Phán quyết điển hình của tòa trọng tài thường trực La Haye về giải quyết tranh chấp biển đảo và bài học kinh nghiệm
Ý nghĩa của phán quyết đối với quá
trình giải quyết tranh chấp biển đảo của
Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia có biển đảo
và cũng đang trong tình trạng tranh chấp chủ
quyền biển đảo với các quốc gia khác. Để
có cơ sở pháp lý vững chắc nhằm khẳng
định chủ quyền của Việt Nam đối với các
quẩn đảo đang có tranh chấp chủ quyền, cần
chú ý một số vấn đề sau đây được rút ra từ
phán quyết PCA:
Thứ nhất, những chứng cứ có giá trị lịch
sử đã được hình thành trong các giai đoạn
lịch sử trước đó có liên quan đến tranh chấp
sẽ là một trong những cơ sở pháp lý quan
trọng để chứng minh yêu sách chủ quyền
của Việt Nam. Trong vụ tranh chấp chủ
quyền đảo Palmas giữa Hà Lan và Hoa Kỳ,
Hà Lan đã thành công trong việc chứng
minh chủ quyền của mình bằng các chứng
cứ lịch sử mà Hoa Kỳ không thể bác bỏ
được. Việt Nam có chủ quyền không thể
chối cãi đối với các quần đảo trên biển
Đông. Tuy nhiên, để thuyết phục được cộng
đồng quốc tế tin và nhận thấy rằng lý lẽ của
Việt Nam là có cơ sở chúng ta cần phải
chứng minh cho thế giới thấy chúng ta có
đầy đủ các bằng chứng lịch sử đối với chủ
quyền biển đảo này. Điều này càng có ý
nghĩa quan trọng đối với những tranh chấp
song phương mà chủ thể tranh chấp với Việt
Nam không có đủ lý lẽ nhưng lại có thừa sức
mạnh quân sự thì những minh chứng lịch sử
này sẽ có giá trị thuyết phục cộng đồng quốc
tế đứng về phía Việt Nam, gia tăng sức
mạnh cho Việt Nam, để Việt Nam không lẻ
loi trong tranh chấp biển Đông, điều mà chủ
thể đối diện với Việt Nam luôn mong muốn
trong giải quyết tranh chấp song phương với
Việt Nam về chủ quyền của quần đảo Hoàng
Sa. Việt Nam cần có những công trình
nghiên cứu một cách tập trung, thống kê,
phân tích, đánh giá toàn bộ các chứng cứ
lịch sử để làm chứng cứ pháp lý sử dụng
trong trường hợp cần thiết. Những chứng cứ
lịch sử này cần được sự thừa nhận chính
thức từ cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nước Việt Nam chứ không chỉ là những
công trình mang tính chất khoa học hàn lâm,
cá nhân và quan trọng hơn, Việt Nam cần
thường xuyên, liên tục công bố các chứng
cứ lịch sử này trên các phương tiện thông tin
trong nước cũng như quốc tế.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phán quyết điển hình của tòa trọng tài thường trực La Haye về giải quyết tranh chấp biển đảo và bài học kinh nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHAÁN QUYÏËT ÀIÏÍN HÒNH CUÃA TOÂA TROÅNG TAÂI
THÛÚÂNG TRÛÅC LA HAYE VÏÌ GIAÃI QUYÏËT TRANH CHÊËP BIÏÍN ÀAÃO
VAÂ BAÂI HOÅC KINH NGHIÏåM
BànH Quốc Tuấn*
1. Yêu sách của các bên tham gia tranh
chấp
Đảo Palmas (ngày nay còn được biết
đến với tên gọi khác là đảo Pula Miangas,
là một bộ phận của lãnh thổ nước Cộng hòa
Indonesia) là một hòn đảo nhỏ, ít có giá trị
về mặt kinh tế hoặc vị trí chiến lược. Hòn
đảo có chiều dài khoảng 2 dặm (mile) và
chiều rộng khoảng ¾ dặm, với số lượng dân
cư khoảng 750 người vào thời điểm phán
quyết của PCA được tuyên. Vị trí đảo Pal-
mas ở giữa đảo Mindanao của lãnh thổ Phi-
lippines và một đảo phía cực Bắc có tên là
Nanusa, là một đảo đã được phát hiện bởi
Công ty Đông Ấn (East Indies Company)
của Hà Lan. Năm 1898, Tây Ban Nha đã
nhượng lại đảo Palmas cho Philippines (lúc
này là thuộc địa của Hợp chúng quốc Hoa
Kỳ) bằng Công ước Paris năm 18981. Từ
thời điểm đó, Hoa Kỳ đặt đảo Palmas nằm
bên trong đường biên giới của Philippines,
thuộc địa của Hoa Kỳ. Đến năm 1906, Hoa
Kỳ nhận ra rằng Hà Lan cũng đã thiết lập
chủ quyền đối với đảo Palmas, tranh chấp
phát sinh và hai bên đã đồng ý đưa vụ việc
ra giải quyết tại PCA. Vào ngày 23/01/1925,
Chính phủ Hà Lan và Chính phủ Hoa Kỳ đã
ký kết thỏa thuận để chính thức hóa việc đưa
vụ việc ra giải quyết tại PCA (The Special
13
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(313) T5/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Ra đời vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Tòa Trọng tài thường trực La
Haye (Permanent Court Arbitration - PCA) là một trong những cơ quan giải
quyết tranh chấp quốc tế được thành lập sớm nhất trong lịch sử thế giới hiện
đại. Từ khi thành lập đến nay, PCA đã đóng vai trò quan trọng trong việc duy
trì hòa bình, an ninh quốc tế cũng như góp phần quan trọng vào sự phát triển
của pháp luật quốc tế. Các phán quyết của PCA đã góp phần giải thích một
số nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp về lãnh thổ, đặc biệt là tranh
chấp về biển đảo, điển hình là vụ tranh chấp chủ quyền giữa Hà Lan và Hoa
Kỳ đối với đảo Palmas.
* TS. Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
1 Công ước Paris năm 1898 là Công ước ký giữa Hoa Kỳ và Tây Ban Nha để chấm dứt cuộc chiến tranh Hoa Kỳ - Tây Ban
Nha. Theo Công ước, Tây Ban Nha phải trao nhượng toàn bộ thuộc địa Philippines cho Hoa Kỳ. Xem Nguyễn Quang
Thắng, “Hoàng Sa, Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam nhìn từ Công pháp quốc tế”, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2008, tr. 216.
14
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(313) T5/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
2 Xem toàn văn văn bản tại
Agreement of January 23rd, 19252). Văn bản
phê chuẩn việc thỏa thuận được trao đổi tại
Washington vào ngày 01/4/1925. Văn bản
thỏa thuận được đăng ký trong League of
Nations Treaty Series vào ngày 19/5/1925.
Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ việc chỉ
bao gồm một Trọng tài viên duy nhất là ông
Max Huber, quốc tịch Thụy Sĩ, ông Michiels
van Verduynen là Tổng thư ký.
Cả Hoa Kỳ và Hà Lan trong vụ tranh
chấp này đều đưa ra yêu sách công nhận chủ
quyền của mình đối với đảo Palmas. Đối với
Hoa Kỳ, yêu sách chủ quyền đối với đảo
Palmas được đưa ra trên cơ sở chủ quyền
của Tây Ban Nha là chủ thể đầu tiên phát
hiện ra đảo Palmas. Đối với Hà Lan, yêu
sách chủ quyền đối với đảo Palmas được
đưa ra dựa trên sự chiếm hữu liên tục cũng
như sự thể hiện chủ quyền trên thực tế đối
với đảo Palmas. Vấn đề pháp lý quan trọng
liên quan đến vụ việc phải trả lời là có hay
không việc thiết lập quyền sở hữu đối với
một vùng lãnh thổ bởi người phát hiện ra nó
đầu tiên, thậm chí ngay cả khi họ không thực
hiện chủ quyền thực tế của mình trên vùng
lãnh thổ đó hoặc một vùng lãnh thổ có thuộc
về chủ quyền của quốc gia chiếm hữu thực
tế vùng lãnh thổ đó hay không.
Trọng tài viên Max Huber, một luật sư
người Thụy Sĩ, đã giải quyết theo hướng có
lợi cho Hà Lan và lập luận rằng Hà Lan đã
thực hiện chủ quyền thực tế đối với đảo
Palmas. Lập luận của ông được đưa ra dựa
trên các cơ sở mà các bên tranh chấp đưa ra
như sau:
- Phải là người phát hiện ra đầu tiên:
Trong lần tranh luận đầu tiên giữa hai bên,
Hoa Kỳ lập luận rằng, Hoa Kỳ là nước có
chủ quyền đối với đảo Palmas bởi lẽ Tây
Ban Nha đã nhượng lại chủ quyền đối với
lãnh thổ của Philippines cho Hoa Kỳ bằng
Hiệp định Paris ngày 10/12/1898 (trong đó
có đảo Palmas) vì Tây Ban Nha là chủ thể
đầu tiên phát hiện ra đảo Palmas. Theo Hoa
Kỳ, chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ
không được thiết lập đơn giản bởi hành vi
vẽ bản đồ mà phải thông qua một Công ước
và Hoa Kỳ đã viện dẫn Công ước Munster
(Treaty of Munster) ngày 30/01/1648 giữa
Tây Ban Nha và Hà Lan. Công ước Munster
năm 1648 có nội dung tuyên bố hòa bình
giữa Tây Ban Nha và Hà Lan. Theo Hoa Kỳ,
tại Điều V Công ước có quan hệ tới vấn đề
lãnh thổ giữa Tây Ban Nha và Công ty Đông
Ấn của Hà Lan. Như vậy, đảo Palmas là một
phần của lãnh thổ Philippines và Hoa Kỳ đã
chiếm giữ Philippines sau chiến thắng trong
cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha năm
1896. Như vậy, Hoa Kỳ đã thực hiện quyền
chiếm hữu của người phát hiện đầu tiên
thông qua sự chuyển nhượng quyền sở hữu
hợp pháp từ Tây Ban Nha. Trọng tài viên
cũng đã đồng ý rằng không có quy định nào
của pháp luật quốc tế hiện đại không công
nhận việc chuyển giao lãnh thổ qua chuyển
nhượng.
Tuy nhiên, Trọng tài viên đã lưu ý rằng,
Tây Ban Nha không thể chuyển giao một
cách hợp pháp vùng lãnh thổ mà họ không
phải là người sở hữu hợp pháp và như vậy
Hiệp định Paris không thể chuyển giao đảo
Palmas cho Hoa Kỳ một cách hợp pháp nếu
Tây Ban Nha không thực hiện quyền của
người chiếm hữu nó trên thực tế. Trọng tài
viên đã kết luận rằng, Tây Ban Nha đã là
người có quyền sở hữu đối với đảo Palmas
ngay khi Tây Ban Nha phát hiện ra đảo.
Tuy nhiên, Trọng tài viên cũng lưu ý rằng
để duy trì chủ quyền của mình đối với vùng
lãnh thổ đã phát hiện ra, quốc gia đó phải
duy trì liên tục trên thực tế quyền lực của
mình đối với vùng lãnh thổ đó, thậm chí chỉ
bằng một hành động đơn giản như cắm
quốc kỳ trên bãi biển của hòn đảo đó.
Trong trường hợp này, Tây Ban Nha đã
không thực hiện chủ quyền của mình trên
thực tế đối với đảo Palmas sau khi Tây Ban
Nha phát hiện ra đảo. Chính vì vậy, lập luận
của Hoa Kỳ đối với vụ kiện về việc Hoa Kỳ
có chủ quyền đối với đảo Palmas vì là chủ
thể phát hiện ra đầu tiên đã dựa trên một cơ
sở pháp lý tương đối yếu.
- Phải có sự tiếp giáp: Hoa Kỳ cũng đưa
ra lập luận rằng, đảo Palmas là một phần của
lãnh thổ tiếp giáp với đất liền của lãnh thổ
Philippines là thuộc địa của Hoa Kỳ bởi lẽ
nó gần lãnh thổ của Philippines hơn là lãnh
thổ của Indonesia, là lãnh thổ thuộc địa của
Hà Lan. Trọng tài viên đã lập luận rằng,
không có bất kỳ quy định nào của pháp luật
quốc tế là cơ sở cho lập luận của Hoa Kỳ bởi
lẽ vị trí của đảo không phải là cơ sở quyết
định chủ quyền của đảo thuộc về quốc gia
nào. Trọng tài viên cũng cho rằng, nếu chỉ
dựa vào vị trí thì không đủ cơ sở pháp lý để
tiến hành một vụ kiện đòi chủ quyền đối với
một vùng đất. Nếu cộng đồng quốc tế đi
theo hướng lập luận của Hoa Kỳ nó sẽ dẫn
đến những kết quả giải quyết tùy tiện và
không có cơ sở pháp lý.
- Phải thể hiện chủ quyền một cách liên
tục và công khai: Quan điểm đầu tiên mà
Hà Lan đưa ra là Hà Lan là chủ thể có chủ
quyền đối với đảo Palmas bởi lẽ từ năm
1677 Hà Lan đã thực hiện quyền chiếm hữu
trên thực tế đối với đảo Palmas. Theo Hà
Lan, đảo Palmas và các đảo Nanusa, đảo
Talauer, gọi chung là các đảo Talaud (Talaud
Islands) trước đó thuộc về Nhà nước
Tabukan. Như vậy, Nhà nước địa phương
Tabukan mới là chủ thể chiếm hữu trực tiếp
trên thực tế đảo Palmas chứ không phải Tây
Ban Nha dù Tây Ban Nha đã phát hiện ra
đảo Palmas. Hà Lan cũng cho rằng, dựa vào
Công ước Munster năm 1648, năm 1677 Hà
Lan đã đạt được thỏa thuận với Nhà nước
Tabukan về việc Hà Lan sẽ quản lý, kiểm
soát đảo Palmas thông qua một Hiệp định
giữa Công ty Đông Ấn với Nhà nước
Tabukan, theo một yêu cầu đặt ra đối với
những người theo đạo Tin lành và từ chối
quyền kiểm soát của các quốc gia khác đối
với hòn đảo. Như vậy, Hà Lan đã chứng
minh được rằng, Công ty Đông Ấn đã thực
hiện quyền kiểm soát đối với đảo Palmas từ
thế kỷ XVII. Trong khi đó, Hoa Kỳ đã
không thể đưa ra được các bằng chứng
chứng minh rằng Tây Ban Nha đã thực hiện
chủ quyền đối với đảo Palmas ngoài trừ
những văn bản thể hiện việc Tây Ban Nha
đã phát hiện ra hòn đảo. Ngoài ra, cũng
không có bất cứ bằng chứng nào chứng
minh rằng đảo Palmas chịu sự quản lý hành
chính hoặc là một đơn vị hành chính của
chính quyền Tây Ban Nha ở Philippines.
Trọng tài viên đã chấp nhận lập luận của
Hà Lan và cho rằng, nếu Tây Ban Nha cũng
đã thực hiện chủ quyền đối với đảo Palmas
thì tất yếu đã phải xảy ra xung đột giữa Hà
Lan và Tây Ban Nha về chủ quyền đối với
đảo, nhưng thực tế không có bằng chứng
nào cho thấy đã có sự xung đột như thế xảy
ra. Như vậy, cho đến khi vụ kiện xảy ra, Hà
Lan đã thực hiện chủ quyền của mình đối
với đảo Palmas một cách liên tục và công
khai mà không có sự phản đối của bất kỳ
quốc gia hay chủ thể nào khác, kể cả của
Tây Ban Nha.
2. nội dung phán quyết của Hội đồng
Trọng tài
Trên cơ sở yêu sách của hai bên, các
chứng cứ pháp lý mà các bên đưa ra cũng
như lập luận của các bên nhằm bảo vệ yêu
sách của mình, cũng như căn cứ vào quy
định của pháp luật quốc tế, ngày 04/4/1928,
Hội đồng Trọng tài đã đưa ra phán quyết với
nội dung như sau3:
- Một quốc gia không thể chuyển giao
15
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(313) T5/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3 Xem Arbitration Agreement between United State of America and The Netherlands, 4th day of April, 1928 (Nguồn:
một vùng lãnh thổ cho quốc gia khác khi
quốc gia đó không có quyền sở hữu hợp
pháp đối với vùng lãnh thổ chuyển giao.
Như vậy, Tây Ban Nha không thể chuyển
giao một cách hợp pháp đảo Palmas cho
Hoa Kỳ nếu Tây Ban Nha không phải là chủ
thể sở hữu đảo Palmas thông qua việc thực
hiện quyền của người chiếm hữu nó trên
thực tế. Tây Ban Nha đã là người có quyền
sở hữu đối với đảo Palmas ngay khi Tây Ban
Nha phát hiện ra đảo. Tuy nhiên, Tây Ban
Nha đã không thực hiện chủ quyền của mình
trên thực tế đối với đảo Palmas sau khi Tây
Ban Nha phát hiện ra
đảo và vì vậy, Tây Ban
Nha chưa thiết lập chủ
quyền của mình đối
với đảo Palmas trên
thực tế. Chính vì vậy,
lập luận của Hoa Kỳ
đối với vụ kiện về việc
Hoa Kỳ có chủ quyền
đối với đảo Palmas
trên cơ sở thừa hưởng
quyền của chủ thể phát
hiện ra đầu tiên đảo
Palmas của Tây Ban
Nha là không có cơ sở.
- Không có bất kỳ
quy định nào của pháp
luật quốc tế cho rằng vị
trí của một hòn đảo gần với đất liền của
quốc gia nào thì hòn đảo thuộc chủ quyền
của quốc gia đó. Như vậy, lập luận của Hoa
Kỳ cho rằng đảo Palmas thuộc chủ quyền
của Philippines chứ không phải Hà Lan bởi
lẽ vị trí của đảo gần lãnh thổ Philippines hơn
là lãnh thổ của Hà Lan là không có cơ sở
pháp lý.
- Một quốc gia dù không phải là chủ
thể đầu tiên phát hiện ra một vùng lãnh thổ
nhưng vẫn có cơ sở tuyên bố và thiết lập
chủ quyền đối với vùng lãnh thổ đó nếu đã
thực hiện quyền chiếm hữu vùng lãnh thổ
trên thực tế một cách công khai, liên tục mà
không gặp phải sự phản đối hoặc tranh
chấp của bất kỳ quốc gia hay chủ thể nào
khác. Như vậy, Hà Lan dù không phải là chủ
thể đầu tiên phát hiện ra đảo Palmas nhưng
đã thực hiện quyền kiểm soát đối với đảo
Palmas một cách công khai, liên tục mà
không có sự phản đối của Tây Ban Nha hay
bất kỳ quốc gia nào khác.
Trên các cơ sở này, phán quyết của PCA
như sau: Hoa Kỳ không có đủ các bằng
chứng chứng minh rằng Tây Ban Nha là chủ
thể đã thực hiện chủ quyền thực tế đối với
đảo Palmas mặc dù Tây Ban Nha là quốc gia
phát hiện ra đảo Palmas. Trong khi đó, Hà
Lan có đủ các bằng chứng cho thấy Hà Lan
là chủ thể đã thực hiện chủ quyền trên thực
tế đối với đảo Palmas và việc thực hiện chủ
quyền này đã diễn ra một cách liên tục, công
khai mà không có sự phản đối của Tây Ban
Nha hay chủ thể nào khác. Vì vậy, Tây Ban
Nha không phải là quốc gia có chủ quyền đối
với đảo Palmas, do vậy, việc Tây Ban Nha
nhượng quyền sở hữu đảo Palmas cho Hoa
Kỳ là không đủ cơ sở để Hoa Kỳ thiết lập
chủ quyền đối với hòn đảo. Phán quyết của
PCA đã tuyên đảo Palmas thuộc chủ quyền
của Hà Lan. Sau khi Hà Lan trao trả độc lập
cho Indonesia thì chủ quyền đối với đảo Pal-
mas cũng chuyển giao cho Indonesia. Vì vậy,
16
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(313) T5/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Bản đồ vị trí của đảo Palmas (Nguồn: www.PCA-CPA.org)
ngày nay đảo Palmas là một phần lãnh thổ
của nước Cộng hòa Indonesia.
3. Bài học kinh nghiệm
3.1 Những vấn đề về mặt pháp lý của vụ
việc
Từ phán quyết của PCA đối với vụ tranh
chấp đảo Palmas giữa Hà Lan và Hoa Kỳ,
chúng ta có thể rút ra mấy vấn đề pháp lý
quan trọng liên quan đến tranh chấp biển
đảo sau đây:
Thứ nhất, vị trí địa lý của đảo hoàn toàn
không phải là cơ sở pháp lý theo pháp luật
quốc tế để khẳng định chủ quyền của một
quốc gia đối với hòn đảo đó, cho dù đó là
quốc gia có vị trị gần nhất với hòn đảo so
với các quốc gia khác tham gia tranh chấp.
Điều này có nghĩa là có những quốc gia có
bờ biển rất xa so với vị trí của đảo nhưng
hoàn toàn có chủ quyền đối với đảo nếu như
có đầy đủ các cơ sở pháp lý chứng minh chủ
quyền của mình.
Thứ hai, việc một quốc gia là chủ thể
đầu tiên phát hiện ra hòn đảo chỉ có ý nghĩa
là cơ sở ban đầu để xem xét chủ quyền của
quốc gia đó đối với hòn đảo. Điều này có
nghĩa là khi một quốc gia là chủ thể đầu tiên
phát hiện ra đảo thì có cơ sở ban đầu cho
rằng quốc gia đó có chủ quyền đối với đảo.
Tuy nhiên, chủ quyền của quốc gia đối với
đảo còn phải được chứng minh bằng các cơ
sở pháp lý khác.
Thứ ba, nếu một quốc gia không phải là
chủ thể đầu tiên phát hiện ra hòn đảo nhưng
đã thực hiện chủ quyền trên thực tế đối với
đảo và tuyên bố chủ quyền một cách công
khai, liên tục mà không có sự phản đối từ
quốc gia phát hiện đầu tiên cũng như các chủ
thể khác thì có sẽ có cơ sở để kết luận hòn
đảo đó thuộc về chủ quyền của quốc gia thực
hiện quyền chiếm hữu thực tế hơn là thuộc
chủ quyền của quốc gia phát hiện đầu tiên.
3.2 Ý nghĩa của phán quyết đối với quá
trình giải quyết tranh chấp biển đảo của
Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia có biển đảo
và cũng đang trong tình trạng tranh chấp chủ
quyền biển đảo với các quốc gia khác. Để
có cơ sở pháp lý vững chắc nhằm khẳng
định chủ quyền của Việt Nam đối với các
quẩn đảo đang có tranh chấp chủ quyền, cần
chú ý một số vấn đề sau đây được rút ra từ
phán quyết PCA:
Thứ nhất, những chứng cứ có giá trị lịch
sử đã được hình thành trong các giai đoạn
lịch sử trước đó có liên quan đến tranh chấp
sẽ là một trong những cơ sở pháp lý quan
trọng để chứng minh yêu sách chủ quyền
của Việt Nam. Trong vụ tranh chấp chủ
quyền đảo Palmas giữa Hà Lan và Hoa Kỳ,
Hà Lan đã thành công trong việc chứng
minh chủ quyền của mình bằng các chứng
cứ lịch sử mà Hoa Kỳ không thể bác bỏ
được. Việt Nam có chủ quyền không thể
chối cãi đối với các quần đảo trên biển
Đông. Tuy nhiên, để thuyết phục được cộng
đồng quốc tế tin và nhận thấy rằng lý lẽ của
Việt Nam là có cơ sở chúng ta cần phải
chứng minh cho thế giới thấy chúng ta có
đầy đủ các bằng chứng lịch sử đối với chủ
quyền biển đảo này. Điều này càng có ý
nghĩa quan trọng đối với những tranh chấp
song phương mà chủ thể tranh chấp với Việt
Nam không có đủ lý lẽ nhưng lại có thừa sức
mạnh quân sự thì những minh chứng lịch sử
này sẽ có giá trị thuyết phục cộng đồng quốc
tế đứng về phía Việt Nam, gia tăng sức
mạnh cho Việt Nam, để Việt Nam không lẻ
loi trong tranh chấp biển Đông, điều mà chủ
thể đối diện với Việt Nam luôn mong muốn
trong giải quyết tranh chấp song phương với
Việt Nam về chủ quyền của quần đảo Hoàng
Sa. Việt Nam cần có những công trình
nghiên cứu một cách tập trung, thống kê,
phân tích, đánh giá toàn bộ các chứng cứ
lịch sử để làm chứng cứ pháp lý sử dụng
trong trường hợp cần thiết. Những chứng cứ
lịch sử này cần được sự thừa nhận chính
thức từ cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nước Việt Nam chứ không chỉ là những
công trình mang tính chất khoa học hàn lâm,
cá nhân và quan trọng hơn, Việt Nam cần
thường xuyên, liên tục công bố các chứng
17
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(313) T5/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
cứ lịch sử này trên các phương tiện thông tin
trong nước cũng như quốc tế.
Thứ hai, thực hiện việc chiếm hữu có
hiệu quả và thể hiện chủ quyền của mình
trên thực tế một cách công khai, thường
xuyên, liên tục đối với những đảo đang nằm
dưới sự kiểm soát của Việt Nam. Để khẳng
định chủ quyền đối với các vùng biển đảo
tranh chấp, Việt Nam cần đẩy mạnh các
hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên,
khoáng sản cũng như tạo điều kiện thuận lợi
cho ngư dân đánh bắt cá, bảo vệ ngư dân
trong trường hợp có sự uy hiếp, đe dọa của
nước ngoài. Và xa hơn, cần tăng cường cấp
phép cho các công ty nước ngoài vào khai
thác tài nguyên trên vùng biển của Việt
Nam trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi
(như Việt Nam hiện đang làm). Những hoạt
động này một mặt mang lại lợi ích kinh tế,
mặt khác còn là cơ sở khẳng định việc thực
hiện chủ quyền trên thực tế của Việt Nam
đối với vùng lãnh thổ thuộc chủ quyền của
Việt Nam. Mặt khác, Việt Nam cần kiên
quyết phản đối, ngăn chặn các hoạt động
khai thác tài nguyên, xây dựng các công
trình cũng như tổ chức các hoạt động khác
của các nước không có chủ quyền đối với
vùng biển đảo của Việt Nam.
Thứ ba, thường xuyên, liên tục khẳng
định chủ quyền đối với những đảo và vùng
biển thuộc chủ quyền của Việt Nam nhưng
đang chịu sự kiểm soát của quốc gia khác.
Tình hình thực tế mà chúng ta phải nhìn
nhận là trong một thời gian tương đối dài,
các quần đảo mà Việt Nam tuyên bố chủ
quyền đang nằm dưới quyền kiểm soát thực
tế của quốc gia khác. Mặc dù về mặt pháp
luật quốc tế, hành vi chiếm đóng bằng lực
lượng quân sự không đồng nghĩa với việc
xác lập chủ quyền cho dù thời gian chiếm
đóng kéo dài trong bao lâu. Tuy nhiên,
trong pháp luật quốc tế tồn tại Thuyết chiếm
hữu có hiệu quả. Nội dung của thuyết này
theo luật quốc tế hiện đại là đối với các
vùng đất (chủ yếu là các hòn đảo) quốc gia
nào có đầy đủ chứng cứ thuyết phục nhất về
việc mình chứ không phải ai khác là người
chiếm hữu có hiệu quả vùng đất đó thì vùng
đất đó được coi là vùng lãnh thổ của quốc
gia đó. Như vậy, việc các vùng lãnh thổ của
Việt Nam nằm dưới quyền kiểm soát thực
tế của quốc gia khác trong một thời gian dài
mà Việt Nam không có bất cứ động thái nào
thì điều này đồng nghĩa với việc công nhận
sự chiếm hữu có hiệu quả của quốc gia kia
đối với vùng lãnh thổ của Việt Nam.
Thứ tư, thường xuyên, liên tục củng cố
và công bố các chứng cứ pháp lý khẳng
định chủ quyền của Việt Nam đối với các
quần đảo tranh chấp. Nếu Việt Nam là nước
đưa đơn khởi kiện trước thì Việt Nam có
nghĩa vụ phải gửi các chứng cứ chứng minh
cho yêu sách của mình đến Văn phòng của
PCA cũng như đến quốc gia còn lại của
tranh chấp. Theo quy định của Quy tắc giải
quyết tranh chấp giữa hai bên là quốc gia có
hiệu lực ngày 20/10/1992, thì các tài liệu
này có thể được thể hiện bằng tiếng Anh
hoặc tiếng Pháp hoặc một ngôn ngữ phổ
biến khác do các bên thỏa thuận lựa chọn.
Kèm theo các tài liệu, Việt Nam cần có bản
tranh luận thể hiện quan điểm của mình
cũng như các quan điểm phản bác lại yêu
sách của quốc gia có liên quan đã thể hiện
trong quá trình diễn ra tranh chấp trước đó.
Đối với từng lập luận của Việt Nam cũng
như từng lập luận của quốc gia có liên quan
tranh chấp, Việt Nam đều phải thể hiện rõ
quan điểm của mình là đồng ý hay phản đối
và quan trọng nhất, phải có chứng cứ pháp
lý, lập luận để bảo vệ quan điểm của mình.
Các tài liệu này là một trong những cơ sở
rất quan trọng để Hội đồng Trọng tài PCA
ban hành quyết định giải quyết vụ tranh
chấp. Chính vì vậy, Việt Nam cần có sự
chuẩn bị các tài liệu này một cách chu đáo.
Trong trường hợp cần thiết, cần phải sử
dụng cơ chế tư vấn của các chuyên gia để
tập hợp, sắp xếp các tài liệu thành một bộ
hồ sơ hoàn chỉnh n
18
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(313) T5/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_quyet_dien_hinh_cua_toa_trong_tai_thuong_truc_la_haye_v.pdf