Phân biệt ung thư biểu mô tuyến dạng nội mạc tử cung của cổ tử cung với ung thư nội mạc tử cung bằng hoá mô miễn dịch: Báo cáo một trường hợp
Trên tiêu bản nhuộm bằng phương pháp
H-E thường quy của bệnh nhân (ảnh 2, so
sánh với ảnh 1) chúng tôi thấy có các tuyến
chia nhánh phức tạp, sắp xếp sát nhau với các
cấu trúc dạng sàng hoặc tạo nên hình ảnh
“lưng đấu lưng” (back to back) không có mô
đệm xen kẽ. Đây là hình ảnh tương tự như
hình ảnh của ung thư biểu mô tuyến nội mạc
tử cung. Vì vậy, rất khó khăn cho chúng tôI để
khẳng định đây là khối u nguyên phát của cổ
tử cung hay từ ung thư của tử cung lan xuống
cổ tử cung. Hình ảnh tế bào không điển hình
bao gồm nhân tròn lớn, tăng sắc với hạt nhân
rõ, màng nhân dày. Mất cực tính của nhân với
bào tương. Các tế bào u đều âm tính với
phương pháp nhuộm hóa mô (PAS).
Vì vậy chúng tôi đã tiến hành nhuộm
HMMD với 3 dấu ấn ER, CEA và vimentin để
chẩn đoán xác định xem bệnh nhân bị ung thư ở
cổ tử cung hay từ tử cung lan xuống cổ tử cung.
Trong nghiên cứu HMMD của chúng tôi
thấy rằng với tiêu bản B8715 ung thư nội mạc
tử cung: Các thành phần u dương tính từng ổ
với dấu ấn ER và vimentin (ảnh 4 và 6). Ngược
lại, các thành phần u âm tính với dấu ấn CEA
(ảnh 8). Với tiêu bản B1308 UTBMT dạng nội
mạc của cổ tử cung: Các thành phần u âm tính
với dấu ấn vimentin, ER (ảnh 5 và 7). Ngược
lại, dương tính với dấu ấn CEA thành từng ổ
(ảnh 9). Tuy nhiên, trong trường hợp ung thư
biểu mô tuyến nội mạc tử cung chế nhầy cũng
dương tính với CEA và âm tính với
vimentin(3). Trường hợp bệnh nhân nghiên
cứu của chúng tôi có thể loại trừ hoàn toàn typ
ung thư nội mạc này, vì tiêu bản bệnh nhân
của chúng tôi phản ứng với PAS âm tính.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 242 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân biệt ung thư biểu mô tuyến dạng nội mạc tử cung của cổ tử cung với ung thư nội mạc tử cung bằng hoá mô miễn dịch: Báo cáo một trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh – Tế Bào Bệnh Học 155
PHÂN BIỆT UNG THƢ BIỂU MÔ TUYẾN DẠNG NỘI MẠC TỬ CUNG
CỦA CỔ TỬ CUNG VỚI UNG THƢ NỘI MẠC TỬ CUNG
BẰNG HOÁ MÔ MIỄN DỊCH: BÁO CÁO MỘT TRƢỜNG HỢP
Nguyễn Văn Chủ*, Đoàn Văn Khương**
Ung thư biểu mô tuyến (UTBMT) cổ tử cung chiếm khoảng 13% ung thư cổ tử cung. Trong nhiều
trường hợp cụ thể, týp UTBMT dạng nội mạc tử cung không thể phân biệt được là ung thư của cổ tử cung
hay của nội mạc tử cung lan xuống cổ tử cung trên tiêu bản nhuộm H-E.
Mục đích: xác định giá trị của ER, CEA và Vimentin trong chẩn đoán xác định nguồn gốc của ung
thư biểu mô tuyến dạng nội mạc.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: báo cáo mô tả một trường ung thư biểu mô tuyến dạng nội
mạc của cổ tử cung được nhuộm HMMD, có đối chứng với ung thư biểu mô tuyến nội mạc tử cung.
Kết quả nghiên cứu: ung thư biểu mô tuyến dạng nội mạc của cổ tử cung bộc lộ ER (-), vimentin (-)
và CEA (+), ngược lại ung thư biểu mô tuyến nội mạc có ER (+), vimentin (+) và CEA (-).
Kết luận: ba dấu ấn ER, CEA và Vimentin có giá trị chẩn đoán xác định nguồn gốc của thư biểu mô
tuyến dạng nội mạc của cổ tử cung.
SUMMARY
DISTINGUISHING ENDOMETRIOID ADENOCARCINOMA FROM ENDOMETRIAL
ADENOCARCINOMA BY IMMUNOHISTOCHEMICAL STAIN: A CASE REPORT.
Nguyen Van Chu, Doan Van Khuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 3 - 2007: 155 – 159
Endocervical adenocarcinoma ocurs about 13% in cervical cancer. In the most cases, we can not
distinguish endometrioid adenocarcinoma from endometrial adenocarcinoma by H-E stain.
Purpose: Identifying the value of ER, CEA and vimentin markers for identified diagnosis of orgin of
endometrioid adenocarcinoma.
Study method: a case report of endometrioid adenocarcinoma and controlled by endometrial
adenocarcinoma by IHC stain.
Results: endometrioid adenocarcinoma expressed with negative ER and Vimentin, but CEA is positive.
Contrast, in endometrial adenocarcinoma, ER and Vimentin are focal positive, but CEA is negative.
Conclusion: ER, CEA and vimentin markers are useful to diagnosis the primary endometrioid
adenocarcinoma from cervical orgin.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư biểu mô tuyến (UTBMT) cổ tử
cung chiếm khoảng 13% ung thư cổ tử cung(3).
Theo phân loại mô bệnh học của Tổ chức Y tế
Thế giới năm 2003, UTBMT cổ tử cung chia
làm 7 týp: Nhầy, dạng nội mạc tử cung, tế bào
sáng, thanh dịch, dạng trung thận, mới xâm
nhập và tại chỗ, trong đó UTBMT dạng nội
mạc tử cung chiếm khoảng 30%(1,5). Tỷ lệ mắc
bệnh UTBMT dạng nội mạc tăng ở phụ nữ <50
tuổi(1). Biến thể dạng nội mạc có sự tạo mô học
giống như UTBM tuyến cổ tử cung, nhưng
xuất phát từ phần cao hơn(4).
* Bộ môn Giải phẫu bệnh - Đại học Y Hà Nội.
** Khoa Xét nghiệm Bệnh viện C Thái Nguyên
Trong nhiều trường hợp cụ thể, týp
UTBMT dạng nội mạc tử cung với nhuộm HE
(Hematoxylin-eosin) và PAS (periodic-axit-
schiff), không thể phân biệt được là ung thư
của cổ tử cung hay của nội mạc tử cung lan
xuống cổ tử cung vì hình ảnh mô bệnh học
tương đối giống nhau, đặc biệt với bệnh phẩm
là tổ chức cắt chóp cổ tử cung, lúc này cần tới
hoá mô miễn dịch.
U có thụ thể estrogen (ER) dương tính,
vimentin dương tính và kháng nguyên ung
thư phôi (CEA) âm tính thì hầu như chắc chắn
là của nội mạc tử cung, trong khi đó UTBMT
dạng nội mạc tử cung của cổ tử cung rất giống
ung thư nội mạc tử cung trên hình ảnh nhuộm
H-E thì có thụ thể ER âm tính, vimentin âm
tính và CEA dương tính(5). Chúng tôi báo cáo
một trường hợp ung thư biểu mô tuyến dạng
nội mạc cổ tử cung, nhờ có HMMD có thể
khẳng định chắc chắn khối u xuất phát từ cổ
tử cung.
ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu
- Bệnh án: mã số bệnh nhân B1308, bệnh
nhân nữ, 58 tuổi, chẩn đoán lâm sàng tổn
thương nghi ngờ cổ tử cung tại bệnh viện K
Hà Nội, được khoét chóp cổ tử cung làm xét
nghiệm mô bệnh học. Kết quả chẩn đoán mô
bệnh học (qua nhuộm HE và PAS) là UTBMT
dạng nội mạc tử cung, nhưng chưa chắc chắn
là của cổ tử cung hay của nội mạc tử cung. Vì
vậy, cần nhuộm hoá mô miễn dịch để chẩn
đoán phân biệt.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Quan sát mô tả
- Sử dụng khối nến của bệnh nhân, cắt
nhuộm hoá mô miễn dịch tại Bộ môn Giải
phẫu bệnh Trường Đại học Y Hà Nội với 3
dấu ấn: ER, vimentin và CEA bằng phương
pháp ABC (Biotin - Avidin Complex).
- Để làm đối chứng trong phương pháp
nhuộm, sử dụng khối nến của bệnh nhân
khác, nữ 56 tuổi (mã số B 8715) được chẩn
đoán lâm sàng và mô bệnh học chắc chắn là
ung thư nội mạc tử cung tại bệnh viện K.
- Tiêu bản đọc dưới kính hiển vi quang học
độ phóng đại 40, 100, 200, 400 lần, chụp tất cả
9 tiêu bản làm tài liệu minh hoạ.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Hình ảnh mô học
Trên tiêu bản nhuộm bằng phương pháp
H-E thường quy chúng tôi thấy có các tuyến
chia nhánh phức tạp, sắp xếp sát nhau với các
cấu trúc dạng sàng hoặc tạo nên hình ảnh
“lưng đấu lưng” (back to back) không có mô
đệm xen kẽ. Đây là hình ảnh tương tự như
hình ảnh của ung thư biểu mô tuyến nội mạc
tử cung. Hình ảnh tế bào không điển hình bao
gồm nhân tròn lớn, tăng sắc với hạt nhân rõ,
màng nhân dày. Mất cực tính của nhân với
bào tương. Tổ chức ung thư đều âm tính với
nhuộm hóa mô bằng phương pháp PAS.
Ảnh 1: Ung thư nội mạc tử cung B 8715; 56 tuổi
(HE x 200 lần)
Ảnh 2: UTBMT dạng nội mạc của CTC B1308; 58
tuổi (HE x 200 lần)
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh – Tế Bào Bệnh Học 157
Ảnh 3: UTBMT dạng nội mạc của CTC B1308; 58
tuổi (PAS x 200)
Hình ảnh HMMD:
Dấu ấn Ung thư cổ tử cung Ung thư tử cung
ER (-) (+)
Vimentin (-) (+)
CEA (+) (-)
Nhận xét
Với tiêu bản B8715 ung thư nội mạc tử
cung: Các thành phần u dương tính từng ổ với
dấu ấn ER và vimentin (ảnh 2 và 6). Ngược lại,
các thành phần u âm tính với dấu ấn CEA
(ảnh 8).
Với tiêu bản B1308 UTBMT dạng nội mạc của
cổ tử cung: Các thành phần u âm tính với dấu ấn
vimentin, ER (ảnh 5 và 7). Ngược lại dương tính
với dấu ấn CEA thành từng ổ (ảnh 9).
Ảnh 4: Ung thư nội mạc tử cung B8715; 56 tuổi
(ER dương tính ổ x200)
Ảnh 5: UTBMT dạng nội mạc của CTC B1308; 58
tuổi (ER(-) x 100)
Ảnh 6: Ung thư nội mạc tử cung B8715; 56 tuổi
(Vimentin dương tính ổ x400)
Ảnh 7: UTBMT dạng nội mạc của CTC B1308; 58
tuổi (vimentin(-) x 100)
Ảnh 8: Ung thư nội mạc tử cung B 8715; 56 tuổi
(CEA(-) x 100)
Ảnh 9: UTBMT dạng nội mạc của CTC B1308; 58
tuổi (CEA dương tính ổ x400)
BÀN LUậN
Trên tiêu bản nhuộm bằng phương pháp
H-E thường quy của bệnh nhân (ảnh 2, so
sánh với ảnh 1) chúng tôi thấy có các tuyến
chia nhánh phức tạp, sắp xếp sát nhau với các
cấu trúc dạng sàng hoặc tạo nên hình ảnh
“lưng đấu lưng” (back to back) không có mô
đệm xen kẽ. Đây là hình ảnh tương tự như
hình ảnh của ung thư biểu mô tuyến nội mạc
tử cung. Vì vậy, rất khó khăn cho chúng tôI để
khẳng định đây là khối u nguyên phát của cổ
tử cung hay từ ung thư của tử cung lan xuống
cổ tử cung. Hình ảnh tế bào không điển hình
bao gồm nhân tròn lớn, tăng sắc với hạt nhân
rõ, màng nhân dày. Mất cực tính của nhân với
bào tương. Các tế bào u đều âm tính với
phương pháp nhuộm hóa mô (PAS).
Vì vậy chúng tôi đã tiến hành nhuộm
HMMD với 3 dấu ấn ER, CEA và vimentin để
chẩn đoán xác định xem bệnh nhân bị ung thư ở
cổ tử cung hay từ tử cung lan xuống cổ tử cung.
Trong nghiên cứu HMMD của chúng tôi
thấy rằng với tiêu bản B8715 ung thư nội mạc
tử cung: Các thành phần u dương tính từng ổ
với dấu ấn ER và vimentin (ảnh 4 và 6). Ngược
lại, các thành phần u âm tính với dấu ấn CEA
(ảnh 8). Với tiêu bản B1308 UTBMT dạng nội
mạc của cổ tử cung: Các thành phần u âm tính
với dấu ấn vimentin, ER (ảnh 5 và 7). Ngược
lại, dương tính với dấu ấn CEA thành từng ổ
(ảnh 9). Tuy nhiên, trong trường hợp ung thư
biểu mô tuyến nội mạc tử cung chế nhầy cũng
dương tính với CEA và âm tính với
vimentin(3). Trường hợp bệnh nhân nghiên
cứu của chúng tôi có thể loại trừ hoàn toàn typ
ung thư nội mạc này, vì tiêu bản bệnh nhân
của chúng tôi phản ứng với PAS âm tính.
Các protein thụ thể hormon steroid trong
tế bào gồm estrogen (ER) và progesteron (PR)
đã được nghiên cứu nhiều như những yếu tố
tiên lượng và hướng dẫn cho điều trị nội tiết
tố. Nhờ tiến bộ về kỹ thuật hoá mô miễn dịch,
phản ứng đã có thể thực hiện trên các mẫu
bệnh phẩm cố định trong formol và chuyển
đúc trong paraffin với mục đích điều trị và
tiên lượng bệnh. ER là thụ thể nội tiết được
phát hiện thấy ở UTBM vú, buồng trứng và
nội mạc tử cung(3). Trong nghiên cứu của
chúng tôi trên tiêu bản của bệnh nhân bị ung
thư cổ tử cung hoàn toàn âm tính với ER, trái
lại trên tiêu bản đối chứng của bệnh nhân ung
thư nội mạc tử cung có ER dương tính từng ổ
nhỏ. Điều này phù hợp với tình trạng đáp ứng
với nội tiết tố estrogen của nội mạc tử cung mà
không có ở niêm mạc của cổ tử cung.
CEA là kháng nguyên bào thai. Nhiều
nghiên cứu thấy rằng CEA được bộc lộ ở bào
tương của hầu hết ung thư biểu mô tuyến cổ
tử cung, trái lại nó không bộc lộ ở cổ tử cung
bình thường. Tuy nhiên, CEA có thể dương
tính ổ hoặc lan tỏa. Trong ung thư biểu mô
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh – Tế Bào Bệnh Học 159
tuyến cổ tử cung, CEA dương tính 100%, trái
lại ở ung thư biểu mô tuyến nội mạc tử cung
CEA dương tính với tỷ lệ thấp hơn (<50%)(3).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân bị
ung thư cổ tử cung có CEA dương tính từng ổ.
Nhưng bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung
CEA hoàn toàn không bộc lộ. Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu
của các tác giả nước ngoài.
Vimentin là một protein 57 kd, đầu tiên
được chiết tách từ nuôi cấy nguyên bào xơ của
chuột. Vimentin được coi là thành viên của gia
đình tơ trung gian “nguyên thủy”, bởi vì nó có
mặt ở hầu hết tất cả các tế bào. Vimentin
dương tính chủ yếu gặp ở ung thư biểu mô
tuyến nội mạc tử cung, nhưng không thấy ở
ung thư biểu mô tuyến cổ tử cung(3). Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn phù hợp
với nhận định trên.
KẾT LUẬN
Qua kết quả nhuộm HMMD với 3 dấu ấn
ER, vimentin, CEA một trường hợp ung thƣ
biểu mô tuyến dạng nội mạc tử cung có đối
chứng với ung thư nội mạc tử cung chúng tôi
đưa ra nhận xét như sau:
Bộ ba dấu ấn: ER, CEA và Vimentin có giá
trị để phân biệt ung thư biểu mô tuyến dạng
nội mạc của cổ tử cung là nguyên phát hay thứ
phát từ nội mạc tử cung lan xuống. Tuy nhiên,
cần có các nghiên cứu với số lượng bệnh nhân
nhiều hơn nữa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alfsen GC et al (2000), Histopathologic subtyping of
cervical adenocarcinoma reveals increasing incidence
rates of endometrioid tumors in all age groups: a
population based study with review of all nonsquamous
cervical carcinomas in Norway from 1966 to 1970, 1976 to
1980, and 1986 to 1990. Cancer. 2000 Sep 15;89(6):1291-9. 3
2. David J et al (2004), Diagnostic Immunohistochemistry of
the Breast In Immunohistochemical Diagnosis. 548. 5
3. Đoàn Văn Khương (2004), nghiên cứu mô bệnh học và
hoá mô ung thư biểu mô tuyến cổ tử cung, luận văn thạc
sỹ y học, Đại học Y Hà Nội tháng 10/2004, Tr 38-39, 51-54.
4. Lee KR et al (2000), Early invasive adenocarcinoma of the
cervix. Cancer. 2000 Sep 1;89(5):1048-55. 4
5. Tavassoli F.A., Peter D. (2003), Pathology and genetics of
tumours of breast and female genital organs, World
Health Organization classification of tumours, IARC
Press, Lyon, pp. 272 - 273. 2
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_biet_ung_thu_bieu_mo_tuyen_dang_noi_mac_tu_cung_cua_co.pdf