phát sinh
trong những trường hợp đã được liệt kê và
trách nhiệm này không thể phát sinh trong
những trường hợp chưa được liệt kê. Đây là
nội dung cần được bàn luận thêm.
Trên thế giới, rất nhiều nước không có
đạo luật riêng về TNBT của Nhà nước và họ
chỉ cần khai thác những quy định chung về
BTTH ngoài hợp đồng để quy TNBT của
Nhà nước như trường hợp của Pháp12 và của
Bỉ13. Thụy Sỹ có Luật về TNBT của Nhà
nước nhưng Luật này không có điều nào liệt
kê những trường hợp làm phát sinh TNBT
của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là không
cần quy định liệt kê chi tiết các trường hợp
làm phát sinh TNBT thì vẫn có thể quy
được TNBT của Nhà nước. Nhưng việc liệt
kê chi tiết những trường hợp làm phát sinh
TNBT của Nhà nước cũng có ưu điểm là
làm cho việc vận dụng dễ dàng hơn đối với
những trường hợp được liệt kê. Do đó,
chúng tôi vẫn ủng hộ việc có các điều luật
liệt kê những trường hợp, hành vi làm phát
sinh TNBT của Nhà nước. Dự thảo sửa đổi
đang theo hướng mở rộng những trường
hợp làm phát sinh TNBT của Nhà nước
12 Xem Ph. Brun: Responsabilité civile extracontractuelle, Nxb. LexisNexis 2014.
13 Xem P. Van Ommeslaghe, Le droit des obligations, in Collection Henri De Page, t. II, vol. 2, Bruxelles, Bruylant 2013,
phần số 849 và tiếp theo.
38
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 20(324) T10/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
bằng cách bổ sung một số trường hợp chưa
được liệt kê trong Luật và hướng này vẫn
nên được duy trì.
Tuy nhiên, các điều luật liệt kê trên
trong Dự thảo sửa đổi có nhược điểm lớn là
không có điều khoản “quét” cho những
trường hợp, hành vi chưa được liệt kê. Thực
ra, các nhà làm luật không thể dự liệu hết
được những trường hợp xứng đáng được bồi
thường để đưa vào Luật, và khi không có
điều khoản “quét” (điều khoản mở) thì sẽ
dẫn đến cách hiểu là những trường hợp
không được liệt kê sẽ không làm phát sinh
TNBT của Nhà nước (tức quyền được bồi
thường của người dân không được chấp
nhận). Hướng này sẽ dẫn tới hệ quả là
thường xuyên phải sửa đổi luật để cho
phép những trường hợp chưa được liệt kê
nhưng người bị xâm phạm (bởi hành vi trái
pháp luật của người thi hành công vụ)
xứng đáng được bồi thường, vì nếu không
cho người dân được bồi thường xuất phát
từ hành vi trái pháp luật của người thi hành
công vụ thì người dân sẽ tìm cách phản
ứng theo chiều hướng tiêu cực. Do đó, để
hạn chế được những nhược điểm nêu trên,
chúng ta nên đưa vào cuối các điều luật liệt
kê những trường hợp, hành vi làm phát
sinh TNBT của Nhà nước một quy định
“quét” (quy định mở) cho phép người dân
được bồi thường trong những trường hợp
khác. Chẳng hạn, ở cuối mỗi điều luật liệt
kê nêu trên có thể thêm quy định sau: “Các
trường hợp được bồi thường khác do pháp
luật quy định”.
Về khôi phục danh dự, uy tín
Điều 9 của Luật ghi nhận quyền được
yêu cầu khôi phục danh dự. Khi đi vào cụ
thể, Luật chỉ có quy định về khôi phục danh
dự trong lĩnh vực TTHS tại Điều 51. Và
trong lĩnh vực TTHS, không phải trong
trường hợp nào, trách nhiệm khôi phục danh
dự cũng phát sinh. Ở đây, khoản 1 Điều 51
quy định “người bị thiệt hại quy định tại các
khoản 114, 215 và 316 Điều 26 của Luật này
hoặc người đại diện hợp pháp của họ có
quyền yêu cầu khôi phục danh dự”. Điều 1
Dự thảo sửa đổi theo hướng mở rộng trường
hợp Nhà nước phải khôi phục danh dự với
nội dung là “Người bị thiệt hại trong hoạt
động TTHS, công chức giữ chức vụ từ Tổng
cục trưởng và tương đương trở xuống bị xử
lý kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật,
người bị áp dụng các biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc,
cơ sở cai nghiện bắt buộc thì được phục hồi
danh dự”. Quy định này của Dự thảo sửa đổi
kế thừa quy định trong Luật bằng cách bổ
sung phần in nghiêng.
Dự thảo sửa đổi vẫn duy trì nhược điểm
của Luật là liệt kê những trường hợp được
khôi phục danh dự và các trường hợp nêu
trên chỉ tập trung vào cá nhân. Đối với
trường hợp chưa được liệt kê thì phải xử lý
như thế nào? Trong thực tế, đối với lĩnh vực
quản lý hành chính, có Tòa án đã buộc cơ
quan có người có hành vi trái pháp luật như
tiết lộ thông tin gây ảnh hưởng đến một
công ty phải tiến hành xin lỗi để khôi phục
14 Đó là trường hợp “người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS huỷ bỏ quyết
định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật”.
15 Đó là trường hợp “người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung
thân, người đã bị kết án tử hình, người đã THA tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt
động TTHS xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội”.
16 Đó là trường hợp “người bị khởi tố, truy tố, xét xử, THA không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn
mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS xác định người đó không thực hiện hành
vi phạm tội”.
39
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 20(324) T10/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
“uy tín” cho công ty này17. Tuy nhiên, có
trường hợp Tòa án lại từ chối buộc khôi
phục danh dự với lý do chưa được Luật quy
định. Chẳng hạn, trước việc Thanh tra Sở Y
tế tỉnh Quảng Trị ra quyết định xử phạt hành
chính về an toàn thực phẩm, người bị xâm
phạm yêu cầu được xin lỗi nhưng: “về yêu
cầu Sở Y tế công khai xin lỗi, Hội đồng xét
xử xét thấy rằng: Luật TNBT của Nhà nước
không quy định khôi phục danh dự cho
người bị thiệt hại do người thi hành công vụ
gây ra trong hoạt động quản lý hành chính
nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu
cầu này của nguyên đơn”18.
Điều 30 và 31 của Hiến pháp năm 2013
ghi nhận quyền được khôi phục danh dự và
không giới hạn ở lĩnh vực nào, cũng không
giới hạn chủ thể nào (cả cá nhân và tổ chức
đều được bảo vệ), và có những trường hợp
việc khôi phục danh dự cho các chủ thể là
rất cần thiết nhưng lại chưa được Luật và
Dự thảo sửa đổi quy định. Thực tế, khoản 1
Điều 34 BLDS năm 2015 còn khẳng định:
“Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là
bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo
vệ” và quy định này không giới hạn việc
bảo vệ danh dự, uy tín ở bất kỳ lĩnh vực, ở
bất kỳ trường hợp nào. Do đó, để bảo vệ
danh dự của cá nhân và để bảo vệ uy tín của
các tổ chức (tức nên bổ sung quy định về
khôi phục uy tín của tổ chức như khôi phục
danh dự của cá nhân) đồng thời để có sự
thống nhất với BLDS, Dự thảo sửa đổi
không nên theo hướng liệt kê những trường
hợp được khôi phục danh dự (tức trường
hợp cá nhân được khôi phục danh dự),
những trường hợp được khôi phục uy tín
(tức những trường hợp tổ chức được khôi
phục uy tín). Ở đây, Dự thảo sửa đổi chỉ nên
tập trung vào cách thức khôi phục danh dự
cho cá nhân, cách thức khôi phục uy tín cho
tổ chức và trách nhiệm khôi phục này cần
được áp dụng cho mọi trường hợp khi có
việc xâm phạm của người thi hành công vụ
(có hành vi trái pháp luật).
4. Kết luận
Luật và Dự thảo sửa đổi đều có nhược
điểm là dùng phương pháp liệt kê những
trường hợp làm phát sinh TNBT của Nhà
nước (tức quyền được bồi thường của người
bị xâm phạm).
Luật TNBT của Nhà nước nên được đổi
mới về cách điều chỉnh phạm vi của nó để
trở thành Luật chung về TNBT của Nhà
nước đối với hành vi trái pháp luật của
người thi hành công vụ như chính Điều 598
BLDS đã khẳng định: “Nhà nước có trách
nhiệm BTTH do hành vi trái pháp luật của
người thi hành công vụ gây ra theo quy định
của Luật TNBT của Nhà nước”.
Để Luật và Dự thảo phù hợp với Hiến
pháp (không hạn chế quyền được bồi thường
ở bất kỳ lĩnh vực nào, bất kỳ trường hợp
nào), và trước việc BLDS từ chối điều
chỉnh, đồng thời khẳng định việc bồi thường
do người thi hành công vụ gây ra do Luật
TNBT điều chỉnh, cần có sự thay đổi như đã
nêu trên để người dân được bồi thường trong
những trường hợp họ hoàn toàn xứng đáng
được bồi thường
17 Ví dụ, sau khi “xác định hành vi của Đội trưởng Đội Quản lý thị trường 3A thuộc Chi cục Quản lý thị trường TP. Hồ Chí
Minh không đảm bảo bí mật thông tin trong khi thi hành công vụ là trái pháp luật” đối với Công ty Xuân Lan, Tòa án đã
quyết định “buộc Đội Quản lý thị trường 3A thuộc Chi cục Quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh có văn bản chính
thức xin lỗi Công ty Xuân Lan” (Bản án số 1792/2012/HC-ST, ngày 21-12-2012 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh).
18 Bản án số 09/2016/DSPT ngày 22/4/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- pham_vi_cua_luat_trach_nhiem_boi_thuong_cua_nha_nuoc.pdf