- Đối với nhóm ngành đầu ra của
nông, lâm, thủy sản (công nghiệp chế
biến) đang đứng đầu trong danh sách được
bảo hộ, cần có chính sách khuyến khích
sử dụng nguyên liệu trong nước, hạn chế
nhập khẩu nguyên liệu thô mà Việt Nam
đang sẵn nguồn cung;
- Cần tổ chức ngành nông, lâm, thủy
sản theo hướng: quy hoạch lại vùng sản
xuất; đưa ra các tiêu chuẩn kỹ thuật,
chất lượng; hỗ trợ đầu tư công nghệ; tạo
điều kiện thuận lợi để liên kết người sản
xuất, nhà khoa học, nhà tiêu thụ và chính
quyền địa phương một cách bền chặt, tạo
ra sản phẩm đầu ra đáp ứng được các tiêu
chuẩn kỹ thuật của ngành công nghiệp
chế biến;
- Dân số Việt Nam chiếm 1,27% dân
số thế giới, nhưng từ lâu Việt Nam chỉ
ưu tiên xuất khẩu, bỏ quên thị trường
nội địa. Hàng hóa chất lượng thấp, giá
rẻ, nhất là lương thực, thực phẩm chất
lượng kém, của các nước tràn vào Việt
Nam, trong khi thị trường Việt Nam
không được một hàng rào nào bảo vệ,
từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức
khỏe và chất lượng cuộc sống của người
dân. Vì vậy cần có hoạt động xúc tiến để
sản phẩm nông, lâm, thủy sản chiếm lĩnh
thị trường trong nước./.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 392 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích bảo hộ của ngành nông nghiệp và thủy sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VẤN ĐỀ HÔM NAY
22Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
* Cán bộ nghiên cứu Viện phát triển Việt Nam.
1. Giớí thiệu
Trong những năm gần đây, cùng với
tăng trưởng GDP, cơ cấu ngành kinh tế đã có
sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực. Tỷ
trọng ngành ngành nông, lâm, thủy sản giảm
nhanh, từ 18,4% năm 2010 xuống 15,3%
năm 2017; tỷ trọng ngành công nghiệp và
xây dựng tăng nhẹ; tỷ trọng ngành dịch vụ
tăng khá (Bảng 1). Điều này chứng tỏ xu
thế tiến bộ, phù hợp với xu hướng chuyển
dịch cơ cấu, góp phần nâng cao chất lượng
và hiệu quả của nền kinh tế.
PHÂN TÍCH BẢO HỘ
CỦA NGÀNH NÔNG NGHIỆP VÀ THỦY SẢN
TS. Bùi Trinh *
Tóm tắt: Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO), bước vào sân chơi “toàn cầu” và để chính thức được ký kết các hiệp
định tự do đa phương và song phương với các đối tác lớn. Để tăng tính cạnh tranh
của hàng hóa trong nước, Chính phủ cần phải có các chính sách hỗ trợ trong phạm vi
cho phép để bảo vệ sản xuất trong nước. Nghiên cứu này xem xét sự thay đổi về mức
độ ảnh hưởng qua lại của nhóm ngành nông, lâm, thủy sản đối với các nhóm ngành
khác trong nền kinh tế, đồng thời đánh giá chính sách bảo hộ đối với ngành nông, lâm
nghiệp và thủy sản qua hai năm và ước tính mức độ bảo hộ đối với nhóm ngành này
theo lộ trình cắt giảm thuế quan đến năm 2020.
Từ khóa: Nông nghiệp, thủy sản, tăng trưởng, kinh tế.
Abstract: In 2007, Vietnam became a member of the World Trade Organization
(WTO), entered the “global” playing field, multilateral and bilateral free trade
agreements with major partners were officially signed. In order to increase the
competitiveness of domestic goods, the Government needs to have reasonable
supporting policies to protect domestic production. This study considers the change in
the reciprocal influence of agriculture, forestry and fishery sectors on other economic
sectors, and assesses protection policies for agriculture, forestry and seafood over
two years and estimate the level of protection for this sector under the tariff reduction
roadmap by 2020.
Keywords: Agriculture, fisheries, growth, economy.
VẤN ĐỀ HÔM NAY
23Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
Để có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
trong thời gian qua, Nhà nước đã tập trung
nhiều nguồn lực hơn cho công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ; Còn khu vực nông, lâm,
thủy sản có đầu tư, nhưng ở mức rất hạn
chế: năm 2005 chiếm khoảng 8% trong
tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Đến năm
2017 tỷ lệ này chỉ còn khoảng 6%, trong
khi vốn đầu tư cho khu vực công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ chiếm tới 47% tổng
vốn đầu tư toàn xã hội.
Về nguyên tắc, xác định ngành trọng
điểm để có định hướng ưu tiên đầu tư là
cần thiết, nhằm sử dụng nguồn lực hợp lý
và tạo động lực cho ngành được ưu tiên
thể hiện vai trò của mình trong việc thúc
đẩy tăng trưởng toàn nền kinh tế.
Bảng 1. Cơ cấu ba nhóm ngành và thuế sản phẩm trong GDP 1, %
Nông, lâm Công nghiệp Thuế sản phẩm
Năm Tổng số nghiệp và và Dịch vụ trừ trợ cấp
thuỷ sản xây dựng sản phẩm
2010 100,00 18,38 32,13 36,94 12,55
2011 100,00 19,57 32,24 36,73 11,46
2012 100,00 19,22 33,56 37,27 9,95
2013 100,00 17,96 33,19 38,74 10,11
2014 100,00 17,70 33,21 39,04 10,05
2015 100,00 17,00 33,25 39,73 10,02
2016 100,00 16,32 32,72 40,92 10,04
Sơ bộ 2017 100,00 15,30 33,30 41,40 10,00
Nguồn Tổng cục Thống kê
Nguồn Tổng cục Thống kê
1 Từ năm 2010 Tổng cục Thống kê thay đổi cách công bố số liệu đưa thuế sản phẩm ra
khỏi giá trị gia tăng, để tương thích chỉ có thể so sánh từ năm 2010 trở đi.
Hình 1. Tỷ trọng vốn đầu tư của ba nhóm ngành trong tổng đầu tư toàn xã hội, %
VẤN ĐỀ HÔM NAY
24Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
Các nghiên cứu về cấu trúc nền
kinh tế Việt Nam, ảnh hưởng trực tiếp,
gián tiếp và lan tỏa của nền kinh tế hoặc
của một nhóm ngành trên bảng cân
đối liên ngành đã được thực hiện bởi:
Kwang M.K., Bui Trinh, Kaneko F.,
Secretaria T.(2007); Bùi Trinh, Kiyoshi
Kobayashi, Vũ Trung Điền (2011);
Nguyễn Phương Thảo (2015). Chính vì
tầm quan trọng và sức ảnh hưởng của
ngành trọng điểm đối với nền kinh tế
mà cần phải có chính sách bảo hộ hiệu
quả đối với nhóm ngành này. Khái niệm
về bảo vệ hữu hiệu (Effective Rate of
Protection - ERP) nhằm đo lường tỷ
trọng giá trị gia tăng của sản xuất trong
nước khi được bảo vệ bằng thuế quan so
với giá trị gia tăng khi không được bảo
vệ. Khung lý thuyết được đưa ra năm
1966 bởi Corden dựa trên bảng cân đối
liên ngành và tiếp tục được các nhà kinh
tế, như: Melzer (1980), Stevens (1995),
Bùi Trinh và Kobayashi (2011), Nguyễn
Bích Lâm, Bùi Trinh và Nguyễn Việt
Phong (2013), nghiên cứu. Các nghiên
cứu về bảo hộ trong giai đoạn trước
2012 đều chỉ ra rằng Việt Nam không
thực sự bảo hộ ngành nào.
Trong những năm gần đây, Việt
Nam đã hội nhập sâu với các hiệp định
thương mại tự do đa phương và song
phương. Vấn đề đặt ra với các nhà hoach
định chính sách là làm sao để chính sách
của Việt Nam vẫn đáp ứng được với quá
trình hội nhập mà các ngành quan trọng
vẫn được bảo vệ thông qua tỷ lệ bảo hộ
hữu hiệu. Nghiên cứu này xem xét mức
độ hiệu quả của chính sách bảo hộ của
Việt Nam qua hai kỳ 2012 và 2016 và
đưa ra kịch bản theo định hướng hội
nhập của Việt Nam, trọng tâm là chính
sách bảo hộ đối với ngành nông, lâm,
thủy sản.
2. Kết quả nghiên cứu
a) Nhóm ngành trọng điểm của Việt Nam
Hình 1 cho thấy vốn đầu tư cho khu
vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đều
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư
toàn xã hội. Vậy, những ngành thuộc khu
vực này có phải là những ngành tạo động
lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành
khác? Thông qua các hệ số, như hệ số lan
tỏa, độ nhạy cao và hệ số nhập khẩu thấp,
xác định những ngành có ảnh hưởng tốt
đến nền kinh tế.
Kết quả tính toán từ bảng I/O năm
2016 có sự tương đồng với kết quả từ bảng
I/O năm 2012 (Bảng 1). Bảng I/O 2012
thể hiện cấu trúc giai đoạn 2008-2013 và
bảng I/O 2016 thể hiện cấu trúc giai đoạn
2013-2018 cho thấy cấu trúc của nền kinh
tế hầu như không thay đổi nhiều trong
suốt 10 năm. Những nhóm ngành nhỏ
thuộc khu vực nông, lâm, thủy sản có hệ
số lan tỏa/độ nhạy > 1 đều có hệ số kích
thích nhập khẩu thấp và hệ số lan tỏa đến
giá trị tăng thêm cao. Nhiều ngành thuộc
nhóm ngành công nghiệp có hệ số lan tỏa
cao (7/14 nhóm ngành nhỏ thuộc lĩnh vực
công nghiệp có hệ số lan tỏa > 1), nhưng
các ngành này đều lan tỏa thấp đến giá
trị gia tăng và kích thích nhập khẩu cao.
Điều này cho thấy đây là nhóm ngành gia
công lớn, càng phát triển càng phải nhập
khẩu nhiều. Nhóm ngành dịch vụ không
có độ lan tỏa và kích thích lớn đối với nền
kinh tế, nhưng nhiều ngành nhỏ có hệ số
lan tỏa tốt đến giá trị gia tăng.
Chỉ 2/11 nhóm ngành nhỏ thuộc khu
vực nông, lâm, thủy sản (Bảng 2) có mức
độ lan tỏa đến nền kinh tế lớn hơn mức
bình quân chung: sản phẩm chăn nuôi và
sản phẩm thủy sản nuôi trồng. Nhưng chỉ
ngành thủy sản nuôi trồng có hệ số lan tỏa
đến nhập khẩu nhỏ hơn mức bình quân
và mức độ lan tỏa đến giá trị tăng thêm
VẤN ĐỀ HÔM NAY
25Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
cao hơn mức bình quân chung. Sản phẩm
chăn nuôi có mức độ lan tỏa tốt, nhưng
lan tỏa đến nhập khẩu lại cao hơn mức
bình quân chung.
Một số ngành đầu vào của nông, lâm,
thủy sản, như thức ăn gia súc, gia cầm
và thuỷ sản; phân bón và hợp chất nitơ;
thuốc trừ sâu và sản phẩm hoá chất khác
dùng trong nông nghiệp, có chỉ số lan tỏa
đến giá trị gia tăng khá thấp (Bảng 1).
Điều này có thể do chính sách thuế đối
với nhóm ngành này, những ngành đầu
vào của nông, lâm, thủy sản trong diện
không chịu VAT, tức là những ngành này
không được khấu trừ VAT đầu vào, từ
đó dẫn đến chi phí trung gian không thể
giảm và giá trị tăng thêm ngày càng giảm.
Phải chăng đây là nguyên nhân khiến một
số ngành tuy lan tỏa cao đến nền kinh tế,
nhưng người sản xuất lại gặp khó khăn?
Bảng 2. Độ nhạy, hệ số lan tỏa và hệ số lan tỏa đến giá trị gia tăng, hệ số lan tỏa
đến nhập khẩu của năm 2012 và năm 2016
2012 2016
TT Tên ngành sản phẩm Độ Hệ số Độ Hệ số
nhạy lan tỏa IVA2 IM3 nhạy lan tỏa IVA IM
1 Sản phẩm cây hàng năm 2,252 0,943 1,105 0,747 2,072 0,944 1,097 0,822
2 Sản phẩm cây lâu năm 1,002 0,890 1,106 0,744 0,923 0,909 1,098 0,819
3 Sản phẩm chăn nuôi 1,374 1,522 0,912 1,212 1,241 1,459 0,924 1,140
4 Dịch vụ nông nghiệp 0,834 0,948 1,110 0,736 0,682 0,954 1,093 0,828
5 Các sản phẩm
nông nghiệp khác chưa 0,587 0,657 1,123 0,704 0,527 0,633 1,074 0,863
được phân vào đâu
6 Sản phẩm trồng rừng
và chăm sóc rừng 0,605 0,802 1,163 0,609 1,301 0,885 1,335 0,381
7 Gỗ khai thác 0,588 0,658 0,609 1,939 0,632 0,713 0,727 1,504
8 Sản phẩm lâm sản
khai thác khác; sản 0,629 0,737 1,247 0,405 0,557 0,796 1,295 0,456
phẩm thu nhặt từ rừng
9 Dịch vụ lâm nghiệp 0,669 0,708 1,157 0,622 0,514 0,751 1,212 0,610
10 Sản phẩm
thuỷ sản khai thác 0,739 0,934 0,719 1,677 0,668 0,941 0,734 1,491
11 Sản phẩm thuỷ sản
nuôi trồng 1,063 1,323 0,985 1,036 1,036 1,312 1,010 0,981
Nguồn: Tính toán từ bảng I/O năm 2012 và năm 2016
2 Hệ số lan tỏa đến giá trị tăng thêm (VA).
3 Hệ số lan tỏa đến nhập khẩu.
VẤN ĐỀ HÔM NAY
26Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
Tính toán cũng chỉ ra nhóm ngành
nông, lâm, thủy sản kích thích các ngành
còn lại hơn là các ngành khác kích thích
đến nhóm ngành này (Bảng 4); bình quân
chung, nhóm ngành nông, lâm, thủy sản
tăng một đơn vị sản lượng kích thích các
ngành khác tăng 0,43 đơn vị; trong khi
các ngành khác tăng một đơn vị chỉ kích
thích nhóm ngành nông, lâm, thủy sản
tăng 0,16 đơn vị. Nhóm ngành trồng trọt,
chăn nuôi, thủy sản có độ kích thích cao
nhất đến nền kinh tế. Ở chiều ngược lại,
sản phẩm chế biến, bảo quản thịt và các
sản phẩm từ thịt (ngành 13), thủy sản và
các sản phẩm từ thủy sản chế biến, bảo
quản (ngành 14), rau quả chế biến (ngành
15), sản phẩm xay xát và sản xuất bột
(ngành 17), thức ăn gia súc, gia cầm và
thuỷ sản (ngành 18), sản phẩm chế biến
từ gỗ, tre, nứa (gồm giường, tủ, bàn, ghế),
từ rơm, rạ và vật liệu tết bện (ngành 19)
lan tỏa lớn nhất đến nhóm ngành nông,
lâm, thủy sản.
Để đáp ứng cho một đơn vị tăng lên về
sản lượng của 25 ngành trong nền kinh tế,
đòi hỏi sự đáp ứng nhiều nhất từ sản phẩm
cây hàng năm, tiếp theo là nhóm ngành
chăn nuôi và thứ ba là sản phẩm thủy sản
nuôi trồng (Bảng 5). Ở phía ngược lại, để
tăng một đơn vị sản lượng của 11 ngành
thuộc nhóm nông, lâm, thủy sản, nhu cầu
về sản lượng của 25 ngành cho thấy nhóm
ngành thức ăn gia súc, gia cầm và thủy
sản; phân hóa học, hợp chất nito là hai
nhóm đầu vào lớn nhất cho nhóm ngành
nông, lâm, thủy sản. Nhóm ngành sản
phẩm chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản có
mức độ lan tỏa rất lớn (Bảng 6). Khi cầu
cuối cùng tăng lên, nhu cầu sản lượng làm
đầu vào sản xuất cho các ngành khác của
hai ngành này cao nhất trong 11 nhóm
ngành nông, lâm, thủy sản được khảo sát
trong mô hình. Hơn nữa, hai nhóm ngành
này cũng kích thích sản xuất mạnh nhất
so với các ngành khác trong nền kinh tế
Việt Nam.
Bảng 3. Lan tỏa của cầu cuối cùng nhóm ngành nông, lâm, thủy sản
Tiêu TDCC Tích TLTS TLTS Xuất Xuất Tổng
dùng TDCC Chính lũy cố lưu khẩu khẩu xuất
cuối hộ phủ tài định động hàng dịch khẩu
cùng sản hóa vụ
Tỷ trọng lan tỏa từ cầu
của NLTS đến 0,091 0,100 0,000 0,046 0,016 0,178 0,053 0,000 0,048
VA chính nó
Tỷ trọng lan tỏa từ cầu
của NLTS đến 0,047 0,052 0,000 0,027 0,010 0,106 0,021 0,000 0,019
VA các ngành khác
Tỷ trọng lan tỏa từ cầu
của NLTS đến 0,138 0,152 0,000 0,073 0,026 0,284 0,074 0,000 0,068
GVA cả nước
Nguồn: Tính toán từ bảng I/O năm 2016
VẤN ĐỀ HÔM NAY
27Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
Bảng 3 cho thấy tài sản lưu động (đầu
tư ngắn hạn và cầu tiêu dùng của hộ gia
đình) lan tỏa đến giá trị gia tăng cao nhất
trong các nhân tố của cầu, trong khi xuất
khẩu lan tỏa đến giá trị tăng thêm thấp
nhất. Điều này hàm ý các chính sách về
quản lý cầu cần hướng tới nhân tố nào
của cầu để lan tỏa đến giá trị gia tăng cao
nhất. Sản phẩm nông, lâm, thủy sản bán
trong nước có lợi hơn xuất khẩu, nhưng
mọi chính sách đều hướng vào xuất khẩu
phải chăng là nghịch lý?
b) Đánh giá bảo hộ các ngành sản
xuất của Việt Nam
Gia nhập WTO, hàng hóa của Việt
Nam đối diện với sự cạnh tranh từ hàng
hóa nhập khẩu. Để tăng tính cạnh tranh,
ngoài các yếu tố về chất lượng, giá cả và
xây dựng thương hiệu, Việt Nam phải
thông qua bảo hộ danh nghĩa để bảo vệ
sản xuất trong nước. Bảo hộ sản xuất trong
nước không chỉ có thuế quan, mà còn liên
quan đến VAT, vì giá hàng hóa cuối cùng
tăng lên là do thuế nhập khẩu và VAT. Tỷ
lệ bảo hộ hiệu quả được xác định dựa trên
giá trị tăng thêm khi sản xuất trong nước
có sử dụng đầu vào là sản phẩm sản xuất
trong nước và sản phẩm nhập khẩu. Tuy
nhiên, công thức tính toán (32) chỉ ra rằng
thuế không phải là yếu tố duy nhất giúp
tăng cường bảo hộ trong nước; các yếu
tố để giảm chi phí đầu vào cho sản xuất,
như: công nghệ, sử dụng hiệu quả nguồn
lực,... cũng rất quan trọng.
Tính toán (Bảng 2) cho thấy nhóm
ngành được bảo hộ mạnh mẽ nhất (có
ERP > 1) đều thuộc nhóm ngành đầu ra
của nông, lâm, thủy sản (sản phẩm chế
biến, bảo quản thịt và các sản phẩm từ
thịt; thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản
chế biến, bảo quản; rau quả chế biến).
Nhóm ngành này đều kích thích nhập
khẩu và lan tỏa đến giá trị gia tăng thấp.
Như vậy, nhóm ngành này chưa sử dụng
hết nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước,
mà chủ yếu vẫn là gia công. Nhóm ngành
có ERP < 0 đều thuộc nhóm ngành sản
xuất nông, lâm, thủy sản và nhóm ngành
đầu vào phục vụ cho hoạt động sản xuất
nông, lâm, thủy sản (thức ăn gia súc, gia
cầm và thuỷ sản; phân bón và hợp chất
nitơ). Tuy được ưu tiên miễn VAT, trong
đó ngành chăn nuôi là ngành được ưu
tiên nhiều nhất (miễn VAT và tỷ suất thuế
nhập khẩu đối với đầu vào là 0%), nhưng
kết quả tính toán trên bảng IO phi cạnh
tranh của năm 2012 và năm 2016, tỷ lệ
bảo hộ hữu hiệu vẫn < 0.
Hình 2. Tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu của 11 nhóm ngành thuộc khu vực nông, lâm,
thủy sản năm 2012 và năm 2016
Nguồn tính toán từ bảng I/O năm 2012 và năm 2016
VẤN ĐỀ HÔM NAY
28Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
3. Kết luận và kiến nghị
a) Kết luận
- Trong những năm gần đây, các sản
phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản có hệ
số lan tỏa tốt đến giá trị gia tăng hầu như
không có sự bảo hộ trong sản xuất, mà
lại ưu tiên bảo hộ cho các lĩnh vực công
nghiệp chế biến, chế tạo, tuy các nhóm
ngành này chỉ sản xuất gia công, tạo ra
giá trị gia tăng rất thấp;
- Việc thực hiện lộ trình giảm thuế
trong các hiệp định thương mại đa phương
và song phương đến năm 2020 sẽ khiến tỷ
lệ bảo hộ hữu hiệu của tất cả các ngành
nông, lâm, thủy sản và các ngành đầu vào
của các ngành này đều âm (Bảng 3). Điều
này có thể làm cho những người nông dân
và người tiêu dùng cuối cùng bất lợi, dẫn
đến cấu trúc kinh tế ngày càng lệch lạc;
- Cơ cấu kinh tế Việt Nam hiện nay
chưa hợp lý, chính sách thuế chưa làm
tăng hiệu quả của các sản phẩm nông,
lâm, thủy sản cần bảo vệ. Để tăng giá trị
gia tăng của nền kinh tế, đòi hỏi một cơ
cấu kinh tế hợp lý và một chính sách thuế
hài hòa;
- Tính toán từ bảng cân đối liên ngành
của Việt Nam cho thấy khi nhóm ngành
phân bón chịu thuế suất VAT 5% và được
khấu trừ VAT đầu vào có thể dẫn đến
giá sản xuất của nhóm ngành phân bón
giảm từ 3% đến 4% và đầu vào của nhóm
ngành trồng trọt chỉ giảm được 0,015-
0,02%. Do vậy, Chính phủ có thay đổi
chính sách thuế phân bón từ mức không
(0) sang mức VAT 5%, thì việc bảo hộ
nhóm ngành trồng trọt cũng không thay
đổi được nhiều.
b) Kiến nghị
- Đối với nhóm ngành đầu vào của
nông, lâm, thủy sản (thức ăn chăn nuôi,
thủy sản; phân bón; thuốc trừ sâu,) cần
có chính sách bảo hộ hợp lý làm giảm
giá thành; xây dựng hàng rào tiêu chuẩn
kỹ thuật để hạn chế sản phẩm kém chất
lượng ảnh hưởng đến môi trường;
Nguồn tính toán từ bảng I/O năm 2012 và năm 2016
Hình 3. Tỷ lệ giá trị gia tăng so với giá trị sản xuất của một số ngành thuộc
nhóm ngành nông, lâm, thủy sản
Ngoài ra, kết quả tính toán cũng cho
thấy bảo hộ hữu hiệu đối với nhóm ngành
nông, lâm, thủy sản giảm không chỉ do
chính sách bảo hộ, mà còn do hàm lượng giá
trị gia tăng của nhóm ngành này trong giá trị
sản xuất có xu hướng giảm sút (Hình 3).
VẤN ĐỀ HÔM NAY
29Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
- Đối với nhóm ngành đầu ra của
nông, lâm, thủy sản (công nghiệp chế
biến) đang đứng đầu trong danh sách được
bảo hộ, cần có chính sách khuyến khích
sử dụng nguyên liệu trong nước, hạn chế
nhập khẩu nguyên liệu thô mà Việt Nam
đang sẵn nguồn cung;
- Cần tổ chức ngành nông, lâm, thủy
sản theo hướng: quy hoạch lại vùng sản
xuất; đưa ra các tiêu chuẩn kỹ thuật,
chất lượng; hỗ trợ đầu tư công nghệ; tạo
điều kiện thuận lợi để liên kết người sản
xuất, nhà khoa học, nhà tiêu thụ và chính
quyền địa phương một cách bền chặt, tạo
ra sản phẩm đầu ra đáp ứng được các tiêu
chuẩn kỹ thuật của ngành công nghiệp
chế biến;
- Dân số Việt Nam chiếm 1,27% dân
số thế giới, nhưng từ lâu Việt Nam chỉ
ưu tiên xuất khẩu, bỏ quên thị trường
nội địa. Hàng hóa chất lượng thấp, giá
rẻ, nhất là lương thực, thực phẩm chất
lượng kém, của các nước tràn vào Việt
Nam, trong khi thị trường Việt Nam
không được một hàng rào nào bảo vệ,
từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức
khỏe và chất lượng cuộc sống của người
dân. Vì vậy cần có hoạt động xúc tiến để
sản phẩm nông, lâm, thủy sản chiếm lĩnh
thị trường trong nước./.
Tài liệu tham khảo
1. Bui Trinh, Kiyoshi Kobayashi, Trung Dien Vu, “ Economic Integraation and
Trade Deficit: A Case of Vietnam”, Journal of Economic and International Finance 3
(2011).
2. Ciobanu, C., Mattas, K. and Psaltopoulos, D., 2004. Structural Changes in
Less Developed Areas: An Input–Output Framework. Regional Studies 38 (6), pp.
603–614.
3. Kwang M. K., Bui T., Kaneko F., Secretario T., “Structural Analysis of National
Economy in Vietnam: Comparative Time Series Analysis based on 1989-1996-2000’s
Vietnam I/O Tables” presented at the 18th conference Pan Pacific Association of input-
output studies, Chukyo University, 2007.
4. Nguyen Bich Lam, Bui Trinh, N.V. Phong (2013). Measuring the Effective Rate
of Protection in Vietnam’s Economy after Five Years Joining WTO (An Input-Output
Analysis Approach). Global Journal of HUMAN SOCIAL SCIENCE Sociology &
Culture, Volume 13 Issue 1 Version 1.0.
5. Vietnam GSO (2014). Vietnam input-output table, 2012. Statistics Publisher
House.
6. Nguyễn Phương Thảo (2015). Sử dụng mô hình cân đối liên ngành trong việc
lựa chọn ngành kinh tế trọng điểm của Việt Nam.
Ngày nhận bài: 20/06/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_tich_bao_ho_cua_nganh_nong_nghiep_va_thuy_san.pdf