Kiến nghị
1. Về tổng thể, trong pháp luật TTTP
Việt Nam, phạm vi TTTP hình sự căn bản
tương thích với các quy định trong các
ĐƯQT mà Việt Nam ký kết hoặc là thành
viên. Tuy nhiên, xem xét các trường hợp cụ
thể cho thấy, phạm vi TTTP hình sự của Việt
Nam là khá hẹp so với các cam kết trong các
ĐƯQT đa phương và song phương. Mặc dù
tại khoản 6 Điều 17 quy định “Các yêu cầu
TTTP khác về hình sự” là quy định “quét”.
Quy định này có ưu điểm và hạn chế. Ưu
điểm của quy định này sẽ giải quyết thỏa
đáng các cam kết của Việt Nam đối với các
quốc gia hữu quan. Việt Nam hoàn toàn có
cơ sở để giải trình các nghĩa vụ hợp tác của
mình. Tuy nhiên, đây cũng là quy định bộc
lộ nhiều hạn chế, đặc biệt trong quá trình
thực thi các nội dung hợp tác quốc tế về
TTTP hình sự.
Trong thực tiễn thực hiện các yêu cầu
TTTP hình sự, Việt Nam đã giải quyết các
nội dung yêu cầu TTTP nằm ngoài nội dung
của Luật TTTP năm 2017. Tuy nhiên, pháp
luật TTTP hình sự Việt Nam chưa có quy
định về sự tham gia của người tiến hành tố
tụng tại nước được yêu cầu, các quy định
hỗ trợ điều tra hoặc cung cấp chứng cứ, liên
kết, phối hợp điều tra; chưa quy định cụ thể
trong việc phong tỏa, kê biên, thu giữ, tịch
thu và xử lý tài sản do phạm tội mà có.”10.
Do vậy có thể dẫn đến hệ quả là, nếu như
đáp ứng các yêu cầu TTTP hình sự của nước
ngoài thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền
của Việt Nam thiếu cơ sở để thực hiện;
ngược lại, nếu không thực hiện các yêu cầu
TTTP hình sự của nước ngoài thì Việt Nam
đang đi ngược lại chính các nghĩa vụ mà
mình cam kết. Do đó, chúng tôi cho rằng,
cần thiết phải sửa đổi quy định hiện hành
về phạm vi TTTP hình sự theo hướng bổ
sung các nội dung khác như: xác minh, giải
quyết tin báo, tố giác tội phạm; liên kết điều
tra, phối hợp điều tra; quy định cho phép sử
dụng các phương tiện kỹ thuật áp dụng công
nghệ cao (thư điện tử, fax.) trong việc gửi,
tiếp nhận hồ sơ ủy thác tư pháp và thực hiện
một số hoạt động TTTP.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 447 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phạm vi tương trợ tư pháp hình sự trong một số điều ước quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẠM VI TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ TRONG MỘT SỐ
ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Tóm tắt:
Trong việc giải quyết các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài, các quốc
gia thường tìm kiếm sự hỗ trợ giúp đỡ từ các quốc gia nước ngoài bằng
hình thức tương trợ tư pháp hình sự thông qua một yêu cầu tương trợ tư
pháp. Yêu cầu tương trợ tư pháp được thực hiện theo cách thức với trình
tự, thủ tục mà các bên có thỏa thuận và phù hợp với quy định của pháp
luật quốc gia. Một trong những nội dung mà các quốc gia quan tâm khi
tiếp nhận yêu cầu tương trợ tư pháp từ quốc gia yêu cầu là có thuộc phạm
vi tương trợ tư pháp hay thuộc trường hợp từ chối tương trợ.
Dương Đình Công*
* ThS. NCS. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội.
Abstract
In the process dealing with the criminal cases involving foreign elements,
it often seeks an assistance from the foreign nations in the manner of
criminal justice assistance through a letter rogatory for mutual judicial
assistance. The letter rogatory for mutual judicial assistance shall be
made under the procedures agreed upon by the parties and in accordance
with the provisions of national law. One of the matters that nations are
interested in when they receive the letter rogatory for mutual judicial
assistance is whether they are in the scope of mutual legal assistance or
out of the assistance.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: tương trợ tư pháp, yêu
cầu tương trợ tư pháp
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 26/11/2018
Biên tập : 09/01/2019
Duyệt bài : 16/01/2019
Article Infomation:
Keywords: Mutual judicial
assistance in criminal matters;
letter rogatory.
Article History:
Received : 26 Nov. 2018
Edited : 09 Jan. 2019
Approved : 16 Jan. 2019
I. Nhận thức chung về phạm vi tương trợ
tư pháp hình sự
1. Phạm vi tương trợ tư pháp (TTTP)
hình sự được hiểu là giới hạn mà trong đó các
chủ thể có thẩm quyền ở các quốc gia khác
nhau thực hiện một hoặc một số hoạt động
nhằm hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong việc giải
quyết vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài.
Quy định trong một số điều ước quốc
tế (ĐƯQT) và pháp luật Việt Nam về phạm
vi TTTP hình sự cho thấy những nội dung
đáng chú ý sau:
Một là, phạm vi TTTP hình sự là giới
hạn của hoạt động hợp tác quốc tế trong giải
quyết vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài và
là cơ sở pháp lý để các quốc gia liên quan thực
hiện hoặc từ chối thực hiện nghĩa vụ TTTP
hình sự. Căn cứ vào phạm vi TTTP được quy
định trong pháp luật quốc gia và các ĐƯQT
mà quốc gia đó là thành viên, bên được yêu
cầu sẽ cân nhắc các khả năng đáp ứng hay từ
chối thực hiện TTTP của bên yêu cầu.
Hai là, phạm vi TTTP hình sự phải
được xác định cụ thể. Phạm vi TTTP hình sự
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 15(391) T8/2019
được xác định theo các phương pháp khác
nhau (hay kỹ thuật xây dựng khác nhau).
Các ĐƯQT đa phương thường sử dụng kỹ
thuật liệt kê các hoạt động TTTP hình sự.
Đồng thời, trong các ĐƯQT này sẽ loại trừ
các hoạt động không được điều chỉnh. Mặc
dù theo cách thức nào thì phạm vi này cũng
phải được xác định cụ thể.
Ba là, phạm vi TTTP hình sự phụ
thuộc vào nhu cầu hợp tác giữa các bên liên
quan, tùy thuộc vào mối quan hệ cụ thể cũng
như sự cần thiết tăng cường hợp tác quốc tế
về TTTP hình sự để mỗi bên xác định phạm
vi tương trợ. Xu hướng chung là phạm vi
TTTP hình sự ngày càng mở rộng.
2. Trong thực tiễn hợp tác giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền
của các quốc gia trong việc giải quyết vụ án
hình sự có thể xảy ra các hoạt động TTTP ở
những mức độ khác nhau1. Thông thường,
phạm vi TTTP hình sự thường quy định các
nội dung sau: hoạt động tống đạt giấy tờ, hồ
sơ, tài liệu liên quan đến TTTP hình sự; thu
thập hoặc cung cấp chứng cứ; yêu cầu truy
cứu trách nhiệm hình sự; hoạt động trao đổi
thông tin hoặc các yêu cầu TTTP khác về
hình sự; yêu cầu về cung cấp lời khai qua
cầu truyền hình, chuyển giao tạm thời bị can
hoặc bị cáo để làm chứng tại phiên tòa hình
sự tại nước yêu cầu.
II. Quy định về phạm vi tương trợ tư
pháp hình sự trong một số điều ước quốc
tế về tương trợ tư pháp hình sự
1. Hiệp ước TTTP hình sự của Liên hiệp quốc
Hiệp ước mẫu về hỗ trợ lẫn nhau trong
các vấn đề hình sự A/RES/45/117 (thông qua
Nghị quyết của Đại hội đồng 45/117, sau đó
được sửa đổi bởi Nghị quyết Đại hội đồng
53/112) bao gồm 22 điều và 01 phụ lục quy
định những nội dung căn bản của TTTP
hình sự giữa các quốc gia.
Điều 1 Hiệp ước xác định rõ phạm vi
TTTP hình sự: Các Bên, phù hợp với Hiệp
1 Xem, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật TTTP, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.
2 Xem Hiệp định TTTP hình sự (mẫu) của Liên hiệp quốc theo Nghị quyết A/RES/45/117 tại website: www.un.org.
3 Xem, Luật mẫu về TTTP các vấn đề hình sự của UNODC tại website: www.un.org tham khảo ngày 02/11/2018.
ước này, sẽ dành cho nhau các biện pháp
TTTP rộng rãi nhất có thể trong các cuộc
điều tra hoặc tố tụng tòa án đối với hành vi
phạm tội mà hình phạt, tại thời điểm yêu
cầu hỗ trợ, thuộc thẩm quyền của cơ quan tư
pháp của nước yêu cầu.
TTTP có thể được thực hiện phù hợp
với Hiệp ước này có thể bao gồm 07 nội
dung2. Hiệp ước cũng quy định các trường
hợp không áp dụng đối với việc bắt giữ hoặc
giam giữ bất kỳ người nào có liên quan nhằm
mục đích dẫn độ (i); Việc thi hành tại Nước
yêu cầu các bản án hình sự được áp dụng
trong Nhà nước yêu cầu trừ phạm vi được
pháp luật nước yêu cầu cho phép và Điều 18
của Hiệp ước (ii); Chuyển giao người đang
chấp hành án phạt tù để thụ án (iii) và việc
Chuyển giao các thủ tục tố tụng hình sự (iv).
Năm 2007, Cơ quan Phòng chống
tội phạm và ma túy của Liên hiệp quốc
(UNODC) đã xây dựng Luật mẫu về TTTP
các vấn đề hình sự bao gồm 4 Chương, 35
Điều. Điều 7 của luật này định ra giới hạn
của TTTP hình sự mang tính nguyên tắc:
TTTP theo Luật này có thể được cung cấp
cho bất kỳ quốc gia nước ngoài nào cho dù
có thỏa thuận hay không có thỏa thuận; Luật
này quy định việc hỗ trợ cho bất kỳ quốc gia
nước ngoài nào, trừ khi có thỏa thuận khác;
Các bên có thể thỏa thuận cung cấp một
phạm vi TTTP được đề cập tới tại khoản 2
Điều 7 và các điều khoản khác của Luật này
cũng sẽ được áp dụng cho một yêu cầu hỗ
trợ từ Tòa án hình sự quốc tế hoặc một Tòa
án quốc tế được liệt kê trong Luật này3.
Như vậy, Hiệp ước TTTP hình sự của
Liên hiệp quốc chính là cơ sở quan trọng
để từ đó các quốc gia thành viên có thể vận
dụng trong việc xây dựng luật pháp và thể
chế trong lĩnh vực hỗ trợ lẫn nhau các vấn
đề hình sự. Phạm vi của Hiệp ước căn bản
phản ánh nhu cầu, thực tiễn hoạt động TTTP
trong tình hình hiện nay giữa các quốc gia.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 15(391) T8/2019
2. TTTP hình sự của Liên minh Châu Âu4
Quy định về TTTP hình sự các nước
Châu Âu được quy định chủ yếu trong Công
ước của Châu Âu về hỗ trợ lẫn nhau trong
các vấn đề hình sự được ký tại Strasbourg
ngày 20/4/1959; Nghị định thư bổ sung ngày
17/3/1978 cho Công ước châu Âu năm 1959;
Các quy định về hỗ trợ lẫn nhau trong các
vấn đề hình sự của Công ước ngày 19/6/1990;
Công ước về hỗ trợ lẫn nhau trong các vấn
đề hình sự giữa các quốc gia thành viên của
Liên minh châu Âu năm 2000.
Công ước đầu tiên của Châu Âu về hỗ
trợ lẫn nhau trong các vấn đề hình sự năm
1959 bao gồm lời nói đầu và 30 điều áp dụng
cho các thành viên của Cộng đồng Châu Âu.
Công ước không có điều khoản cụ thể quy
định về phạm vi TTTP hình sự mà phạm vi
này được xác định thông qua các điều khoản
liên quan đến thủ tục thực hiện TTTP hình sự.
Điều 1 Công ước quy định về nghĩa
vụ của các quốc gia thành viên: Các Bên ký
kết cam kết hỗ trợ lẫn nhau, phù hợp với các
quy định của Công ước này, biện pháp hỗ trợ
rộng nhất trong các thủ tục tố tụng đối với
hành vi phạm tội tại thời điểm yêu cầu hỗ
trợ, thuộc thẩm thẩm quyền của cơ quan tư
pháp của Bên yêu cầu.
Công ước này không áp dụng cho các
vụ bắt giữ, thi hành bản án hoặc vi phạm
theo luật quân sự mà không phải là tội phạm
theo luật hình sự thông thường.
Các quốc gia thành viên có thể từ chối
TTTP nếu yêu cầu liên quan đến hành vi
phạm tội mà Bên được yêu cầu xem xét liên
quan đến tội phạm chính trị hoặc tội phạm
tài chính5.
Bên được yêu cầu cũng có thể từ chối
TTTP khi cho rằng, việc thực hiện yêu cầu
có thể ảnh hưởng đến chủ quyền, an ninh,
trật tự công cộng hoặc các lợi ích thiết yếu
4 Xem, Official Journal of the European Communities, Explanatory Report on the Convention of 29 May 2000 on Mutual
Assistance in Criminal Matters between theMember States of the European Union, (2000/C 379/02) tại website: https://
eur-lex.europa.eu (tham khảo ngày 02/11/2018)
5 Thời điểm ký kết Hiệp định này, TTTP liên quan đến vấn đề tài chính chưa được đề cập cho đến Nghị định thư bổ sung
năm 1978.
khác của quốc gia.
Công ước về TTTP hình sự giữa các
thành viên của Liên minh Châu Âu năm
2000 được tất cả các quốc gia thành viên ký
vào ngày 29/5/2000 là nỗ lực nhằm cải thiện
các hình thức TTTP đáp ứng yêu cầu phát
sinh trong lĩnh vực hợp tác tư pháp. Mục
đích của Công ước này là khuyến khích và
tạo điều kiện hỗ trợ lẫn nhau giữa các cơ
quan tư pháp, cảnh sát và hải quan về các
vấn đề hình sự. Công ước là sự bổ sung cần
thiết cho Công ước Hỗ trợ lẫn nhau trong
các vấn đề hình sự năm 1959 và Nghị định
thư 1978.
Trong việc xây dựng Công ước mới
này, Hội đồng Châu Âu đã không giới hạn
một công cụ riêng biệt. Do đó, mục tiêu chính
của Công ước là cải thiện hợp tác tư pháp
bằng cách phát triển và hiện đại hóa các quy
định hiện hành. Sự điều chỉnh trong Công
ước này chủ yếu bằng cách mở rộng phạm
vi các trường hợp có thể yêu cầu TTTP hình
sự thông qua một loạt các biện pháp nhanh,
linh hoạt và hiệu quả hơn.
Điều 3 Công ước quy định về các thủ
tục liên quan đến việc hỗ trợ lẫn nhau vượt
ra ngoài phạm vi của Công ước 1959. Yêu
cầu TTTP hình sự theo Điều 3 không chỉ
cho các cuộc điều tra về các vấn đề hình sự
mà còn cho các cuộc điều tra về hành vi chịu
sự xử phạt hành chính nhất định. Đồng thời,
trong Công ước này có những quy định đáng
chú ý như Điều 9 quy định về trường hợp
Tạm thời chuyển người bị tạm giữ vì mục
đích điều tra; Điều 10 Xét xử thông qua cầu
truyền hình. Điều 11 quy định về Phiên điều
trần của các nhân chứng và các chuyên gia
qua điện thoại; Điều 13. Đội điều tra chung.
Điều 14 về Điều tra bí mật; Các Điều 17 đến
Điều 22 quy định các vấn đề về ngăn chặn
thông tin liên lạc
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 15(391) T8/2019
Có thể thấy EU là tổ chức quốc tế khu
vực đạt được sự thỏa thuận quan trọng trong
lĩnh vực TTTP hình sự. Phạm vi TTTP hình
sự càng ngày càng được mở rộng phù hợp với
thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm
giữa các quốc gia thành viên. EU cũng có
những quy định mang tính tiên phong trong
việc hỗ trợ lẫn nhau giải quyết các vấn đề
hình sự như việc lấy lời khai qua cầu truyền
hình; điều tra bí mật; điều tra chung; ngăn
chặn thông tin liên lạc
3. Hiệp định TTTP hình sự của ASEAN
Sau EU, ASEAN là tổ chức quốc tế
khu vực đã xây dựng được cơ chế hợp tác
trong đấu tranh phòng chống tội phạm thông
qua các thỏa thuận trong Hiệp định TTTP
hình sự của ASEAN năm 2004.
Khoản 1 Điều 1 Hiệp định quy định
nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong
TTTP hình sự theo nguyên tắc: Các Quốc
gia thành viên, theo quy định của Hiệp định
này và phù hợp với pháp luật quốc gia của
mình, phải dành cho nhau các biện pháp
TTTP rộng rãi nhất có thể được trong việc
điều tra, truy tố và thủ tục tố tụng tiếp theo.
Tại khoản 2, Hiệp định xác định cụ
thể phạm vi TTTP hình sự giữa các quốc gia
thành viên bao gồm 10 nội dung cụ thể và
một nội dung mang tính kỹ thuật6.
Một điểm lưu ý của Hiệp định là chỉ
áp dụng đối với việc TTTP giữa các Quốc
gia thành viên. Các quy định của Hiệp định
này không tạo ra bất cứ quyền nào cho một
cá nhân trong việc thu thập, ngăn cản hoặc
cản trở việc đưa ra hoặc loại bỏ bất kỳ chứng
cứ nào hoặc cản trở việc thực hiện các yêu
cầu tương trợ.
Công ước quy định 11 trường hợp
quốc gia được yêu cầu có quyền từ chối
TTTP và 03 trường hợp có thể từ chối nếu
xét thấy cần thiết. Hiệp định cũng mở rộng
6 Xem, Hiệp định TTTP hình sự của ASEAN năm 2004.
7 Đỗ Mạnh Hồng, Các vấn đề pháp lý cơ bản trong lĩnh vực TTTP về hình sự của ASEAN, Tạp chí Luật học số 09/2008,
tr. 62-64.
phạm vi thu thập chứng cứ bằng việc cho
phép sử dụng kết nối truyền hình trực tiếp
hoặc các công cụ giao tiếp thích hợp khác
nhằm thực hiện quá trình thu thập chứng cứ,
lời khai7...
Nghiên cứu phạm vi TTTP hình sự
trên đây có 03 điểm cần lưu ý:
Một là, các hiệp định TTTP hình sự
đều giới hạn phạm vi TTTP hình sự giữa các
quốc gia thành viên một cách cụ thể. Trong
đó phạm vi TTTP hình sự của các nước
ASEAN được xác định rất rộng. Không
có các tài liệu để lý giải cho quy định một
phạm vi TTTP hình sự rất rộng này. Tuy
nhiên, xét về bối cảnh và thời gian ra đời
có thể thấy, Hiệp định TTTP hình sự của
các nước ASEAN ra đời muộn hơn cả. Đồng
thời, trong nội dung về phạm vi TTTP hình
sự của các nước ASEAN dường như có sự
tích hợp phạm vi của các Công ước chuyên
biệt phổ cập của Liên hiệp quốc như Công
ước Phòng chống tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia, Công ước Chống tham nhũng.
Hai là, các Hiệp định đều quy định
rằng Hiệp định không áp dụng đối với trường
hợp cho thi hành bản án hình sự; dẫn độ;
chuyển giao người bị kết án và chuyển giao
vụ án hình sự. Như vậy, điểm thống nhất này
trong các hiệp định trên đây cho thấy nhận
thức chung của các quốc gia là khá tương
đồng. Quy định này cho thấy tính chất khác
nhau của TTTP hình sự với dẫn độ, chuyển
giao người bị kết án. Về việc cho thi hành
bản án hình sự tại quốc gia khác cũng như
việc chuyển giao vụ án hình sự liên quan
nhiều hơn đến tính chất chủ quyền quốc gia.
Tuy nhiên, tính chất chủ quyền không phải
là tuyệt đối. Hiệp định cũng thể hiện rằng
trong trường hợp pháp luật quốc gia có quy
định như vậy thì việc cho thi hành bản án
hình sự vẫn có thể được thực hiện.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 15(391) T8/2019
Ba là, các Hiệp định không chỉ giới
hạn phạm vi TTTP cụ thể mà luôn có điều
khoản mang tính kỹ thuật - quy định “quét”.
Đây là một quy định có độ mở khác nhau.
Các thành viên của Hiệp định có thể cung
cấp các hình thức hỗ trợ khác nếu như điều
đó không trái với mục đích của Hiệp định
hoặc pháp luật quốc gia cho phép thực hiện
điều đó. Trong dài hạn, các quy định mở này
vẫn sẽ được duy trì nhằm đáp ứng sự linh
hoạt trong thực tiễn quan hệ giữa các quốc
gia thành viên.
III. Phạm vi tương trợ tư pháp
hình sự trong các điều ước quốc tế song
phương và pháp luật Việt Nam
1. Hiện nay, Việt Nam đã ký kết hơn
20 Hiệp định TTTP với các quốc gia và đang
tiếp tục đàm phán ký kết các Hiệp định khác8.
Phần này chỉ trình bày phạm vi TTTP hình
sự trong một số hiệp định nổi bật, cụ thể:
- Hiệp định TTTP và pháp lý về dân
sự và hình sự giữa Cộng hòa XHCN Việt
Nam và Cộng hòa XHCN Tiệp Khắc ký ngày
10/12/1982: Hiện nay, hai nước Cộng hoà Séc
và Xlô-va-ki-a kế thừa Hiệp định này. Hiệp
định quy định phạm vi TTTP là tất cả các
hành vi tố tụng, trong đó tập trung vào việc
lấy lời khai của người làm nhân chứng, của
đương sự, của bị can, hoặc của các người
khác, trong việc tiến hành giám định, trong
việc lập chuyển và tống đạt giấy tờ.
- Hiệp định TTTP về các vấn đề dân
sự, gia đình và hình sự giữa Cộng hòa XHCN
Việt Nam và Cộng hoà Hung-ga-ri, ký ngày
18/01/1985: Tại Điều 4. Phạm vi TTTP bao
gồm việc thực hiện các hành vi tố tụng riêng
biệt như việc khám nhà, tạm giữ, tịch biên
tài sản, việc gửi các chứng cứ, lấy lời khai
của những người làm chứng, người giám
định và những người khác, xét hỏi bị can,
xem xét tại chỗ, yêu cầu tống đạt, gửi các tài
8 Xem, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Vụ 13, Chuyên đề “Thực trạng và giải pháp hoạt động TTTP về hình sự; Một số
kiến nghị, sửa đổi, bổ sung Luật TTTP năm 2007”, (2017), Hà Nội, tr. 10. Việt Nam cũng tham gia khoảng 15 ĐƯQT
đa phương có quy định về TTTP hình sự (trong phần này không nghiên cứu các ĐƯQT đa phương này).
liệu cũng như lập và gửi các giấy tờ. Điều 17
quy định về các trường hợp từ chối như liên
quan đến chủ quyền, an ninh hoặc trái với
nguyên tắc pháp luật quốc gia. Trong hiệp
định cũng quy định nhiều vấn đề khác như
chuyển giao vụ án hình sự, chuyển giao đồ
vật Nhìn chung phạm vi TTTP trong hiệp
định này khá rộng xét trong bối cảnh ký kết
lúc bấy giờ.
- Hiệp định TTTP hình sự giữa Cộng
hòa XHCN Việt Nam và Ấn Độ, ký ngày
8/10/2007: Điều 1 của Hiệp định quy định
rõ, Phù hợp với các quy định của Hiệp định
này, các Bên sẽ dành cho nhau sự TTTP tối
đa trong các vấn đề về hình sự. TTTP hình
sự bao gồm các TTTP về điều tra, truy tố
hoặc các thủ tục tố tụng khác trong các vấn
đề về hình sự do Bên được yêu cầu cung cấp
cho Bên yêu cầu, không phụ thuộc vào việc
yêu cầu TTTP đó do Tòa án hay cơ quan có
thẩm quyền khác yêu cầu hoặc đề nghị.
Đặc biệt Hiệp định cũng quy định
yêu cầu TTTP sẽ được thực hiện không phụ
thuộc vào việc hành vi là đối tượng của điều
tra, truy tố, xét xử của Bên yêu cầu có cấu
thành tội phạm theo luật của Bên được yêu
cầu hay không.
Khoản 4 của Điều này quy định 09 nội
dung TTTP hình sự cụ thể và Các bên có thể
dành cho nhau các TTTP khác phù hợp với
mục đích của Hiệp định này và không trái
với pháp luật của Bên được yêu cầu. Khoản
5 giới hạn TTTP hình sự theo Hiệp định
không bao gồm: Dẫn độ, bắt hoặc giam giữ
người để dẫn độ; Thực hiện bản án hình sự
của Bên yêu cầu ở Bên được yêu cầu, trừ
những trường hợp pháp luật của Bên được
yêu cầu và Hiệp định này cho phép; Chuyển
giao người đang bị giam giữ để thi hành
hình phạt; Chuyển giao việc xét xử trong các
vấn đề về hình sự.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 15(391) T8/2019
2. Phạm vi TTTP hình sự trong Luật Tương
trợ tư pháp năm 2007
Phạm vi TTTP hình sự theo Luật này
được quy định tại Điều 17, bao gồm: Tống
đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến
TTTP về hình sự (i); Triệu tập người làm
chứng, người giám định (ii); Thu thập, cung
cấp chứng cứ (iii); Truy cứu trách nhiệm
hình sự (iv); Trao đổi thông tin (v) và Các
yêu cầu TTTP khác về hình sự (vi).
Như vậy, theo quy định của Luật
TTTP, phạm vi TTTP hình sự hẹp hơn so
với phạm vi TTTP được đề cập trong Hiệp
ước TTTP pháp lý hình sự (mẫu) của Liên
hiệp quốc.
3. Phạm vi TTTP hình sự trong Bộ luật Tố
tụng hình sự 2015
Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm
2015 có nhiều quy định mới có liên quan
đến TTTP hình sự, cụ thể: Xác định phạm
vi hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự gồm
TTTP hình sự, dẫn độ, tiếp nhận, chuyển
giao người đang chấp hành án phạt tù và
các hoạt động hợp tác quốc tế khác được
quy định trong Bộ luật TTHS, pháp luật về
TTTP và các điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên (Điều 491). Xác định giá trị
pháp lý của tài liệu, đồ vật thu thập được qua
hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự (Điều
494). Quy định về việc tiến hành tố tụng của
người có thẩm quyền của Việt Nam ở nước
ngoài và người có thẩm quyền của nước
ngoài ở Việt Nam được thực hiện theo điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc
theo nguyên tắc có đi có lại (Điều 495). Quy
định về việc cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam có thể đề nghị cơ quan có thẩm
quyền của nước ngoài cho người làm chứng,
người giám định, người đang chấp hành án
phạt tù tại nước được đề nghị có mặt ở Việt
Nam để phục vụ việc giải quyết vụ án hình
sự hoặc có thể cho phép người làm chứng,
người giám định, người đang chấp hành án
phạt tù tại Việt Nam có mặt ở nước ngoài
9 Xem, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Vụ 13, Chuyên đề, tlđd, tr. 5-7.
để phục vụ việc giải quyết vụ án hình sự
(Điều 496). Quy định việc cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam hợp tác với cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài trong việc truy
tìm, tạm giữ, kê biên, phong tỏa, tịch thu,
xử lý tài sản do phạm tội mà có để phục vụ
yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án hình sự (Điều 507). Quy định biện pháp
phong tỏa tài khoản có thể được áp dụng nếu
có căn cứ cho rằng số tiền trong tài khoản đó
liên quan đến hành vi phạm tội của người bị
buộc tội (Điều 129). Quy định việc cơ quan
có thẩm quyền của Việt Nam có thể hợp tác
với cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài
trong việc phối hợp điều tra hoặc áp dụng
các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (Điều
508). Quy định việc đợi kết quả thực hiện
yêu cầu TTTP của nước ngoài là một trong
những căn cứ để tạm đình chỉ việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố; tạm đình chỉ điều tra trong giai đoạn điều
tra; tạm đình chỉ vụ án trong giai đoạn truy
tố; tạm đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử (Điều 148, Điều 229, Điều 247,
Điều 281, Điều 443)9.
Ngoài ra trong các Luật Phòng, chống
rửa tiền; Luật Phòng, chống tham nhũng;
Luật Phòng, chống khủng bố cũng có các
quy định cụ thể cho phép xác định phạm vi
TTTP hình sự. Những quy định trên đây là
cơ sở pháp lý quan trọng có thể bổ sung cho
những khuyết thiếu của Luật TTTP 2007.
IV. Kiến nghị
1. Về tổng thể, trong pháp luật TTTP
Việt Nam, phạm vi TTTP hình sự căn bản
tương thích với các quy định trong các
ĐƯQT mà Việt Nam ký kết hoặc là thành
viên. Tuy nhiên, xem xét các trường hợp cụ
thể cho thấy, phạm vi TTTP hình sự của Việt
Nam là khá hẹp so với các cam kết trong các
ĐƯQT đa phương và song phương. Mặc dù
tại khoản 6 Điều 17 quy định “Các yêu cầu
TTTP khác về hình sự” là quy định “quét”.
Quy định này có ưu điểm và hạn chế. Ưu
điểm của quy định này sẽ giải quyết thỏa
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 15(391) T8/2019
đáng các cam kết của Việt Nam đối với các
quốc gia hữu quan. Việt Nam hoàn toàn có
cơ sở để giải trình các nghĩa vụ hợp tác của
mình. Tuy nhiên, đây cũng là quy định bộc
lộ nhiều hạn chế, đặc biệt trong quá trình
thực thi các nội dung hợp tác quốc tế về
TTTP hình sự.
Trong thực tiễn thực hiện các yêu cầu
TTTP hình sự, Việt Nam đã giải quyết các
nội dung yêu cầu TTTP nằm ngoài nội dung
của Luật TTTP năm 2017. Tuy nhiên, pháp
luật TTTP hình sự Việt Nam chưa có quy
định về sự tham gia của người tiến hành tố
tụng tại nước được yêu cầu, các quy định
hỗ trợ điều tra hoặc cung cấp chứng cứ, liên
kết, phối hợp điều tra; chưa quy định cụ thể
trong việc phong tỏa, kê biên, thu giữ, tịch
thu và xử lý tài sản do phạm tội mà có...”10.
Do vậy có thể dẫn đến hệ quả là, nếu như
đáp ứng các yêu cầu TTTP hình sự của nước
ngoài thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền
của Việt Nam thiếu cơ sở để thực hiện;
ngược lại, nếu không thực hiện các yêu cầu
TTTP hình sự của nước ngoài thì Việt Nam
đang đi ngược lại chính các nghĩa vụ mà
mình cam kết. Do đó, chúng tôi cho rằng,
cần thiết phải sửa đổi quy định hiện hành
về phạm vi TTTP hình sự theo hướng bổ
sung các nội dung khác như: xác minh, giải
10 Xem, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Vụ 13, Chuyên đề, tlđd, tr. 34.
11 Như trên.
quyết tin báo, tố giác tội phạm; liên kết điều
tra, phối hợp điều tra; quy định cho phép sử
dụng các phương tiện kỹ thuật áp dụng công
nghệ cao (thư điện tử, fax...) trong việc gửi,
tiếp nhận hồ sơ ủy thác tư pháp và thực hiện
một số hoạt động TTTP...11.
2. Bên cạnh phạm vi TTTP hình sự
được quy định cụ thể trong các ĐƯQT và
pháp luật quốc nội, các quốc gia đều có
quy định các trường hợp từ chối thực hiện
TTTP. Xét về mặt logic, các quy định từ chối
này cho phép các quốc gia xem xét yêu cầu
TTTP hình sự nằm ngoài các quy định cụ
thể trong phần phạm vi TTTP hình sự.
Điều 21 Luật TTTP 2007 quy định 05
trường hợp Việt Nam sẽ từ chối thực hiện
ủy thác tư pháp về hình sự của nước ngoài.
Tuy nhiên, cách thể hiện quy định này lại
làm cho các trường hợp TTTP được quy
định tại khoản 6 Điều 17 bị giới hạn so với
các cam kết của Việt Nam. Vì vậy, chúng
tôi cho rằng, để vừa nâng cao hiệu quả hợp
tác đấu tranh phòng chống tội phạm vừa hài
hòa được lợi ích quốc gia, đồng thời phù hợp
với các nghĩa vụ mà Việt Nam đã cam kết,
cần phải sửa đổi quy định của Điều 21 theo
hướng loại bỏ khoản 2, 3 của Điều này
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công ước của Châu Âu về hỗ trợ lẫn nhau trong các vấn đề hình sự năm 1959, năm 2000 và Nghị định
thư bổ sung năm 1978.
2. Công ước của Châu Âu về hỗ trợ lẫn nhau trong các vấn đề hình sự năm năm 2000.
3. Luật Hỗ trợ điều tra quốc tế của Nhật Bản.
4. Hiệp đinh TTTP hình sự (mẫu) của Liên hiệp quốc năm 2000.
5. Hiệp định TTTP hình sự của ASEAN năm 2004.
6. Hiệp định TTTP và pháp lý về dân sự và hình sự giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và Cộng hòa
XHCN Tiệp Khắc năm 1982.
7. Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và Cộng
hoà Hung-ga-ri năm 1985.
8. Hiệp định TTTP hình sự giữa Cộng hòa XHCN Việt Nam và Ấn Độ năm 2007.
9. Đỗ Mạnh Hồng, Các vấn đề pháp lý cơ bản trong lĩnh vực TTTP về hình sự của ASEAN, Tạp chí Luật
học số 09/2008.
(Xem tiếp trang 64)
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 15(391) T8/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- pham_vi_tuong_tro_tu_phap_hinh_su_trong_mot_so_dieu_uoc_quoc.pdf