Nghề lưới kéo đơn xa bờ của tỉnh Bến Tre
có 687 chiếc, chiếm 18,8% tổng số tàu khai thác
thủy sản của tỉnh Bến Tre. Tàu có công suất
trung bình là 258 CV/tàu và trọng tải trung bình
25,3 tấn/tàu.
 Nghề lưới kéo xa bờ ở tỉnh Bến Tre có thể
khai thác quanh năm ở cả hai ngư trường Đông
Nam Bộ và Tây Nam Bộ và khai thác trung bình
11,4 chuyến biển/năm. Kích thước mắt lưới ở đụt
2a=20,3 mm nhỏ hơn qui định nên sản lượng khai
thác trung bình đạt khá cao (91,3 tấn/tàu/năm) và
cá tạp chiếm tỉ lệ cao (52%).
 Tổng chi phí trung bình của một chuyến
biển là 276 triệu đồng và lợi nhuận trung bình là
39,2 triệu đồng/chuyến biển, với tỉ suất lợi nhuận
là 0,19. Không có hộ ngư dân làm nghề lưới kéo
đơn xa bờ nào bị thua lỗ.
 Khó khăn chung hiện nay của nghề lưới kéo
đơn xa bờ là giá nhiên liệu tăng cao, thị trường tiêu
thụ sản phẩm không ổn định, thiếu vốn và thiếu
lao động.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 761 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích hiệu quả kỹ thuật và tài chính của nghề lưới kéo xa bờ (>90 cv) ở tỉnh Bến Tre, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 38 (2015)(1): 88-94 
 88 
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ KỸ THUẬT VÀ TÀI CHÍNH 
CỦA NGHỀ LƯỚI KÉO XA BỜ (>90 CV) Ở TỈNH BẾN TRE 
Nguyễn Thanh Long1 
1 Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ 
Thông tin chung: 
Ngày nhận: 07/08/2014 
Ngày chấp nhận: 09/06/2015 
Title: 
Performance analysis of 
financial and technical the 
offshore trawlers (> 90 CV) 
in Ben Tre Province 
Từ khóa: 
Khai thác thủy sản, xa bờ, 
lưới kéo, kỹ thuật, tài chính 
Keywords: 
Fishing, offshore, trawler, 
technical, financial 
ABSTRACT 
Studying offshore trawler activities was conducted from January to June 
2014 in three coastal districts of Ben Tre province such as Ba Tri, Binh 
Dai and Thanh Phu districts. It was interviewed with 35 offshore trawler 
households with main contents such as number of boats, fishing crops, 
fishing grounds, main exploited species, yields and financial performance. 
Results showed that the number of offshore trawler in Ben Tre province 
was 687 fishing boats, accounting for 18.8% of the total number of fishing 
vessels in Ben Tre. Offshore trawlers with average capacity of 258 
CV/vessel and average tonnage 25.3 tons/vessel. The average of yield was 
91.3 tons/vessel/year, which accounted for 52% of trash fish. The total 
average cost of a fishing trip was 276 million VND and net return was 
39.2 million VND/fishing trip, benefit ratio was 0.19. No household trawl 
fishermen offshore was lost. Difficulties of the present offshore trawlers 
application were high fuel prices, consumer product market instability, 
lack of capital and labor shortage. 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu hoạt động của nghề lưới kéo xa bờ được thực hiện từ tháng 01 
đến tháng 6/2014 tại 3 huyện ven biển của tỉnh Bến Tre là huyện Ba Tri, 
Bình Đại và Thạnh Phú. Đề tài đã tiến hành phỏng vấn 35 hộ ngư dân làm 
nghề lưới kéo đơn xa bờ với nội dung về số tàu thuyền, ngư trường, mùa 
vụ khai thác, những loài khai thác chính, sản lượng khai thác và hiệu quả 
tài chính. Kết quả cho thấy nghề lưới kéo đơn xa bờ của tỉnh Bến Tre có 
687 chiếc, chiếm 18,8% tổng số tàu khai thác thủy sản của tỉnh Bến Tre. 
Tàu có công suất trung bình là 258 CV/tàu và trọng tải trung bình 25,3 
tấn/tàu. Sản lượng khai thác trung bình là 91,3 tấn/tàu/năm, trong đó cá 
tạp chiếm 52%. Tổng chi phí trung bình của một chuyến biển là 276 triệu 
đồng và lợi nhuận trung bình là 39,2 triệu đồng/chuyến biển, với tỉ suất lợi 
nhuận là 0,19. Không có hộ ngư dân làm nghề lưới kéo đơn xa bờ nào bị 
thua lỗ. Khó khăn chung hiện nay của nghề lưới kéo đơn xa bờ là giá 
nhiên liệu tăng cao, thị trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định, thiếu vốn 
và thiếu lao động. 
1 GIỚI THIỆU 
1.1 Đặt vấn đề 
Việt Nam có 3.260 km bờ biển, 12 đầm phá, eo 
biển và vịnh, 112 cửa sông và hàng ngàn đảo lớn 
nhỏ trải dọc bờ biển cùng hệ thống sông ngòi 
chằng chịt và hồ chứa tạo nên tiềm năng lớn về 
khai thác thủy sản (KTTS) (Lê Trần Nguyên Hùng, 
2009). 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 38 (2015)(1): 88-94 
 89 
Tổng sản lượng thủy sản (SLTS) năm 2012 đạt 
5,7 triệu tấn trong đó KTTS đóng góp một phần 
lớn trong SLTS của toàn ngành với sản lượng khai 
thác (SLKT) đạt 2,6 triệu tấn chiếm gần 45,8% 
tổng SLTS của cả nước (Tổng cục Thống kê, 
2013). 
Đồng bằng sông Cửu Long với bờ biển dài trên 
780 km chiếm 23% chiều dài bờ biển cả nước, 
vùng đặc quyền kinh tế khoảng 297.000 km2 giáp 
biển Đông và Vịnh Thái Lan, vùng thềm lục địa có 
thế mạnh về thủy sản với trữ lượng thủy sản ước 
trên 2 triệu tấn và khả năng khai thác khoảng 
830.000 tấn/năm, rất thuận lợi cho phát triển kinh 
tế biển. Sản lượng KTTS hàng năm luôn đứng đầu 
cả nước (Lê Văn Ninh, 2006). 
SLKT của nghề lưới kéo chiếm khoảng 
40%/năm tổng sản lượng cá biển khai thác, số 
lượng tàu thuyền của nghề chiếm khoảng 27% tổng 
số tàu thuyền lắp máy của cả nước. Theo công suất, 
tàu lưới kéo từ 20-90 CV chiếm 24,3%, tàu lớn hơn 
90 CV chiếm 46,7% cơ cấu tàu thuyền trong cơ 
cấu nghề KTHS. Tuy nhiên, cơ cấu nghề khai thác 
lưới kéo đang giảm dần (từ 22,5% năm 2001 còn 
17,6% năm 2010). Hiện nay, theo quy hoạch phát 
triển thủy sản, tàu thuyền lưới kéo khai thác sẽ 
giảm, không được khai thác tại vùng biển ven bờ; 
ngư dân hoạt động nghề lưới kéo ven bờ phải 
chuyển đổi nghề hoặc khai thác xa bờ theo hướng 
dẫn, hỗ trợ của cơ quan chức năng (Tổng cục 
Thống kê, 2013). 
Bến Tre là tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông 
Cửu Long, có nhiều điều kiện tự nhiên - xã hội 
thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, đặc biệt là 
kinh tế thủy sản. Tỉnh có diện tích tự nhiên là 2.360 
km2, do phù sa của 4 con sông lớn bồi tụ thành 
(sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông, sông 
Cổ Chiên) và đã chia địa hình tỉnh thành ba dãy cù 
lao lớn: cù lao An Hóa, cù lao Bảo và cù lao Minh; 
tỉnh có hơn 65 km bờ biển, với hệ thống kênh rạch 
chằng chịt trong nội đồng, nhiều bãi bồi, cồn nổi là 
điều kiện thích hợp cho phát triển kinh tế thủy sản 
(Lê Ngọc Bữu, 2012). 
Hàng năm, nguồn lợi thủy sản (NLTS) khai 
thác từ nghề lưới kéo đã mang lại thu nhập và là 
nguồn sinh kế chính cho ngư dân vùng ven biển. 
Mặc dù có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển nghề 
KTTS xa bờ nhưng nghề này chưa được phát triển 
mạnh và ổn định, để hiểu rõ về hoạt động của nghề 
khai thác xa bờ đặc biệt là nghề lưới kéo, đề tài 
“Phân tích hiệu quả tài chính của nghề lưới kéo xa 
bờ (>90 CV) ở tỉnh Bến Tre” đã được thực hiện. 
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 
Khảo sát phân tích hiệu quả kỹ thuật và tài 
chính của nghề lưới kéo đơn xa bờ ở tỉnh Bến Tre 
nhằm cung cấp thông tin làm cơ sở cho việc quản 
lý nghề khai thác xa bờ nói chung và nghề lưới kéo 
đơn xa bờ ở tỉnh Bến Tre nói riêng hoạt động khai 
thác ổn định ở vùng biển xa bờ. 
2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu 
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1/2014 đến 
tháng 5/2013 tại huyện Ba Tri, huyện Bình Đại và 
huyện Thạnh Phú thuộc tỉnh Bến Tre. 
2.2 Số liệu thứ cấp 
Số liệu thứ cấp gồm số lượng tàu thuyền, sản 
lượng khai thác thủy sản, hình thức quản lý khai 
thác thủy sản được tổng hợp từ các báo cáo của 
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bến 
Tre, Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy 
sản. Các nghiên cứu có liên quan, tạp chí chuyên 
ngành, luận văn tốt nghiệp đại học và các website 
chuyên ngành cũng được tham khảo để viết báo 
cáo này. 
2.3 Số liệu sơ cấp 
Nghiên cứu đã phỏng vấn trực tiếp 35 hộ làm 
nghề lưới kéo đơn xa bờ theo bảng câu hỏi soạn 
sẵn để tìm hiểu những thông tin như: 
 Những thông tin chung về chủ tàu và 
thuyền trưởng. 
 Lực lượng lao động trong gia đình và 
trên tàu. 
 Số năm kinh nghiệm của thuyền trưởng. 
 Hiện trạng khai thác của nghề lưới kéo (kết 
cấu tàu, ngư cụ, ngư trường, mùa vụ, thời gian khai 
thác của chuyến biển và trong năm. 
 Những loài khai thác (loài kinh tế và cá tạp) 
 Sản lượng khai thác thủy sản theo chuyến 
và theo năm. 
 Hình thức tiêu thụ sản phẩm. 
 Đánh giá hiệu quả tài chính (chi phí, doanh 
thu, lợi nhuận). 
 Những thuận lợi và khó khăn của nghề lưới 
kéo xa bờ. 
2.4 Phương pháp xử lí và phân tích số liệu 
Phần mềm Excel được sử dụng để nhập và phân 
tích số liệu. Các số liệu về khí cạnh kỹ thuật và tài 
chính được thể hiện qua tần số suất hiện, giá trị 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 38 (2015)(1): 88-94 
 90 
trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất, giá trị 
nhỏ nhất. 
Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính được tính dựa 
trên những công thức sau (tính cho 1 chuyến biển): 
 Tổng thu nhập = tổng số tiền bán sản phẩm. 
 Tổng chi phí = Tổng chi phí biến đổi + 
Tổng chi phí cố định (chi phí khấu hao một 
chuyến). 
 Lợi nhuận = Tổng thu nhập – Tổng chi phí. 
 Tỉ suất lợi nhuận = Tổng lợi nhuận/Tổng 
chi phí. 
Đối với các câu hỏi mở (nêu những thuận và 
khó khăn) thì 1 ý trả lời được cho 1 lần quan sát, 
sau đó các ý được xếp hạng từ cao đến thấp để xác 
định tầm quan trọng của các ý. 
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1 Tình hình phát triển nghề KTTS ở Bến Tre 
Nghề KTTS ở tỉnh Bến Tre đã có từ lâu đời, 
hầu hết cộng đồng dân cư ven biển đông đúc chủ 
yếu sinh kế dựa vào nghề KTTS truyền thống. Tính 
đến tháng 12/2013, toàn tỉnh có 3.651 tàu KTTS, 
với tổng SLKT là 152.659 tấn. Từ năm 2008 đến 
năm 2013, số lượng tàu KTTS có xu hướng giảm, 
từ 4.422 chiếc năm 2008 giảm xuống còn 3.651 
chiếc vào năm 2013. Nhưng SLKT lại tăng, từ 
89.983 tấn năm 2008 tăng lên 152.659 tấn trong 
năm 2013. Các nghề chủ lực là lưới kéo với 2.571 
tàu, chiếm 70,4% tổng số tàu thuyền KTTS và lưới 
rê với 547 tàu, chiếm 15% tổng số tàu thuyền 
KTTS. 
Bảng 1: Số lượng và sản lượng của tàu KTTS 
theo nghề năm 2013 ở tỉnh Bến Tre 
Nghề khai 
thác 
Số lượng tàu Sản lượng 
Chiếc Tỉ lệ (%) Tấn Tỉ lệ (%) 
Cào đơn 1.799 49,8 41.731 27,3 
Cào đôi 772 21,4 89.839 58,9 
Lưới rê 547 15,1 7.502 4,91 
Nghề câu 160 4,43 322 0,21 
Vây 82 2,34 9.104 5,97 
Nghề khác 250 6,93 4.161 2,71 
Tổng 3.610 100 152.659 100 
Nghề lưới kéo đơn có số lượng tàu KTTS nhiều 
nhất, chiếm 49,8% tổng số lượng tàu KTTS toàn 
tỉnh nhưng SLKT chỉ chiếm 27,3% tổng SLKT 
toàn tỉnh. Lưới kéo đôi có 772 tàu, chiếm 21,4% 
tổng số lượng tàu KTTS toàn tỉnh nhưng SLKT rất 
lớn, chiếm 58,9% SLKT toàn tỉnh (Bảng 1). Các 
ngành nghề KTTS khác như: lưới rê, lưới vây, 
nghề câu chiếm tỉ trọng nhỏ trong KTTS ở tỉnh 
Bến Tre. Lưới vây ánh sáng có số lượng tàu khai 
thác thấp (chiếm khoảng 2,3% tổng số lượng tàu 
KTTS), nhưng hiệu quả tương đối cao với SLKT 
chiếm gần 6% tổng SLKT (Chi cục KT&BVNLTS 
tỉnh Bến Tre, 2013). 
Song song đó, dịch vụ hậu cần nghề cá ngày 
càng được hoàn thiện, kết cấu hạ tầng đã được đầu 
tư khá đồng bộ. Toàn tỉnh có 5 nhà máy chế biến 
thủy sản, với tổng công suất thiết kế là 50.000 
tấn/năm. Hai cảng cá Ba Tri và Bình Đại hàng năm 
tiếp nhận trên 60.000 tấn thủy sản các loại và cung 
cấp nhu yếu phẩm cho tàu cá ra khơi hoạt động; 
cảng cá Thạnh Phú, khu neo đậu tránh trú bão cho 
tàu cá của huyện Bình Đại hoạt động cũng đạt hiệu 
quả góp phần quan trọng đưa nghề KTTS tỉnh Bến 
Tre phát triển ổn định (Chi cục KT&BVNLTS tỉnh 
Bến Tre, 2013). 
3.2 Khía cạnh kỹ thuật của nghề lưới kéo 
xa bờ ở tỉnh Bến Tre 
Kết quả khảo sát cho thấy lưới kéo đơn xa bờ ở 
tỉnh Bến Tre có công suất trung bình là 258 
CV/tàu, tải trọng trung bình là 25,3 tấn/tàu (Bảng 
2). Loại tàu có công suất từ 90-150 CV/tàu chiếm 
khoảng 18% tổng số tàu làm nghề lưới kéo đơn xa 
bờ (Chi cục KT&BVNLTS tỉnh Bến Tre, 2013). 
Bảng 2: Công suất và tải trọng của tàu lưới kéo 
đơn xa bờ ở tỉnh Bến Tre 
Nội dung  Giá trị 
Tải trọng của tàu (tấn) 25,3±8,9 
Công suất của máy tàu (CV)  258±92 
Để trang bị cho tàu hoạt động xa bờ, máy tàu 
thường được trang bị công suất lớn, những tàu có 
công suất từ 90-150 CV thường là những tàu 
chuyển đổi nghề từ khai thác ven bờ ra xa bờ. Đây 
cũng là hướng đi chung của ngành KTTS cả nước, 
để bảo vệ NLTS và phát triển bền vững nghề 
KTTS. 
Lưới kéo đơn xa bờ có kích thước mắt lưới lớn 
nhất ở cánh trung bình là 2a=226 mm, giảm dần 
xuống đụt lưới, có kích thước nhỏ nhất trung bình 
là 2a=20,3 mm (Bảng 3). 
Bảng 3: Kích thước mắt lưới của lưới kéo đơn 
xa bờ ở tỉnh Bến Tre 
Nội dung  Giá trị 
Kích thước 2a ở cánh lưới (mm) 226±58 
Kích thước 2a ở thân lưới (mm) 94,8±24,2 
Kích thước 2a ở đụt lưới (mm) 20,3±4,01 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 38 (2015)(1): 88-94 
 91 
Theo qui định kích thước tối thiểu 2a phải lớn 
hơn hoặc bằng 40 mm (Bộ Nông nghiệp và Phát 
triển nông thôn, 2013). Theo kết quả nghiên cứu thì 
kích thước mắt lưới ở đụt lưới kéo nhỏ hơn kích 
thước mắt lưới qui định, đều này cho thấy hoạt 
động của nghề lưới kéo xa bờ sẽ làm ảnh hưởng 
đến nguồn lợi thủy sản vì lưới đánh bắt nhiều cá 
con. Chính vì vậy, cần phải thường xuyên kiểm tra 
ngư cụ đồng thời tuyên truyền cho ngư dân để đảm 
bảo kích thước mắt lưới đúng với quy định, bảo vệ 
và phát triển bền vững NLTS. 
Bảng 4: Lực lượng lao động của tàu lưới kéo đơn xa bờ ở tỉnh Bến Tre 
Nội dung Giá trị Tỉ lệ (%) 
Tổng số lao động trong gia đình (người/hộ) 2,54±0,89 
Số lao động trong gia đình tham gia nghề này (người) 1,97±0,71 33,5 
Số lao động thuê mướn thêm trên tàu (người) 3,91±1,72 66,5 
Tổng số lao động trên tàu (người/tàu) 5,88±1,34 100 
Trung bình mỗi hộ KTTS có 2,54 lao động, 
trong đó có 1,97 lao động gia đình tham gia sản 
xuất trực tiếp trên tàu (77,6%), ngoài ra ở một số 
hộ có lao động gia đình tham gia lao động gián tiếp 
như quản lý tài chính, tiêu thụ sản phẩm KTTS 
hoặc chuẩn bị nhiên liệu, lương thực và các thứ cần 
thiết phục vụ cho chuyến khai thác trên biển. Bên 
cạnh đó, qua kết quả khảo sát cho thấy tổng số lao 
động trên tàu lưới kéo xa bờ trung bình là 5,88 
người/tàu (Bảng 4) thì lao động gia đình chỉ đáp 
ứng được 33,5% lao động trên tàu, còn lại là 66,5% 
phải thuê mướn thêm lao động, có nghĩa là phát 
triển nghề lưới kéo xa bờ không những tạo việc 
làm cho gia đình mà còn tạo việc làm cho người 
dân sống vùng ven biển. Tuy nhiên thời gian qua 
do giá nhiên liệu tăng cao, thu nhập không ổn định 
và thấp nên nhiều lao động vùng ven biển đã tìm 
những việc làm khác có thu nhập cao hơn nên việc 
thuê mướn nhân công để KTTS hiện nay cũng gặp 
nhiều khó khăn. 
Thời gian kéo một mẻ lưới trung bình là 5,03 
giờ, thời gian khai thác một chuyến biển của nghề 
lưới kéo đơn xa bờ tương đối dài (trung bình kéo 
dài 32,5 ngày/chuyến biển). Trung bình mỗi năm 
có thể khai thác được 11,3 chuyến biển. Ở các ngư 
trường khai thác gần vùng biển Bến Tre, thời gian 
khai thác chỉ khoảng 5-6 tháng/năm. Hàng năm, 
các tàu lưới kéo đơn xa bờ có thể khai thác được 
trung bình 7,63 tháng (Bảng 5). 
Với hình thức tổ chức tổ đội tàu KTTS ngày 
càng phổ biến thì thời gian bám biển của tàu lưới 
kéo đơn xa bờ ngày càng tăng, SLKT cũng tăng 
đáng kể, tiết kiệm được chi phí vận chuyển đồng 
thời chất lượng sản phẩm cũng tốt hơn. 
Tàu lưới kéo xa bờ ở tỉnh Bến Tre khai thác ở 
cả 2 ngư trường là Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. 
Mùa vụ khai thác hải sản có 2 vụ chính, đó là vụ cá 
Nam (tháng 4 - 10) và vụ cá Bắc (tháng 11 đến 
tháng 3 năm sau). Hàng năm, tùy theo mùa vụ mà 
tàu di chuyển ngư trường khác nhau. Vụ Bắc, tàu 
di chuyển ra vùng Tây Nam Bộ; vụ cá Nam tàu tập 
trung ở vùng biển miền Đông Nam Bộ (Chi cục 
KT&BVNLTS tỉnh Bến Tre, 2013). 
Bảng 5: Thời gian khai thác của nghề lưới kéo 
đơn xa bờ ở tỉnh Bến Tre 
Nội dung Giá trị 
Thời gian trung bình một mẻ lưới (giờ) 5,03±1,04 
Số ngày khai thác/một chuyến biển (ngày) 32,5±8,41 
Số chuyến biển/năm (chuyến) 11,4±3,14 
Số tháng khai thác trong một năm (tháng) 7,63±1,46 
Sản lượng trung bình của một chuyến biển là 
17.080 kg/tàu và SLKT trung bình cả năm là 91,3 
tấn/tàu/năm (Bảng 6). SLKT cao nhất vào tháng 4 
và tháng 5, thấp nhất vào tháng 1 chủ yếu do tập 
quán nghỉ mùa của ngư dân, tàu ngưng hoạt động 
với số lượng lớn. Kết quả cho thấy SLKT của nghề 
lưới kéo đơn là rất cao so với các ngành nghề khai 
thác khác (chỉ kém hơn SLKT của lưới kéo đôi xa 
bờ), tuy nhiên chất lượng sản phẩm khai thác còn 
kém, tỉ lệ cá tạp cao. Nghề cào đơn năm 2013 giảm 
nhiều so với 2012 do kém hiệu quả trong khai 
thác và xu hướng chuyển từ nghề cào đơn sang 
cào đôi, từ 55.657 tấn trong năm 2012 giảm xuống 
còn 41.731 tấn trong năm 2013 (Chi cục 
KT&BVNLTS tỉnh Bến Tre, 2013). 
Bảng 6: Sản lượng của nghề lưới kéo đơn xa bờ 
ở tỉnh Bến Tre 
Nội dung Giá trị 
Sản lượng một mẻ lưới (kg) 267±56,6 
Sản lượng một chuyến (kg/tàu/chuyến) 17.080±8.701 
Sản lượng một năm (tấn/tàu/năm) 91,3±23,5 
Lưới kéo đơn xa bờ khai thác chủ yếu các loài 
có giá trị kinh tế như: mực (9,46% tổng SLKT), cá 
hố (8,21%), cá đổng (7,11%). Ngoài ra, còn có 
những loài có giá trị kinh tế cao nhưng sản lượng 
tương đối thấp như: ghẹ (2,82%), tôm các loại 
(4,77%). Cá tạp chiếm 52% tổng SLKT của tàu 
lưới kéo đơn xa bờ (Bảng 7). 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 38 (2015)(1): 88-94 
 92 
Bảng 7: SLKT theo thành phần loài của nghề lưới kéo đơn xa bờ ở tỉnh Bến Tre 
Tên loài Sản lượng bình quân/mẻ (kg) Tỷ lệ (%) 
Mực (Sthenoteuthis oualaniensis) 43,1±15 9,46 
Cá hố (Trihiurus muiticus) 37,5±3,54 8,21 
Cá đổng (Branchiostegus japonicus) 32,5±14,3 7,11 
Cá mối (Saurida tumbil) 30,6±14 6,72 
Cá đù (Argyrosomus argentatus) 25,7±10,2 5,62 
Tôm (các loại) 21,7±7,12 4,77 
Cá chai (Platyce phalus indicus) 15 3,29 
Ghẹ (Portunus pelagicus) 12,5±4,98 2,82 
Tỉ lệ cá tạp 140±53,7 52 
Tổng 267±86,6 100 
3.3 Khía cạnh tài chính của nghề lưới kéo 
xa bờ ở tỉnh Bến Tre 
Kết quả khảo sát cho thấy để đầu tư cho một 
tàu lưới kéo đơn xa bờ cần trung bình khoảng 943 
triệu đồng (Bảng 8), trong đó tàu và máy tàu chiếm 
tỉ lệ cao (chiếm hơn 90%), ngư cụ và các chi phí 
khác chỉ chiếm chưa đến 10% tổng vốn đầu tư. 
Thời gian khấu hao cho vỏ tàu từ 15-20 năm tùy 
thuộc vào chất liệu gỗ và điều kiện sửa chữa của 
chủ tàu. Trong khi đó, máy tàu thường được sử 
dụng khoảng 10 năm. Tổng chi phí khấu hao cho 
một chuyến biển trung bình là 18,9 triệu đồng. 
Bảng 8: Chi phí cố định và chi phí khấu hao của 
tàu lưới kéo đơn xa bờ ở tỉnh Bến Tre 
Nội dung 
Chi phí cố định Chi phí khấu 
hao (Triệu 
đồng/chuyến) 
Triệu 
đồng 
Tỉ lệ 
(%) 
Vỏ tàu 562±85 59,5 7,37±2,88 
Máy tàu 341±94 36,2 6,37±3,82 
Ngư cụ 24,4±5,25 2,59 4,17±3,62 
Chi phí khác 5,43±1,42 0,58 0,76±1,04 
Máy định vị 3,81±3,78 0,41 1,37±2,04 
Máy bộ đàm 6,73±1,23 0,72 2,05±1,25 
Tổng 943±131 100 18,9±6,1 
Tổng chi phí biến đổi cho một chuyến biển 
trung bình là 258 triệu đồng (Bảng 9), chủ yếu là 
chi phí nhiên liệu (69,9%) và tiền nhân công 
(16,5%). Các chi phí khác như lương thực, nhớt, 
nước đá chiếm tỉ lệ thấp. Chi phí cho một 
chuyến biển chủ yếu là nhiên liệu, nhưng do không 
có vốn, vay ngân hàng khó khăn nên đa số ngư dân 
phải chấp nhận lấy dầu với giá cao hơn thị trường 
hoặc chịu lãi suất cao hơn lãi suất của ngân hàng 
để đầu tư sản xuất. Chi phí biến đổi thường tăng 
cao trong khi giá bán sản phẩm chỉ tăng nhẹ hoặc 
biến động thất thường làm cho thu nhập của ngư 
dân làm nghề kéo đơn xa bờ giảm đáng kể. 
Bảng 9: Chi phí biến đổi cho một chuyến biển của 
tàu lưới kéo đơn xa bờ ở tỉnh Bến Tre 
Nội dung 
Giá trị 
(triệu đồng/ 
chuyến) 
Tỷ lệ 
(%) 
Giá trị 
(triệu 
đồng/năm) 
Nhiên liệu 185±29 69,9 911±171 
Tiền nhân công 44±19,4 16,5 231±93 
Tiền lãi ngân hàng 1±1,37 0,37 4,26±2,11 
Chi phí sửa chữa 5,71±2,52 2,14 31,4±10,4 
Nước đá 15,7±8,1 5,91 51,9±12,6 
Lương thực 7,66±3,30 2,88 43,7±11,8 
Chi phí khác 3,06±1,13 1,15 20,5±3,92 
Nhớt 2,83±1,92 1,09 21,2±8,4 
Tổng chi phí 258±103 100 1.319±325 
Bảng 10: Hiệu quả tài chính của nghề lưới kéo đơn xa bờ ở tỉnh Bến Tre 
Nội dung Chuyến biển Cả năm 
Tổng chi phí (triệu đồng) 276±117 1.337±340 
Tổng chi phí khấu hao (triệu đồng) 18,2±2,7 18,9±3,1 
Tổng chi phí biến đổi (triệu đồng) 258±93 1.319±725 
Tổng doanh thu (triệu đồng) 315±68 1.662±839 
Lợi nhuận (triệu đồng) 39,2±13,2 343±83 
Tỉ suất lợi nhuận (lần) 0,19±0,12 0,19±0,12 
Tổng thu nhập một chuyến biển trung bình là 
315 triệu đồng và có lợi nhuận trung bình một 
chuyến là 39,2 triệu đồng (Bảng 10). Kết quả cho 
thấy nghề lưới kéo đơn xa bờ có lợi nhuận tương 
đối cao, tuy nhiên vốn đầu tư là tương đối lớn nên 
tỉ suất lợi nhuận vẫn còn thấp (0,19 lần). Nếu so 
với nghề lưới kéo ven bờ có tổng lợi nhuận trung 
bình từ 123 triệu đồng/tàu/năm (Lê Xuân Sinh và 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 38 (2015)(1): 88-94 
 93 
ctv., 2009) thì nghề kéo đơn xa bờ đạt hiệu quả tài 
chính cao hơn nhiều (trung bình lợi nhuận đạt 343 
triệu đồng/năm), nhưng nếu so với nghề lưới kéo 
đôi (lợi nhuận trung bình khoảng 1,2 tỉ đồng/cặp 
tàu/năm) hay nghề lưới vây ánh sáng (lợi nhuận 
trung bình khoảng 1 tỉ đồng/tàu/năm) thì hiệu quả 
sản xuất của nghề lưới kéo đơn xa bờ là không cao 
(Chi cục KT&BVNLTS tỉnh Bến Tre, 2013). 
3.4 Những thuận lợi và khó khăn của nghề 
lưới kéo đơn xa bờ ở tỉnh Bến Tre 
Kết quả cho thấy ngư dân ở Bến Tre duy trì 
nghề lưới kéo đơn xa bờ là do những thuận lợi chủ 
yếu như: (i) Lợi nhuận tương đối cao, (ii) Có hỗ trợ 
của Nhà nước và chính quyền địa phương, (iii) 
Ngân hàng cho vay vốn ưu đãi. 
Bảng 11: Những thuận lợi khi thực hiện nghề 
lưới kéo xa bờ ở tỉnh Bến Tre 
Nội dung Số quan sát 
Xếp 
hạng 
Lợi nhuận cao 33 1 
Có hỗ trợ của Nhà nước và chính 
quyền địa phương 32 2 
Ngân hàng cho vay ưu đãi 12 3 
Vốn đầu tư phù hợp 10 4 
Kinh nghiệm đi biển 9 5 
Khác 4 6 
Để giảm áp lực cho KTTS ven bờ gây ảnh 
hưởng xấu đến NLTS nên công tác vận động, hỗ 
trợ ngư dân chuyển đổi từ khai thác ven bờ ra khai 
thác xa bờ theo định hướng chung của cả nước 
được chính quyền địa phương cũng như Uỷ ban 
nhân dân tỉnh Bến Tre tổ chức triển khai rất tốt, 
đặc biệt, đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu tàu 
thuyền cũng như chuyển đổi ngành nghề khai thác 
là Chi cục KT&BVNLTS tỉnh Bến Tre. Vì vậy, 
ngư dân yên tâm bám biển, chuẩn bị tích cực trong 
chuyển đổi ra khai thác xa bờ nhằm nâng cao hiệu 
quả sản xuất. 
Bên cạnh đó, nghề lưới kéo đơn xa bờ còn gặp 
nhiều khó khăn như: (i) giá nhiên liệu cao, (ii) nhân 
công khó tìm, (iii) thị trường tiêu thụ sản phẩm 
không ổn định, vựa ép giá. 
Giá dầu tăng lên thường xuyên, đa số ngư dân 
lại không có sẵn nguồn vốn, phải mua dầu với giá 
cao hơn giá thị trường hoặc chịu lãi suất cao là khó 
khăn lớn nhất trong đầu tư sản xuất của các hộ ngư 
dân làm nghề lưới kéo đơn xa bờ. Ngoài ra, thị 
trường tiêu thụ sản phẩm thường không ổn định, 
giá cả chỉ tăng nhẹ so với sự tăng cao của chi phí 
đầu tư sản xuất. Nếu các tàu kéo đơn xa bờ khai 
thác được nhiều sản phẩm cùng loại thì vựa lại ép 
giá. Đây cũng là khó khăn chung trong đầu tư 
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của ngành KTTS. 
Bên cạnh đó, do thu nhập không ổn định và thấp, 
nên nhiều lao động vùng ven biển đã tìm những 
việc làm khác có thu nhập cao hơn nên việc thuê 
mướn nhân công để KTTS hiện nay cũng gặp 
nhiều khó khăn. 
Bảng 12: Những khó khăn của nghề lưới kéo 
đơn xa bờ ở tỉnh Bến Tre 
 Nội dung Số quan sát 
Xếp 
hạng 
Giá dầu cao 26 1 
Nhân công ít, khó tìm 24 2 
Vựa ép giá 15 3 
Không vay được vốn ưu đãi 10 4 
Sản lượng giảm 9 5 
Thị trường tiêu thụ không ổn định 6 6 
Thủ tục vay vốn khó 5 7 
Tàu KTTS tăng nhanh, nhiều 4 8 
4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 
4.1 Kết luận 
 Nghề lưới kéo đơn xa bờ của tỉnh Bến Tre 
có 687 chiếc, chiếm 18,8% tổng số tàu khai thác 
thủy sản của tỉnh Bến Tre. Tàu có công suất 
trung bình là 258 CV/tàu và trọng tải trung bình 
25,3 tấn/tàu. 
 Nghề lưới kéo xa bờ ở tỉnh Bến Tre có thể 
khai thác quanh năm ở cả hai ngư trường Đông 
Nam Bộ và Tây Nam Bộ và khai thác trung bình 
11,4 chuyến biển/năm. Kích thước mắt lưới ở đụt 
2a=20,3 mm nhỏ hơn qui định nên sản lượng khai 
thác trung bình đạt khá cao (91,3 tấn/tàu/năm) và 
cá tạp chiếm tỉ lệ cao (52%). 
 Tổng chi phí trung bình của một chuyến 
biển là 276 triệu đồng và lợi nhuận trung bình là 
39,2 triệu đồng/chuyến biển, với tỉ suất lợi nhuận 
là 0,19. Không có hộ ngư dân làm nghề lưới kéo 
đơn xa bờ nào bị thua lỗ. 
 Khó khăn chung hiện nay của nghề lưới kéo 
đơn xa bờ là giá nhiên liệu tăng cao, thị trường tiêu 
thụ sản phẩm không ổn định, thiếu vốn và thiếu 
lao động. 
4.2 Đề xuất 
 Các cơ quan quản lý khai thác thủy sản địa 
phương cần tổ chức liên kết sản xuất trong nghề 
lưới kéo xa bờ để hỗ trợ nhau trong sản xuất, giảm 
chi phí sản xuất, ổn định đầu ra, bảo quản tốt sản 
phẩm thủy sản khai thác nhầm tăng lợi nhuận cho 
ngư dân và nghề khai thác phát triển ổn định. 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 38 (2015)(1): 88-94 
 94 
 Nhà nước cần tiếp tục chính sách hỗ trợ chi 
phí dầu để ngư dân có thể tiếp tục khai thác xa bờ. 
 Nhà nước cần có chính sách, tạo điều kiện 
cho ngư dân vay vốn để ngư dân có đủ chi phí sản 
xuất dài ngày ở vùng biển xa bờ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 
2013. Quy định về quản lý nghề lưới kéo khai 
thác hải sản tại vùng biển Việt Nam. 6 trang. 
2. Chi cục KT&BVNLTS tỉnh Bến Tre, 2013. 
Báo cáo Tổng kết tình hình khai thác thủy 
sản năm 2013. 11 trang. 
3. Lê Ngọc Bữu, 2012. Tài liệu dạy học 
Chương trình địa lí địa phương Trung học 
cơ sở tỉnh Bến Tre. Nhà xuất bản giáo dục 
Việt Nam. Bến Tre. 36 trang. 
4. Lê Trần Nguyên Hùng, 2009. Tổng quan 
mô hình đồng quản lý nghề cá ở Việt Nam. 
Báo cáo tham luận tại Hội nghị Đồng quản 
lý nghề cá quy mô nhỏ tại Việt Nam, Đà 
Nẵng từ 26 -27 tháng 10/2009, 22 trang. 
5. Lê Văn Ninh, 2006. Hiện trạng nghề khai 
thác hải sản tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và một 
số định hướng phát triển trong thời gian tới. 
Tạp chí thuỷ sản số 11/2006. 
6. Lê Xuân Sinh, Nguyễn Thanh Long và Đỗ 
Minh Chung, 2009. Phân tích hiện trạng 
nghề lưới kéo ven bờ và nhận thức của ngư 
dân ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tuyển tập 
Hội nghị khoa học toàn quốc về sinh học 
biển và phát triển bền vững. Nhà xuất bản 
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. 275-285 
7. Tổng cục Thống kê, 2013. Niên giám 
Thống kê 2012. NXB Thống kê Hà Nội 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 phan_tich_hieu_qua_ky_thuat_va_tai_chinh_cua_nghe_luoi_keo_x.pdf phan_tich_hieu_qua_ky_thuat_va_tai_chinh_cua_nghe_luoi_keo_x.pdf