Phân biệt hàng giả trong các tội sản xuất, buôn bán hàng giả với hàng hóa giả mạo về nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý trong tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp

Từ thực trạng này có thể thấy, các nhà áp dụng pháp luật nên tránh quan điểm cho rằng chỉ cần căn cứ vào giá thị trường các sản phẩm được có dấu hiệu giả mạo nhãn hiệu rẻ hơn rất nhiều so với hàng thật để đồng nhất tất cả những trường hợp đó chất lượng sản phẩm có sự giả mạo. Đặc biệt trong những trường hợp người sản xuất đầu tư rất nhiều vào chất lượng sản phẩm nhưng vì thương hiệu của doanh nghiệp không được đánh giá cao trên thị trường nên đã sử dụng nhãn hiệu của các thương hiệu nổi tiếng, giá thành cao cho sản phẩm của mình và bán ra thị trường với giá thành rẻ hơn nhiều để thu lời.

pdf10 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 482 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân biệt hàng giả trong các tội sản xuất, buôn bán hàng giả với hàng hóa giả mạo về nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý trong tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
63Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion PHÂN BIỆT HÀNG GIẢ TRONG CÁC TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ VỚI HÀNG HÓA GIẢ MẠO VỀ NHÃN HIỆU HOẶC CHỈ DẪN ĐỊA LÝ TRONG TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP DISTINGUISH COUNTERFEIT GOODS IN MANUFACTURING AND TRADING GOODS AND FAKE GOODS ON BRANDS OR GEOGRAPHIC INDICATIONS IN CRIMES OF INDUSTRIAL PROPERTY RIGHTS Mai Thị Thanh Nhung* Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 4/11/2019 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/5/2020 Ngày bài báo được duyệt đăng: 28/5/2020 Tóm tắt: Bài viết tập trung làm rõ về mặt pháp lý khái niệm “hàng giả” trong các tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192, 193, 194, 195 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017) và khái niệm “hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý” trong tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017). Đồng thời, bài viết cũng chỉ ra một số vấn đề liên quan đến phân định các đối tượng này trong thực tiễn hoạt động định tội danh của các cơ quan xét xử, từ đó có định hướng thống nhất nhận thức cũng như áp dụng các quy định của pháp luật đối với các tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Từ khóa: hàng giả, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, quyền sở hữu công nghiệp, Bộ luật Hình sự năm 2015. Abstract: The article focuses on the legal clarifi cation of the concept of “counterfeit goods” in the crimes of manufacturing and trading in fake goods (Articles 192, 193, 194, 195 of Penal Code 2015, amended in 2017) and the concept of “goods with counterfeit trademarks or geographical indications” in the infringement of industrial property rights (Article 226 of the Criminal Code 2015, amended in 2017). At the same time, the article also pointed out some issues related to the delimitation of these objects in practice of identifying criminals of the judicial authorities, since then, there has been an orientation to unify the awareness as well as apply the provisions of law to the crimes of manufacturing, trading in fake goods and crimes of infringing upon industrial property rights. Keywords: counterfeit goods, trademarks, geographical indications, industrial property rights, Penal Code 2015. * Khoa Pháp luật Hình sự - Trường Đại học Luật Hà Nội Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 67 (5/2020) 63-72 64 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Đặt vấn đề Nghiên cứu các tội phạm nói chung, các tội phạm thuộc chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015) nói riêng cho thấy có những khái niệm pháp lý được sử dụng nhưng nội hàm chưa rõ. Trong đó tồn tại những khái niệm có nội hàm bao trùm hoặc có khoảng giao rất lớn với khái niệm khác, chẳng hạn: Các tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đều có đối tượng hàng hóa vi phạm là hàng có dấu hiệu giả mạo nhất định. Cụ thể hơn, đối tượng hàng hóa vi phạm trong tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là “hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý” còn đối tượng hàng hóa vi phạm trong các tội sản xuất, buôn bán hàng giả là “hàng giả”. Việc phân định đúng các đối tượng này là đòi hỏi cần thiết để định tội danh thống nhất và chính xác. Từ nhận thức đó, bài viết tập trung làm rõ hai vấn đề: thứ nhất, trình bày các quy định pháp luật giải thích các khái niệm “hàng giả” và “hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý” và đưa ra quan điểm chung về lý thuyết phân biệt các đối tượng này; thứ hai, phân tích, chỉ ra một số vấn đề cần thống nhất từ thực tiễn định tội danh các tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến việc phân biệt hai đối tượng trên. † Thông tư này ban hành vào thời điểm BLHS năm 1999 đang có hiệu lực. BLHS năm 1999 quy định các tội sản xuất, buôn bán hàng giả bao gồm: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158). Các tội sản xuất, buôn bán hàng giả trong BLHS năm 1999 cũng có đối tượng hàng hóa vi phạm là “hàng giả”. Kế thừa quy định BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 tiếp tục quy định các tội sản xuất, buôn bán hàng giả với một số điểm sửa đổi, bổ sung tại các Điều 192, 193, 194, 195. 1. Định nghĩa “hàng giả” và “hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý” trong một các quy định của pháp luật Việt Nam 1.1. Định nghĩa “hàng giả” Các tội phạm về hàng giả được quy định tại Điều 192,193,194,195 BLHS năm 2015 có đối tượng hàng hóa vi phạm là “hàng giả” (có thể là hàng giả nói chung; hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm; hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú ý, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi). BLHS năm 2015 chỉ dừng lại ở sự phân biệt loại hàng giả khác nhau trong các tội sản xuất, buôn bán hàng giả nhưng không định nghĩa thế nào là hàng giả. Định nghĩa hàng giả chỉ xuất hiện trong một số văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật, cụ thể: - Theo Thông tư liên tịch số 10/2000/ TTLT-BMT-BTC-BCA-BKHCNMT ngày 27/4/2000 của Bộ Thương mại - Bộ Tài chính - Bộ Công an - Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27/10/1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả, hàng giả† có thể chia thành: + Hàng giả về nội dung: là hàng giả về chất lượng, giá trị sử dụng của hàng hóa; 65Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion + Hàng giả về hình thức: là hàng giả về kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi, xuất xứ hàng hóa; + Hàng giả về cả nội dung và hình thức. - Theo khoản 8 Điều 3 Văn bản hợp nhất số 14/VBHN-BCT ngày 15/9/2017 của Bộ Công thương về Nghị định quy định xử phạt hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng‡, “hàng giả” được liệt kê và có thể xếp thành 4 nhóm: một là, hàng không có giá trị sử dụng, công dụng§; hai là, hàng giả mạo nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa¶; ba là, hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung 2009 (gọi tắt ‡ Văn bản hợp nhất Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phù quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP. § Bao gồm: + Hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký; + Hàng hóa có ít nhất một trong các chỉ tiêu chất lượng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản tạo nên giá trị sử dụng, công dụng của hàng hóa chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa; + Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người, vật nuôi không có dược chất; có dược chất nhưng không đúng với hàm lượng đã đăng ký; không đủ loại dược chất đã đăng ký; có dược chất khác với dược chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa; + Thuốc bảo vệ thực vật không có hoạt chất; hàm lượng hoạt chất chỉ đạt từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng; không đủ loại hoạt chất đã đăng ký; có hoạt chất khác với hoạt chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa. ¶ Bao gồm: + Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa giả mạo tên thương nhân, địa chỉ của thương nhân khác; giả mạo tên thương mại hoặc tên thương phẩm hàng hóa; giả mạo mã số đăng ký lưu hành, mã vạch hoặc giả mạo bao bì hàng hóa của thương nhân khác; + Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa ghi chỉ dẫn giả mạo về nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa. ** Bao gồm: đề can, nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa, các loại tem chất lượng, phiếu bảo hành, niêm màng co hàng hóa hoặc vật phẩm khác của cá nhân, tổ chức kinh doanh có chỉ dẫn giả mạo tên và địa chỉ của thương nhân khác; giả mạo tên thương mại, tên thương phẩm hàng hóa, mã số đăng ký lưu hành, mã vạch hoặc bao bì hàng hóa của thương nhân khác (khoản 9 Điều 3) là Luật SHTT năm 2005); và bốn là, các loại tem, nhãn, bao bì giả.** Trong đó, khái niệm “hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ” được cụ thể hóa tại Điều 213 Luật SHTT năm 2005 bao gồm hàng hóa giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý (sau đây gọi tắt là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu) quy định tại khoản 2 Điều này và hàng hóa sao chép lậu quy định tại khoản 3 Điều này, bao gồm: + Hàng hóa giả mạo nhãn hiệu là hàng hóa, bao bì của hàng hóa có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý. 66 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion + Hàng hóa sao chép lậu là bản sao được sản xuất mà không được phép của chủ thể quyền tác giả hoặc quyền liên quan. Có thể thấy rằng, trong số các loại hàng giả được liệt kê tại Văn bản hợp nhất số 14/VBHN-BCT, loại hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ (nhóm thứ ba) có khoảng giao lớn loại hàng giả nhãn hàng hóa, bao bì (nhóm thứ hai). Hai nhóm này đều dùng để chỉ loại hàng hóa giả về hình thức nếu so sánh với giải thích tại Thông tư liên tịch số 10/2000 ngày 27/4/2000. 1.2. Định nghĩa “hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý” Hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý là đối tượng hàng hóa vi phạm trong tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp††. Các văn bản hướng dẫn áp dụng quy định của BLHS năm 2015 không giải thích cụ thể hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý. Tuy nhiên, theo tiểu mục 2.1 mục 2 thông tư liên tịch 01/2008/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 29/02/2008 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư pháp về hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý trong tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp - Điều 171 BLHS năm 1999 “là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu quy định tại khoản 2 Điều 213 của Luật Sở hữu trí tuệ ”. Đối chiếu với văn bản pháp luật chuyên ngành là Luật SHTT năm 2005, hàng hóa giả mạo về nhãn hiệu và chỉ dẫn †† Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp được quy định tại Điều 226 BLHS năm 2015, theo đó, đây là trường hợp “cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam mà đối tượng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý ” địa lý được hiểu là “hàng hóa giả mạo nhãn hiệu là hàng hóa, bao bì của hàng hóa có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý”. Theo cách giải thích của các văn bản trên đây, khái niệm “hàng giả” là một khái niệm có nội hàm rất rộng (hàng giả nội dung, hàng giả hình thức hoặc hàng giả cả về nội dung lẫn hình thức; và thậm chí còn gồm cả các loại tem, nhãn, bao bì giả mà không cần gắn lên một loại hàng hóa nào), bao trùm lên khái niệm “hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý” (hàng giả về hình thức). 2. Phân biệt “hàng giả” với “hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý” trong thực tiễn định tội danh các tội sản xuất, buôn bán hàng giả với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Thông thường, một trong những tiêu chí quan trọng để định tội danh các tội sản xuất, buôn bán hàng giả với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là phân biệt được đối tượng hàng hóa vi phạm. Như đã phân tích ở trên, “hàng giả” hay “hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý” đều không được cụ thể hóa trong BLHS mà chỉ được giải thích trong văn bản hướng dẫn áp dụng hoặc trong văn bản pháp luật chuyên ngành. Đặc biệt, việc giải thích khái niệm “hàng giả” nằm trong văn bản hướng dẫn xử lý các vi phạm hành chính 67Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion trong lĩnh vực sản xuất, buôn bán hàng giả mà không viện dẫn trực tiếp đến quy định xử lý tội phạm về hàng giả trong BLHS. Bởi vậy, có thể nói, việc dựa vào khái niệm hàng giả trong những văn bản hướng dẫn áp dụng hiện nay để xác định tội phạm về hàng giả là có thể chấp nhận tuy nhiên, tính bắt buộc của cách giải thích này khi áp dụng xử lý các tội phạm trong BLHS là chưa chính thống. Trong trường hợp dựa vào hướng dẫn tại văn bản hợp nhất số 14/VBHN, khái niệm “hàng giả” hoàn toàn bao trùm lên khái niệm “hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý”. Điều này dẫn đến thực tế, các vụ án hình sự có hành vi sản xuất, buôn bán các loại hàng hóa giả mạo về nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý thì sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) về tội danh nào? Nghiên cứu quan điểm định tội danh liên quan đến vấn đề này cho thấy một sự đồng thuận khá lớn như sau: + Trường hợp chỉ có dấu hiệu hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý (hàng giả về hình thức), vấn đề TNHS sẽ được xem xét, giải quyết theo quy định về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. + Trường hợp có dấu hiệu hàng hóa giả không có tính chất, chất lượng, giá trị sử dụng, công dụng, đặc tính kỹ thuật, hàm lượng hoạt chất đạt yêu cầu tại các điểm a, b, c, d khoản 8 Điều 3 Văn bản hợp nhất số 14/VBHN-BCT (hàng giả về nội dung), vấn đề TNHS sẽ được xem xét, giải quyết ‡‡ Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm (quyển 1), Nxb. CAND, Hà Nội, tr.281 §§ TS. Lê Đăng Doanh - PGS.TS. Cao Thị Oanh (chủ biên) (2017), Hệ thống Pháp luật Hình sự Việt Nam - Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) - tập 1, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr.364 - 365 theo quy định về các tội sản xuất, buôn bán hàng giả.‡‡§§ Ngoài hai trường hợp đã có sự đồng thuận, phù hợp lớn nêu trên, còn một số vấn đề đặt ra cần có sự thống nhất: Thứ nhất, tồn tại thực trạng cùng có hành vi sản xuất, buôn bán các loại hàng hóa giả mạo nhãn hiệu nhưng kết quả định tội danh khác nhau. - Vụ án thứ nhất: nhận thấy người tiêu dùng thích dùng sản phẩm giày, dép có gắn nhãn mác của các thương hiệu nổi tiếng nên V.P.C quyết định sản xuất thêm giày, dép có gắn lô gô, nhãn mác giả của 11 thương hiệu nổi tiếng như Nike, Adidas, Puma, Converse, Gucci... với cách thức như sau: C đi mua hoặc sưu tầm trên mạng internet các sản phẩm giày dép gắn nhãn hiệu của các thương hiệu nổi tiếng để lấ y mẫ u thiết kế cho công nhân sản xuất hàng loạt (trong đó có việc chỉ đạo công nhân gắn, in các lô gô, nhãn mác giả lên sản phẩm giày, dép bằng cách may, khâu, gắn đóng các logo, nhãn mác giả rời có bán trên thị trường lên sản phẩm hoặc in cao tần (dập nổi) logo, nhãn mác giả lên các sản phẩm). Theo kết luận giám định của cơ quan có thẩm quyền thì mẫu vật giám định lấy từ 14.395 đôi giày, dép (với tổng giá trị 146.300.000 đồng) Cơ quan điều tra thu giữ là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu Converse, Dolce&Gabbana, Adidas, Nike, Gucci, Tommy Hilfi ger, Versace, Hugo boss, Hermes, Puma, Prada. Các 68 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion nhãn hiệu này đều được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam theo các đăng ký quốc tế và giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đang còn hiệu lực. Trong bản án nêu rõ: “Theo Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, Điều 3 Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính Phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định thì hàng hóa giả mạo nhãn hiệu là hàng giả. Đại diện các hãng Dolce&Gabbana, Adidas, Gucci, Tommy Hilfi ger, Versace, Hugo boss, Hermes, Puma, Nike khẳng định sản phẩm giày, dép do Vũ Phúc C sản xuất là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu quy định tại Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ, đồng thời kiến nghị xử lý hàng hóa và chủ cơ sở sản xuất theo quy định của pháp luật.” Kết quả định tội: Hội đồng xét xử xác định C phạm tội sản xuất hàng giả.¶¶ - Vụ án thứ hai: T.Q. K và vợ là N.N.L.P góp vốn thà nh lập công ty TNHH may H.K.P - K là người đại diện theo pháp luật. Công ty của K có đăng ký bảo hộ nhãn hiệu quần jean “Gravali”. Cuối năm 2018, Công ty có mượn sạp số 58 khu D chợ T.B của bà P1 để là m kho chứa quần áo. Trong quãng thời gian đó, K mua của những khách hàng đến chào bán một số quần jean hiệu “Levi’s” với mục đích bán lại kiếm lời. Nguồn gốc là do K mua của những khách mang đến chà o bán và o khoảng cuối tháng 12/2018. Ngà y ¶¶ Bản án số 70/2017/HSST ngày 18/7/2017 của TAND Thành phố H.P. *** Bản án số 146/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 của TAND Quận T. thành phố H.C.M. 03/01/2019, K giao một số quần trên cho T là nhân viên là m thuê theo thời vụ chở ra sạp tại chợ TB để chà o bán cho khách hà ng, nhưng trên đường T vận chuyển thì bị Công an phát hiện bắt giữ. K khai nhận không kê khai kinh doanh quần jean có nhãn hiệu “Levi’s” và o hoạt động kinh doanh của công ty. Xác minh tại Văn phòng đại diện Cục Sở hữu trí tuệ: Kết quả quần jean nhãn hiệu “Levi’s” có chủ sở hữu là Công ty “L”. Đại diện theo ủy quyền của Công ty “L” hiện nay tại Việt Nam xác đị nh: Toà n bộ số quần jean nhãn hiệu “Levi’s” thu giữ của Công ty TNHH may H.K.P đều là giả mạo nhãn hiệu “Levi’s”, không phải là hà ng hóa do “L” sản xuất hoặ c ủy quyền sản xuất. Tổng số hàng vi phạm 3906 quần jean nam dà i giả nhãn hiệu “Levi’s” và 160 quần jean nam ngắn giả nhãn hiệu “Levi’s định giá 400.200.000 đồng. Kết quả định tội: Hội đồng xét xử xác định K phạm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.*** Qua mô tả các tình tiết của hai vụ án cho thấy, hàng hóa vi phạm trong cả hai trường hợp phạm tội này đều có dấu hiệu “giả mạo nhãn hiệu” đang được bảo hộ tại Việt Nam, tuy nhiên, kết quả định tội lại khác nhau. Lí do có thể đến từ một trong hai khả năng cơ bản sau: Một là có nhận thức và đánh giá chưa đúng dấu hiệu định tội (chỉ có dấu hiệu giả mạo về nhãn hiệu hàng hóa nhưng lại truy cứu TNHS về tội sản xuất, buôn bán hàng giả); hai là, hàng hóa vừa có dấu hiệu giả về chất lượng vừa giả mạo cả nhãn hiệu nên hội đồng xét xử 69Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion đã định tội danh sản xuất hàng giả (trường hợp này sẽ được trình bày trong nội dung thứ hai dưới đây). Thứ hai, có những quan điểm khác biệt trong định tội danh hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả cả về chất lượng và nhãn hiệu (một loại hàng giả cả về nội dung lẫn hình thức). Ví dụ: Với mục đích kiếm tiền tiêu xài, T.T.T.V tiến hành làm giả các loại nước mắm của các nhãn hiệu đã được đăng ký thương hiệu gồm: Nam Ngư siêu tiết kiệm, Nam Ngư đệ nhị, Nam Ngư ba trong một, Phú Quốc đầu bếp đại tiết kiệm, Thủy Khâm, Tám Phú nhằm bán ra thị trường. Để thực hiện việc này, V lên mạng Internet tìm kiếm được cách thức pha chế nước mắm rồi ra chợ, vào các điểm mua bán phế liệu để mua vỏ chai nhựa đựng mắm chính hãng, bìa giấy thùng đựng nước mắm còn nhãn mác, dụng cụ đo độ mặn, dụng cụ hàn nắp chai, máy sấy, muối, gia vị, phẩm màu, hóa chất (tạo vị ngọt), nước màu (tạo màu cho mắm) và một số chai nước mắm thật của các nhãn hiệu trên rồi đem về nhà pha chế bằng cách dùng nước muối có độ mặn phù hợp, pha với một phần nước mắm thật, thêm nước màu, chất tạo ngọt, gia vị rồi rót vào các chai, can nhựa, đóng nắp, vỏ thùng đem đi tiêu thụ. Khi V cùng P.V.Đ chuyển hàng lên xe môtô kéo mooc chở đi tiêu thụ bị Công an thị xã N.H phát hiện lập biên bản thu ††† Bản án số 57/2018/HSST ngày 12/9/2018 của Tòa án nhân dân thị xã N. tỉnh K.H. ‡‡‡ Ls. Lê Văn Sua, Tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công ng- hiệp theo BLHS năm 2015, website: https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx- ?ItemID=2073, truy cập ngày 3/4/2020. §§§ Phạm Tài Tuệ (2019), Các tội phạm về hàng giả theo pháp luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học, tr 104 giữ. Kết quả giám định đã xác định: Toàn bộ số chai nước mắm thành phẩm mang các nhãn hiệu trên do V sản xuất là giả bởi một phần nước mắm thật của các hãng pha với nước muối, gia vị, phẩm màu, hóa chất theo tỷ lệ do V tự ước lượng, sau đó đóng chai thành phẩm giả nhãn hiệu các loại mắm rồi đưa ra thị trường bán kiếm lời. Số lượng nước mắm giả do bị cáo V bán được ra thị trường đã thu về được số tiền là 6.390.000 đồng, tương đương với giá trị nước mắm hàng thật của các hãng sản xuất bán ra tại thị trường là 20.306.500 đồng. Kết quả định tội: Hội đồng xét xử xác định V phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thực phẩm.††† Hành vi phạm tội nêu trên của V là ví dụ thực tế cho hành vi sản xuất, buôn bán hàng hóa giả mạo về nội dung và hình thức. Nước mắm được V sản xuất, buôn bán không chỉ không có chất lượng đúng với tiêu chuẩn trên bao bì mà còn sử dụng trái phép nhãn hiệu đang được bảo hộ để gắn cho sản phẩm của mình. Quan điểm của hội đồng xét xử trong vụ án của V tương đồng với quan điểm khoa học cho rằng hàng hóa vi phạm vừa có dấu hiệu giả về chất lượng - lừa gạt người tiêu dùng, vừa có dấu hiệu giả mạo nhãn hiệu, hoặc chỉ dẫn địa lý - lợi dụng uy tín thương mại của chủ sở hữu thì cần phải coi là “hàng giả”‡‡‡ và bị xử lý về tội sản xuất, buôn bán hàng giả.§§§ 70 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan có thể thấy rằng, nếu so sánh những hành vi nêu trên với hành vi sản xuất, buôn bán hàng hóa chỉ giả về nội dung hoặc chỉ giả về hình thức thì tính chất, mức độ nguy hiểm của những hành vi này cao hơn. Bởi lẽ, trong trường hợp này, khách thể của tội phạm không chỉ là tính trung thực, hoạt động đúng đắn của các chủ thể sản xuất kinh doanh, lợi ích của người tiêu dùng mà còn là quyền sở hữu trí tuệ. Hậu quả của tội phạm cũng chỉ dừng lại ở vấn đề thiệt hại nền kinh tế nói chung ở vấn đề quản lý nhà nước, thiệt hại cho người tiêu dùng mà còn thiệt hại cho chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ (ở góc độ quyền sở hữu công nghiệp của họ bị thiệt hại). Cần nhận thấy rằng, không ít trường hợp hành vi sử dụng trái phép đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam nhằm mục đích lợi dụng uy tín thương mại của chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp này để tăng lợi nhuận kinh doanh chứ không nhằm lừa gạt người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm.¶¶¶ Nói cách khác, với giả thiết tất cả các tình tiết khác là như nhau, hành vi của chủ nhãn hiệu sản xuất hàng chính hãng của mình nhưng chất lượng không đúng như đã đăng ký hoặc in trên bao bì sẽ ít nguy hiểm hơn hành vi của người khác vừa giả nhãn hàng của công ty chính hãng gắn lên sản phẩm giả chất lượng so với đăng ký của nhãn hàng hoặc đã in trên bao bì nhãn hàng đó. Chính vì vậy, trong sự đánh giá khách quan khi so sánh với các hành vi chỉ giả về nội dung, nếu chỉ xử lý những hành vi này về các tội thuộc nhóm tội sản xuất, buôn bán ¶¶¶ Ls. Lê Văn Sua, Tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo BLHS năm 2015, tlđd hàng giả liệu đã thỏa đáng? Thứ ba, một số trường hợp việc giám định hàng hóa vi phạm và kết luận giám định này chưa được thể hiện đầy đủ trong bản án. Một trong những căn cứ thực tế để xác định hàng hóa vi phạm là đối tượng của các tội sản xuất, buôn bán hàng giả hay đối tượng của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp chính là kết luận giám định hàng hóa. Theo nguyên tắc, việc giám định cần phải tiến hành cả về nội dung (chất lượng, công dụng, tiêu chuẩn kỹ thuật) lẫn hình thức (nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý) của hàng hóa. Các kết luận này phải được công bố trong bản án để có đủ căn cứ định tội. Thực tế, trong một số ít bản án vẫn còn hiện tượng các kết luận giám định được công bố chỉ thể hiện yếu tố giả mạo về hình thức như: không được in ra trong cùng một chế bản; không giống bản in trên mẫu so sánh; không cùng bản in tương ứng in ra mà không đưa ra kết luận về chất lượng sản phẩm. Với kết luận như vậy, nhà áp dụng pháp luật chỉ có thể xác định có việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, tuy nhiên, một số bản án vẫn xác định hành vi này phạm vào các tội sản xuất, buôn bán hàng giả. Ví dụ: Vì mục đích tư lợi, K.V.S đã có hành vi mua bán phụ tùng xe máy của đối tượng V và đối tượng Th. Khi có nhu cầu, S liên lạc với V, Th để đặt vấn đề mua. Hai bên thỏa thuận, S sẽ thông báo cho V hoặc Th số lượng, 2 bên thống nhất giá mua bán. V và Th sẽ cho người chở phụ tùng xe gắn máy đựng trong túi nilon, Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 65 (3/2020) 58-64 71Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion trên túi có in chữ Yamaha hoặc Honda có dán mác in mã sản phẩm hoặc một số phụ tùng xe gắn máy không có nhãn mác cùng vỏ hộp bìa cacton in chữ Yamaha, giao tại nhà S. S sẽ trả tiền cho V, Th thông qua người chở hàng. Khi nhận được hàng, S đem vỏ hộp bằng bìa caton có in nhãn Yamaha, thuê C dán và làm thành vỏ hộp. Sau đó S cho số phụ tùng xe gắn máy đã được đóng vào hộp đem bán. Số hàng bị thu giữ là 1459 phụ tùng xe máy, trong đó có 1099 nhãn hiệu Yamaha và 360 nhãn hiệu Honda, có giá trị tương đương với giá trị hàng thật là 194.630.061 đồng. Hành vi phạm tội của S được Hội đồng xét xử xác định là Tội buôn bán hàng giả. Tuy nhiên, trong bản án kết tội đối với S, các kết luận giám định được nêu đều chỉ khẳng định về mặt hình thức: chi tiết in trên vỏ nilon bọc hàng hóa vi phạm “không phải do cùng một bản in in ra” với mẫu so sánh trên hàng hóa chính hãng được cung cấp, không đưa ra kết luận giám định về chất lượng sản phẩm. Điều này làm giảm tính thuyết phục của bản án.**** Từ thực trạng này có thể thấy, các nhà áp dụng pháp luật nên tránh quan điểm cho rằng chỉ cần căn cứ vào giá thị trường các sản phẩm được có dấu hiệu giả mạo nhãn hiệu rẻ hơn rất nhiều so với hàng thật để đồng nhất tất cả những trường hợp đó chất lượng sản phẩm có sự giả mạo. Đặc biệt trong những trường hợp người sản xuất đầu tư rất nhiều vào chất lượng sản phẩm nhưng vì thương hiệu của doanh nghiệp không được đánh giá cao trên thị trường nên đã sử dụng nhãn hiệu của các **** Bản án số 300/2017/HSST ngày 18/9/2017 Tòa án nhân dân Thành phố H.N thương hiệu nổi tiếng, giá thành cao cho sản phẩm của mình và bán ra thị trường với giá thành rẻ hơn nhiều để thu lời. 3. Một số kiến nghị Để hoạt động định tội danh được thống nhất cũng như trên cơ sở đó xác định được một mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cần có hướng dẫn áp dụng quy định của BLHS về các tội phạm hàng giả trong sự phân định với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp mà điểm mấu chốt là xác định được đúng đối tượng “hàng giả”, “hàng hóa giả mạo về nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý”. Với phạm vi những vấn đề đã trình bày trên, nên chăng thống nhất về lý luận khi hướng dẫn áp dụng các quy định của BLHS hiện hành về các tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo hướng: - Hành vi phạm tội chỉ có dấu hiệu giả mạo về hình thức thì xem xét TNHS về Tội xâm phạm SHCN; - Hành vi phạm tội chỉ có dấu hiệu giả về nội dung thì xem xét TNHS về các tội sản xuất, buôn bán hàng giả; - Hành vi phạm tội có cả dấu hiệu giả về nội dung và hình thức, về nguyên tắc cần xác định rằng: mức độ TNHS phải nghiêm khắc hơn so với trường hợp tương tự nhưng chỉ có dấu hiệu giả nội dung hoặc chỉ có dấu hiệu giả hình thức. Theo đó, có một số hướng lựa chọn: + Hướng dẫn thống nhất truy cứu TNHS người phạm tội về hai tội, một là 72 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion tội phạm về hàng giả và hai là tội xâm phạm quyền SHCN; hoặc + Trường hợp sửa đổi, bổ sung quy định BLHS: nên bổ sung thêm tình tiết định khung tăng nặng “hàng hóa vi phạm có dấu hiệu giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý”. Từ đó, người phạm tội chỉ chịu TNHS về một trong các tội thuộc nhóm tội phạm về hàng giả với tình tiết tăng nặng định khung hình phạt là “hàng hóa vi phạm có dấu hiệu giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý”. Điều này cũng đồng thời yêu cầu giới hạn cách giải thích khái niệm “hàng giả” trong cấu thành tội phạm cơ bản của các tội phạm về hàng giả đơn thuần là những loại hàng giả về nội dung. Về thực tiễn, để chứng minh những nội dung trên, các vụ án đều phải có kết luận giám định hàng hóa vi phạm cả về nội dung, hình thức và những kết luận này cần được công bố trong bản án để đảm bảo tính rõ ràng và thuyết phục khi định tội. Tài liệu tham khảo: [1]. Bản án số 146/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 của TAND Quận T. thành phố Hồ Chí Minh; [2]. Bản án số 300/2017/HSST ngày 18/9/2017 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; [3]. Bản án số 57/2018/HSST ngày 12/9/2018 của Tòa án nhân dân thị xã N. tỉnh Khánh Hòa; [4]. Bản án số 70/2017/HSST ngày 18/7/2017 của TAND Thành phố Hải Phòng; [5]. Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017; [6]. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017; [7]. TS. Lê Đăng Doanh - PGS.TS. Cao Thị Oanh (chủ biên) (2017), Hệ thống Pháp luật Hình sự Việt Nam - Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) - tập 1, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội. [8]. Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2019; [9]. Ls. Lê Văn Sua, Tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo BLHS năm 2015, website: https:// moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu- trao-doi.aspx?ItemID=2073, truy cập ngày 3/4/2020; [10]. Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT- BMT-BTC-BCA-BKHCNMT ngày 27/4/2000 của Bộ Thương mại - Bộ Tài chính - Bộ Công an - Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT- TTg ngày 27/10/1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả, hàng giả; [11]. Thông tư 01/2008/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BTC-BTP hướng dẫn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; [12]. Thông tư liên tịch số 10/2000 ngày 27/4/2000 của Bộ Thương mại - Bộ Tài chính - Bộ Công an - Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường, trong nghệ cứu khoa học; [13]. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm (quyển 1), Nxb. CAND, Hà Nội; [14]. Phạm Tài Tuệ (2019), Các tội phạm về hàng giả theo pháp luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học; [15]. Văn bản hợp nhất số 14/VBHN-BCT ngày 15/9/2017 của Bộ Công thương về Nghị định quy định xử phạt hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Địa chỉ: Khoa Pháp luật Hình sự - Trường Đại học Luật Hà Nội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphan_biet_hang_gia_trong_cac_toi_san_xuat_buon_ban_hang_gia.pdf
Tài liệu liên quan