Một số yếu tố liên quan đến đột biến gen EGFR
Tình trạng đột biến gen EGFR có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về giới tính và tiền sử hút thuốc lá, tỷ lệ đột biến
ở nữ giới cao hơn ở nam giới (66,7 so với 27,5%), ở nhóm
bệnh nhân không hút thuốc lá cao hơn nhóm có tiền sử hút
thuốc lá (53,3% so với 30,3%). Kết quả này phù hợp với
nhiều nghiên cứu khác [5, 6].
Không có sự khác biệt về vị trí hay phương pháp lấy mẫu
bệnh phẩm xét nghiệm giữa nhóm có đột biến và không đột
biến. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn
Thị Lan Anh (2017) [4].
Tỷ lệ đột biến EGFR ở bệnh nhân ung thư biểu mô
tuyến là 38,9%, tương đồng với nghiên cứu trong nước của
Nguyễn Thị Lan Anh (2017), Mai Trọng Khoa và cs (2016)
[4, 5]. Không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ
đột biến gen ở nhóm ung thư biểu mô tuyến và nhóm ung
thư biểu mô khác (vảy và dạng sarcom) là do cỡ mẫu của hai
nhóm chênh lệch khá lớn (339 trường hợp ung thư biểu mô
tuyến nhưng chỉ có 11 trường hợp ung thư biểu mô vảy và
1 trường hợp ung thư biểu mô dạng sarcom). Tuy nhiên, có
thể thấy xu hướng gia tăng tỷ lệ đột biến ở nhóm bệnh nhân
mô bệnh học là ung thư biểu mô tuyến (38,9%) so với nhóm
ung thư biểu mô khác (18,2% ở nhóm ung thư biểu mô vảy
và 0% ở nhóm ung thư biểu mô dạng sarcom).
Xét về mối liên quan giữa đột biến với giai đoạn bệnh,
chúng tôi nhận thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ đột biến
gen ở nhóm bệnh nhân giai đoạn IV so với nhóm bệnh nhân
các giai đoạn còn lại. Nhận xét này phù hợp với kết quả của
Y. Liu và cs (2016) không thấy mối liên quan giữa đột biến
gen EGFR với giai đoạn bệnh [7]. Từ đó có thể thấy đột
biến gen đã xuất hiện từ rất sớm, ảnh hưởng tới tiên lượng
và điều trị bệnh.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích đột biến EGFR trong mẫu mô phủ paraffin và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư phổi không, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
162(7) 7.2020
Khoa học Y - Dược
Đặt vấn đề
Phần lớn các trường hợp UTPKTBN được chẩn đoán ở
bệnh nhân cao tuổi, hơn 50% các trường hợp được chẩn đoán
khi bệnh nhân trên 65 tuổi [1]. Chẩn đoán sớm UTPKTBN
thường khó khăn do triệu chứng lâm sàng hạn chế và không
đặc hiệu. Do đó, hầu hết bệnh nhân UTPKTBN khi được
chẩn đoán đã ở giai đoạn muộn, có di căn xa, phương pháp
điều trị chủ yếu là hóa trị và điều trị triệu chứng. Bệnh nhân
cao tuổi có xu hướng dung nạp hóa trị kém vì thường mắc
các bệnh kèm theo và sự suy yếu các cơ quan trong cơ thể,
vì vậy phần lớn không thể hóa trị liệu tích cực, các lựa chọn
thay thế cho hóa trị thông thường như điều trị nhắm trúng
đích rất đáng được quan tâm [1].
Thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì EGFR mang hoạt tính
tyrosine kinase có vai trò quan trọng trong việc điều hòa
các quá trình sinh trưởng, phát triển, trao đổi chất và sinh lý
của tế bào. Khi EGFR hoạt hóa quá mức do đột biến gen có
thể dẫn đến tăng sinh bất thường cũng như sự chuyển dạng
tế bào gây ra bệnh lý ác tính [2]. Nhiều công trình nghiên
cứu về liệu pháp điều trị đích bằng TKI (tyrosine kinase
inhibitor) [3] đã chứng tỏ hiệu quả tốt, đồng thời tác dụng
phụ tương đối nhẹ so với những tác nhân gây độc tế bào
thông thường nên các thuốc đích được coi là phù hợp cho
bệnh nhân UTPKTBN cao tuổi có đột biến gen. Tuy nhiên,
hiệu quả của TKI phụ thuộc vào tình trạng đột biến gen
EGFR. Vì vậy, bệnh nhân UTPKTBN nên được xét nghiệm
đột biến EGFR một cách thường quy để giúp các bác sĩ lâm
sàng có thể lựa chọn phác đồ phù hợp, nâng cao hiệu quả
điều trị và chất lượng sống của bệnh nhân.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên 351 bệnh nhân
UTPKTBN có chỉ định xét nghiệm đột biến gen EGFR mẫu
mô, điều trị tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu,
Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1/2017 đến tháng 8/2018 đáp
ứng các tiêu chuẩn chọn lựa và tiêu chuẩn loại trừ.
Tiêu chuẩn chọn lựa:
- Bệnh nhân trên 60 tuổi, được chẩn đoán xác định
UTPKTBN dựa vào kết quả mô bệnh học.
Phân tích đột biến EGFR trong mẫu mô phủ paraffin
và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân
ung thư phổi không tế bào nhỏ trên 60 tuổi
Dương Thanh Hiền1, Phạm Cẩm Phương2, Nguyễn Thuận Lợi2, Lê Thị Luyến1*
1Khoa Y dược, Đại học Quốc gia Hà Nội
2Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai
Ngày gửi bài 27/3/2020; ngày chuyển phản biện 31/3/2020; ngày nhận phản biện 25/4/2020; ngày chấp nhận đăng 5/5/2020
Tóm tắt:
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm xác định được tỷ lệ và phân tích một số yếu tố liên quan đến đột biến gen EGFR ở
bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) trên 60 tuổi. Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: phát
hiện đột biến EGFR bằng kỹ thuật Strip Assay từ mẫu mô của 351 bệnh nhân UTPKTBN điều trị tại Bệnh viện
Bạch Mai năm 2017-2018. Kết quả cho thấy, tỷ lệ đột biến gen EGFR là 38,2%, bao gồm: đột biến mất đoạn exon
19 (48,6%), đột biến điểm trên exon 21 (41,6%), đột biến điểm trên exon 18 (4,9%) và đột biến kháng thuốc T790M
trên exon 20 (4,9%). Tỷ lệ đột biến ở nữ (66,7%) cao hơn ở nam (27,5%), ở người không hút thuốc lá (53,3%) cao
hơn ở người hút thuốc (30,3%). Kết luận: tỷ lệ đột biến EGFR ở bệnh nhân UTPKTBN trên 60 tuổi tương đối cao,
trong đó vị trí hay đột biến nhất là exon 19 và 21. Đột biến thường hay gặp ở nữ giới, người không hút thuốc lá, giá
trị maxSUV khối u phổi nguyên phát của nhóm bệnh nhân có đột biến gen thấp hơn so với nhóm không đột biến.
Từ khóa: đột biến gen EGFR, trên 60 tuổi, ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Chỉ số phân loại: 3.2
*Tác giả liên hệ: Email: luyenle66@gmail.com
262(7) 7.2020
Khoa học Y - Dược
- Bệnh nhân có đầy đủ hồ sơ bệnh án bao gồm: thông tin
hành chính, kết quả mô bệnh học, giai đoạn bệnh và một số
xét nghiệm cận lâm sàng.
Tiêu chuẩn loại trừ: loại trừ những trường hợp không
xác định được đột biến EGFR do chất lượng mẫu bệnh
phẩm kém.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu được tiến hành theo
phương pháp mô tả hồi cứu.
Mẫu nghiên cứu: được chọn theo phương pháp chọn
mẫu thuận tiện.
Các biến số, chỉ số trong nghiên cứu: thông tin chung
của đối tượng nghiên cứu (tuổi, giới tính, địa chỉ, tiền sử hút
thuốc lá, vị trí và phương pháp lấy mẫu, kết quả xét nghiệm
mô bệnh học, giai đoạn bệnh, kết quả CEA, Cyfra 21-1,
maxSUV); kết quả xét nghiệm đột biến gen EGFR mẫu mô
(có hay không có đột biến, loại đột biến, vị trí đột biến); xác
định mối liên quan giữa đột biến gen với các đặc điểm của
đối tượng nghiên cứu.
Tách chiết DNA: tách DNA từ mẫu mô vùi paraffin sử
dụng bộ kit PureLink Genomic DNA Mini Kit (Invitrogen
- Mỹ).
Phát hiện, phân tích kết quả đột biến EGFR mẫu mô: đầu
tiên khuếch đại đoạn gen quan tâm bằng phản ứng PCR sử
dụng bộ kit EGFR XL StripAssay® (ViennaLab - Áo). Sau
đó, lai sản phẩm khuếch đại với đầu dò đặc hiệu sử dụng bộ
kit EGFR XL StripAssay® (ViennaLab - Áo). Sau quá trình
lai, các test strip được so sánh với thang chuẩn để đánh giá
kết quả thông qua phần mềm StripAssay Evaluator® được
cung cấp bởi ViennaLab.
Phân tích thống kê: số liệu được thu thập, nhập và mã
hóa bằng phần mềm Excel 2013. Dữ liệu được phân tích
bằng phần mềm SPSS 20.0 với các test thống kê y học, các
yếu tố liên quan đến đột biến gen EGFR có ý nghĩa khi giá
trị p<0,05.
Kết quả nghiên cứu
Đặc điểm nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Tỷ lệ bệnh nhân nam trong nghiên cứu cao gấp 2,6 lần
nữ. Phần lớn có hút thuốc lá (chiếm 65%). Mô bệnh học chủ
yếu là ung thư biểu mô tuyến. Bệnh nhân phát hiện bệnh ở
giai đoạn muộn, đã có di căn chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn các
giai đoạn trước (bảng 1).
Analysis of EGFR mutations
in paraffin-covered tissue samples
and some related factors
from non-small cell lung cancer
patients over 60 years old
Thanh Hien Duong1, Cam Phuong Pham2,
Thuan Loi Nguyen2, Thi Luyen Le1*
1School of Medicine and Pharmacy, Vietnam National University, Hanoi
2The Nuclear Medicine and Oncology Center, Bach Mai Hospital
Received 27 March 2020; accepted 5 May 2020
Abstract:
Objective: to describe EGFR mutation status detected
in tissue samples and analyse some related factors
in NSCLC patients over 60 years old. Methodology:
detecting EGFR mutations by Strip Assay Kit from
351 tissue samples of NSCLC patients at Bach Mai
Hospital 2017-2018. Results: ratio of EGFR is 38.2%,
including exon 19 deletion mutation (48.6%), exon 21
point mutation (41.6%), exon 18 point mutation (4.9%),
and T790M resistant mutation on exon 20 (4.9%).
The mutant rate in females (66.7%) is higher than in
males (27.5%), and shows a higher rate in non-smokers
(53.3%) compared to smokers (30.3%). Conclusions: the
EGFR mutation ratio in NSCLC patients over 60 years
is relatively high, the frequent mutant sites are exon 19
and 21. Mutations are more common in women and non-
smokers. The maxSUV value of primary lung tumors in
patients with gene mutations is lower than in the non-
mutant group.
Keywords: EGFR mutation, non-small cell lung cancer,
over 60 years old.
Classification number: 3.2
362(7) 7.2020
Khoa học Y - Dược
Bảng 1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.
Đặc điểm
Tổng số
Số lượng
(n)
Tỷ lệ
(%)
Giới tính
Nam 255 72,6
Nữ 96 27,4
Tiền sử hút
thuốc lá
Không 120 34,2
Đã hoặc đang hút 231 65,8
Mô bệnh học
Ung thư biểu mô tuyến 339 96,6
Ung thư biểu mô vảy 11 3,1
Ung thư biểu mô dạng sarcom 1 0,3
Giai đoạn
Giai đoạn I 4 1,1
Giai đoạn II 26 7,4
Giai đoạn III 55 15,7
Giai đoạn IV 266 75,8
Tỷ lệ đột biến EGFR
Trong tổng số 351 đối tượng nghiên cứu, có 134 trường
hợp phát hiện đột biến gen EGFR, chiếm tỷ lệ 38,2%, thể
hiện trong hình 1.
Hình 1. Tỷ lệ phát hiện đột biến.
Bảng 2. Tỷ lệ các loại đột biến.
Đặc điểm đột biến EGFR
Số lượng
(n)
Tỷ lệ
(%)
Số lượng đột biến
(134 bệnh nhân)
01 126 94,0
02 8 6,0
Vị trí đột biến
(142 đột biến)
Exon 18
G719A 4
4,9G719C 2
G719S 1
Exon 19
E746_A750del 48
48,6
L747_A750delinsP 10
L747_T751del 2
L747_P753delinsS 9
Exon 20 T790M 7 4,9
Exon 21
L858R 58
41,6
L861Q 1
Trong 134 bệnh nhân phát hiện đột biến, có 8 bệnh nhân
mang hai đột biến nên tổng số đột biến phát hiện được là
142. Trong đó, các đột biến xóa đoạn trên exon 19 là hay
gặp nhất (48,6%), đặc biệt là đột biến xóa đoạn E746_A750.
Đột biến điểm trên exon 21 cũng rất thường gặp (41,6%),
điển hình là đột biến L858R. Các đột biến điểm trên exon 18
tương đối hiếm gặp (4,9%). Đột biến kháng thuốc chiếm tỷ
lệ 4,9% đều là T790M trên exon 20 (bảng 2).
Phân tích một số yếu tố liên quan
Bảng 3. Một số yếu tố liên quan đến đột biến gen EGFR.
Đặc điểm
Số bệnh
nhân nghiên
cứu
Phát hiện đột biến
pSố lượng
(n)
Tỷ lệ
(%)
Giới tính
Nam 255 70 27,5
<0,001
Nữ 96 64 66,7
Tiền sử hút
thuốc lá
Không 120 64 53,3
<0,001
Đã hoặc đang hút 231 70 30,3
Mô bệnh học
Ung thư biểu mô tuyến 339 132 38,9
0,119
Ung thư biểu mô vảy 11 2 18,2
Ung thư biểu mô dạng
sarcom
1 0 0
Vị trí lấy mẫu
U phổi 215 81 37,7
0,298
Tổ chức di căn hạch 30 13 43,3
Tổ chức di căn xa 77 25 32,5
Dịch màng phổi/màng tim 29 15 51,7
Phương pháp
lấy mẫu
Sinh thiết 298 114 38,3
0,081Phẫu thuật 29 7 24,1
Chọc dịch 24 13 54,2
Giai đoạn
Giai đoạn I, II, III 85 31 36,5
0,710
Giai đoạn IV 266 103 38,7
CEA
Bình thường (<4,3 ng/ml) 115 43 37,4
0,833
Tăng (≥4,3 ng/ml) 236 91 38,6
Cyfra 21-1
Bình thường (<3,3 ng/ml) 145 58 40,0
0,555
Tăng (≥3,3 ng/ml) 206 76 36,9
maxSUV u
phổi
Có đột biến EGFR 134 9,9±5,1
0,046
Không đột biến 217 12,2±7,3
maxSUV hạch
Có đột biến EGFR 134 8,4±5,1
0,761
Không đột biến 217 8,7±5,8
maxSUV tổ
chức di căn
Có đột biến EGFR 134 8,0±6,0
0,442
Không đột biến 217 9,0±6,8
Kết quả phân tích ở bảng 3 cho thấy, tỷ lệ đột biến gen
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giới tính và tiền sử
hút thuốc lá, đột biến thường gặp ở nữ giới, người không
hút thuốc lá; không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
về tỷ lệ đột biến với mô bệnh học, giai đoạn bệnh, vị trí
hay phương pháp lấy mẫu xét nghiệm cũng như giá trị định
lượng CEA và Cyfra 21-1; maxSUV trung bình ở nhóm có
đột biến EGFR thấp hơn so với nhóm không đột biến, sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê đối với maxSUV tại khối
u nguyên phát.
Hình 1. Tỷ lệ phát hiện đột biến.
Bảng 2. Tỷ lệ các loại đột biến.
Đặc điểm đột biến EGFR Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Số lượng đột biến
(134 bệnh nhân)
01 126 94,0
02 8 6,0
Vị trí đột biến
(142 đột biến)
Exon 18
G719A 4
4,9 G719C 2
G719S 1
Exon 19
E746_A750del 48
48,6
L747_A750delinsP 10
L747_T751del 2
L747_P753delinsS 9
Exon 20 T790M 7 4,9
Exon 21
L858R 58
41,6
L861Q 1
Trong 134 bệnh nhân phát hiện đột biến, có 8 bệnh nhân mang hai đột biến nên
tổng số đột biến phát hiện được là 142. Trong đó, các đột biến xóa đoạn trên exon 19
là hay gặp nhất (48,6%), đ ặc biệt là đột biến xóa đoạn E746_A750. Đột biến điểm trên
exon 21 cũng rất thường gặp (41,6%), đi ển hình là đột biến L858R. Các đ ột biến điểm
trên exon 18 tương đối hiếm gặp (4,9%). Đ ột biến kháng thuốc chiếm tỷ lệ 4,9% đều
là T790M trên exon 20 (bảng 2).
Phân tích một số yếu tố liên quan
Bảng 3. Một số yếu tố liên quan đ ến đột biến gen EGFR.
Đặc điểm
Số bệnh
nhân
nghiên
cứu
Phát hiện đột biến
p
Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Giới tính Nam 255 70 27,5 <0,001
Phát hiện
đột biến
38,2 %
Không đột
biến
61,8 %
462(7) 7.2020
Khoa học Y - Dược
Bàn luận
Kết quả phân tích đột biến gen EGFR
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 38,2%
trường hợp phát hiện đột biến gen EGFR, phù hợp với một
số nghiên cứu trước đây tại Việt Nam [4, 5]. Tuy nhiên,
kết quả này thấp hơn nhiều nghiên cứu khác tại khu vực
châu Á, nghiên cứu PIONEER [6] cho thấy tỷ lệ đột biến
gen EGFR tại Việt Nam là 64,2%, cao nhất trong bảy nước
tham gia nghiên cứu. Sự khác biệt này là do tiêu chuẩn lựa
chọn không giống nhau. Chúng tôi chỉ tập trung nghiên
cứu đối tượng UTPKTBN trên 60 tuổi, trong khi đó đã có
nhiều công bố trên thế giới cũng như trong nước cho thấy
bệnh nhân nữ, trẻ tuổi, không hút thuốc lá, khu vực Đông Á
thường có tỷ lệ đột biến EGFR cao. Ngoài ra, phương pháp
xét nghiệm đột biến khác nhau (giải trình tự gen, PCR kết
hợp lai đầu dò, Scorpion ARMS, realtime PCR,) cũng là
một yếu tố ảnh hưởng đến kết quả phân tích.
Trong 142 đột biến phát hiện được ở 134 bệnh nhân (8
bệnh nhân mang 2 đột biến), đa số các đột biến phát hiện
trên exon 19 (48,6%) và exon 21 (41,6%). Đột biến kháng
thuốc T790M trên exon 20 chiếm 4,9%, thường kết hợp với
một đột biến trên exon khác. Xét về tính đáp ứng với thuốc
TKI, 95,1% đột biến trong nghiên cứu làm tăng tính nhạy
cảm của khối u với TKI, chỉ có 7 trường hợp mang đột biến
T790M liên quan đến kháng thuốc TKI thế hệ 1. Kết quả
này phù hợp với đa số các nghiên cứu trên thế giới cũng
như tại Việt Nam [4-6] với đột biến mất đoạn trên exon 19
và đột biến điểm (L858R) trên exon 21 là hai loại đột biến
hay gặp nhất.
Một số yếu tố liên quan đến đột biến gen EGFR
Tình trạng đột biến gen EGFR có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về giới tính và tiền sử hút thuốc lá, tỷ lệ đột biến
ở nữ giới cao hơn ở nam giới (66,7 so với 27,5%), ở nhóm
bệnh nhân không hút thuốc lá cao hơn nhóm có tiền sử hút
thuốc lá (53,3% so với 30,3%). Kết quả này phù hợp với
nhiều nghiên cứu khác [5, 6].
Không có sự khác biệt về vị trí hay phương pháp lấy mẫu
bệnh phẩm xét nghiệm giữa nhóm có đột biến và không đột
biến. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn
Thị Lan Anh (2017) [4].
Tỷ lệ đột biến EGFR ở bệnh nhân ung thư biểu mô
tuyến là 38,9%, tương đồng với nghiên cứu trong nước của
Nguyễn Thị Lan Anh (2017), Mai Trọng Khoa và cs (2016)
[4, 5]. Không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ
đột biến gen ở nhóm ung thư biểu mô tuyến và nhóm ung
thư biểu mô khác (vảy và dạng sarcom) là do cỡ mẫu của hai
nhóm chênh lệch khá lớn (339 trường hợp ung thư biểu mô
tuyến nhưng chỉ có 11 trường hợp ung thư biểu mô vảy và
1 trường hợp ung thư biểu mô dạng sarcom). Tuy nhiên, có
thể thấy xu hướng gia tăng tỷ lệ đột biến ở nhóm bệnh nhân
mô bệnh học là ung thư biểu mô tuyến (38,9%) so với nhóm
ung thư biểu mô khác (18,2% ở nhóm ung thư biểu mô vảy
và 0% ở nhóm ung thư biểu mô dạng sarcom).
Xét về mối liên quan giữa đột biến với giai đoạn bệnh,
chúng tôi nhận thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ đột biến
gen ở nhóm bệnh nhân giai đoạn IV so với nhóm bệnh nhân
các giai đoạn còn lại. Nhận xét này phù hợp với kết quả của
Y. Liu và cs (2016) không thấy mối liên quan giữa đột biến
gen EGFR với giai đoạn bệnh [7]. Từ đó có thể thấy đột
biến gen đã xuất hiện từ rất sớm, ảnh hưởng tới tiên lượng
và điều trị bệnh.
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giá trị maxSUV
trung bình tại khối u phổi nguyên phát với tỷ lệ đột biến
gen, cụ thể là giá trị maxSUV trung bình tại u phổi thấp hơn
ở bệnh nhân UTPKTBN có đột biến gen EGFR, nhận định
này tương đồng với một số nghiên cứu của tác giả I.L. Na
và cs (2010), R.H. Mak và cs (2011) [8, 9].
Ngoài maxSUV, các chất chỉ điểm khối u cũng là một
xét nghiệm hay sử dụng trên lâm sàng trong việc đánh giá
mức độ tiến triển, theo dõi đáp ứng điều trị ung thư. Nghiên
cứu của E.Y. Romero-Ventosa và cs (2015) [10] cho rằng
CEA là một chỉ số tiên lượng độc lập trong việc tiên lượng
đáp ứng của khối u với thuốc TKI. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi không nhận thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê về nồng độ CEA và Cyfra 21-1 với tình trạng đột biến
gen EGFR. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu tại Việt
Nam của Nguyễn Thị Lan Anh (năm 2017) [4].
Hiện nay, xét nghiệm thường quy đột biến gen EGFR
gặp một số khó khăn, đặc biệt trong những trường hợp
khối u ở những vị trí khó sinh thiết, hoặc bệnh nhân từ chối
sinh thiết. Vì vậy, trên thực hành lâm sàng, các chỉ số như
maxSUV, chất chỉ điểm khối u, đặc điểm mô bệnh học, cũng
như đặc điểm về giới tính, tình trạng hút thuốc lá có thể góp
phần dự đoán khả năng đột biến gen EGFR ở bệnh nhân
UTPKTBN trên 60 tuổi.
Kết luận
Qua nghiên cứu phát hiện đột biến EGFR bằng kỹ thuật
Strip Assay từ mẫu mô của 351 bệnh nhân UTPKTBN trên
60 tuổi điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai năm 2017-2018,
chúng tôi rút ra những kết luận sau:
- Tỷ lệ đột biến gen EGFR chiếm 38,2% số bệnh nhân
UTPKTBN trên 60 tuổi.
- Trong số những đột biến, đột biến xóa đoạn exon 19
chiếm 48,6%; đột biến điểm trên exon 21 chiếm 41,6% và
trên exon 18 chiếm 4,9%; đột biến kháng thuốc T790M trên
exon 20 chiếm 4,9%.
562(7) 7.2020
Khoa học Y - Dược
- Tỷ lệ đột biến ở nữ (66,7%) cao hơn ở nam (27,5%),
ở người không hút thuốc lá (53,3%) cao hơn ở người hút
thuốc (30,3%).
- Giá trị maxSUV khối u phổi nguyên phát của nhóm
bệnh nhân có đột biến gen thấp hơn so với nhóm không đột
biến.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu này được thực hiện dưới sự giúp đỡ của các
bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên tại Đơn vị Gen - Tế bào
gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện
Bạch Mai. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] C. Gridelli, E. Massarelli, P. Maione, et al. (2004), “Potential
role of molecularly targeted therapy in the management of advanced
nonsmall cell lung carcinoma in the elderly”, Cancer, 101(8),
pp.1733-1744.
[2] Nguyễn Minh Hà (2012), “Vai trò đột biến gen EGFR trong
liệu pháp điều trị đích bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ”, Tạp chí
Y học TP Hồ Chí Minh, 16(1), tr.1-6.
[3] A. Daste, C. Chakiba, C. Domblides, et al. (2016), “Targeted
therapy and elderly people: a review”, European Journal of Cancer,
69, pp.199-215.
[4] Nguyễn Thị Lan Anh (2017), Nghiên cứu đặc điểm đột biến
gen EGFR và mối liên quan với lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân
ung thư phổi biểu mô tuyến, Luận án TS y học, Học viện Quân y.
[5] Mai Trọng Khoa, Trần Đình Hà, Phạm Cẩm Phương và cộng
sự (2016), “Xác định đột biến gen EGFR trên bệnh nhân ung thư phổi
không tế bào nhỏ tại Bệnh viện Bạch Mai”, Tạp chí Ung thư học Việt
Nam, 3, tr.271-277.
[6] Y. Shi, J.S. Au, S. Thongprasert, et al. (2014), “A prospective,
molecular epidemiology study of EGFR mutations in Asian patients
with advanced non-small-cell lung cancer of adenocarcinoma
histology (PIONEER)”, J. Thorac. Oncol., 9(2), pp.154-162.
[7] Y. Liu, J. Kim, F. Qu, et al. (2016), “CT Features associated
with epidermal growth factor receptor mutation status in patients with
lung adenocarcinoma”, Radiology, 280(1), pp.271-280.
[8] I.L. Na, B.H. Byun, K.M. Kim, et al. (2010), “18F-FDG uptake
and EGFR mutations in patients with non-small cell lung cancer: a
single-institution retrospective analysis”, Lung Cancer, 67(1), pp.76-
80.
[9] R.H. Mak, S.R. Digumarthy, A. Muzikansky, et al. (2011),
“Role of 18F-fluorodeoxyglucose positron emission tomography in
predicting epidermal growth factor receptor mutations in non-small
cell lung cancer”, Oncologist, 16(3), pp.319-336.
[10] E.Y. Romero-Ventosa, S. Blanco-Prieto, A.L. Gonzalez-
Pineiro, et al. (2015), “Pretreatment levels of the serum biomarkers
CEA, CYFRA 21-1, SCC and the soluble EGFR and its ligands EGF,
TGF-alpha, HB-EGF in the prediction of outcome in erlotinib treated
non-small-cell lung cancer patients”, SpringerPlus, 4, DOI: 10.1186/
s40064-015-0891-0.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
phan_tich_dot_bien_egfr_trong_mau_mo_phu_paraffin_va_mot_so.pdf