PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết hình thành đề tài:
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang là một xu hướng tất yếu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nhiều quốc gia với mong muốn cải thiện và tăng trưởng kinh tế đất nước. Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó vì ngay khi chuyển hướng sang nền kinh tế đổi mới, chúng ta đã chọn con đường mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với tinh thần đa phương hoá, đa dạng hoá. Trên cơ sở đó, chúng ta cũng tự đặt ra cho mình con đường hội nhập kinh tế thế giới. Vì vai trò là mạch máu của nền kinh tế, ngành ngân hàng nước ta cũng không nằm ngoài quá trình đó, nhằm trang bị cho mình năng lực để đủ sức cạnh tranh với các đối thủ sẽ gia nhập vào nền kinh tế nước ta càng đông đảo (hiện nay có khoảng gần 70 chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã có mặt tại Việt Nam, chủ yếu là của Singapo, Trung Quốc). Tuy nhiên hoạt động của các ngân hàng thương mại Nhà nước chủ yếu vẫn là huy động vốn và cho vay, các sản phẩm dịch vụ được đưa ra và được thi trường chấp nhận vẫn còn manh mún, thiếu hấp dẫn và tiện lợi, chưa năng động vẫn còn tồn tại trong các ngân hàng thương mại. Thực tế những năm gần đây, thị trường dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thẻ, thanh toán, chuyển tiền đã phát triển nhanh chóng, tốc độ tăng vượt bậc so với dự đoán của nhiều người. Vì vậy, việc xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng cần phải quan tâm nhiều hơn nữa đến việc mở rộng các hình thức tín dụng.
Hoạt động của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là hoạt động kinh doanh với mục đích là lợi nhuận, ổn định nền kinh tế - xã hội . Muốn thu được lợi nhuận cao thì vấn đề then chốt là quản lý tốt các khoản mục tài sản có, nhất là khoản mục cho vay và đầu tư, cũng như các hoạt động trung gian khác. Tuy nhiên, muốn tăng lợi nhuận thì ngân hàng cũng cần phải tăng thu nhập bằng cách mở rộng tín dụng, tăng cường đầu tư và đa dạng hoá các hoạt động dịch vụ ngân hàng.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Châu Thành là một trong khoảng 1.800 chi nhánh của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam đang hoạt động khắp trên mọi miền đất nước, đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và các ban ngành đoàn thể, đặc biệt là với hội nông dân đã nhanh chóng tuyên truyền, tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ về vốn cho nhiều hộ nông dân thoát nghèo, vươn lên khá giàu, gắn kết việc xác định mục tiêu sản xuất kinh doanh với việc xây dựng và phát triển cộng đồng dân cư trong việc phát triển nông nghiệp – nông thôn và đô thị mới một cách sáng tạo, hiệu quả.
Với thực trạng như trên, ngành ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nói chung cũng như ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành nói riêng phải đối mặt với những thách thức to lớn, đó là sự cạnh tranh quyết liệt trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Với huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp hiện nay, sự có mặt của nhiều ngân hàng thương mại khác trên địa bàn như: Ngân hàng công thương, Ngân hàng phát triển nhà ĐBSCL, Ngân hàng Phương Nam Đòi hỏi ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành phải có định hướng phát triển hoạt động kinh doanh cho riêng mình nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.
Chúng ta không thể không khẳng định là nhờ vốn tín dụng ngân hàng mà ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Châu Thành đã đánh thức tiềm năng kinh tế, khơi dậy động lực phát triển kinh tế hộ nông dân, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi Như vậy, hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng nói chung và của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Châu Thành nói riêng là hoạt động chủ yếu nhất, vì vậy chúng ta cần tận dụng được ưu điểm này để mở rộng nó theo chiều hướng tốt nhất cho cả người cho vay lẫn người đi vay. Vì vậy, việc “Phân tích hoạt động tín dụng và các biện pháp mở rộng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Châu Thành - Đồng Tháp” là đề tài mà em đã chọn để viết luận văn tốt nghiệp, nhằm tìm hiểu và đóng góp một phần nhỏ ý kiến cá nhân của mình trong hoạt động tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Luận văn này chủ yếu là tập trung nghiên cứu và phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành trong những năm qua để tổng kết lại và rút ra những gì đã đạt được, những vấn đề còn tồn đọng lại, chưa được giải quyết thoả đáng, phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế nói chung và của ngành ngân hàng nói riêng, mà cụ thể là của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành trong hoạt động tín dụng, để trên cơ sở đó, đưa ra một số biện pháp nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng.
3. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn này được hoàn thành dựa trên cơ sở những kiến thức đã học ở trường và từ thực tế trong thời gian thực tập tại ngân hàng, và đã sử dụng các phương pháp phân tích chủ yếu sau:
- Thu thập số liệu từ các báo cáo và những tài liệu có liên quan của ngân hàng, và các thông tin từ báo, đài, mạng internet.
- Nghiên cứu dựa vào thảo luận và trao đổi ý kiến với các anh chị, cô, chú trong cơ quan thực tập và với các bạn sinh viên cùng thực tập.
- Sử dụng phương pháp phân tích thống kê và so sánh sự biến động số liệu qua các năm.
- Dùng các phần mềm tin học ứng dụng: word, exel để trình bày và tính toán trong nghiên cứu và phân tích.
4. Giới hạn đề tài:
Do lĩnh vực hoạt động của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn khá đa dạng và phong phú, đồng thời do thời gian và kiến thức của em đã tiếp thu được còn hạn chế, vì thế em không thể phân tích sâu sắc tất cả các hoạt động của ngân hàng. Nên phạm vi đề tài chỉ tập trung vào việc phân tích tình hình hoạt động tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Châu Thành qua ba năm gần đây nhất, và đưa ra các biện pháp nhằm mở rộng tín dụng tại ngân hàng.
69 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1602 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích hoạt động tín dụng và các biện pháp mở rộng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Châu Thành - Đồng Tháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản xuất trên 12 tháng, vì vậy, doanh số thu nợ trung hạn của ngành này chiếm tỷ trọng không lớn lắm. Một nguyên nhân khác nữa là khi đi vay thì các hộ vay sản xuất nông nghiệp cũng ít có xu hướng vay với thời hạn lâu, vì như vậy sẽ chịu mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn.
+ Đối với các ngành còn lại:
- Năm 2004 thì doanh số thu nợ trung hạn của các ngành khác đạt 8.030 triệu đồng, tăng 8,80% so với doanh số này trong năm 2003, và chiếm 70,50% trong tổng doanh số thu nợ trung hạn theo ngành, giảm 27,37% so với tỷ trọng trong năm 2003.
- Trong năm qua – năm 2005 thì doanh số thu nợ trung hạn đối với các ngành này đạt 9.340 triệu đồng, tăng 16,31% so với doanh số thu nợ của các ngành này trong năm 2004, và chiếm 79,76% trong cơ cấu, tăng 9,16% so với tỷ trọng của ngành này trong năm 2004.
2.2. Doanh số thu nợ theo thành phần kinh tế:
Bảng 11: Doanh số thu nợ theo thành phần kinh tế
ĐVT: Triệu đồng
Đối tượng
Năm
Chênh lệch qua các năm (%)
2003
2004
2005
2004/2003
2005/2004
1. Ngắn hạn
80.140
106.630
168.820
33,05
58,32
Doanh nghiệp
4.400
10.850
13.750
146,59
26,73
Hộ gia đình, cá nhân
75.700
95.580
154.920
26,26
62,08
Đối tuợng khác
40
200
150
400,00
-25,00
2. Trung hạn
7.540
11.390
11.710
51,06
2,81
Hộ gia đình, cá nhân
1.360
4.350
2.880
219,85
-33,79
CBCNV
4.930
6.090
7.480
23,53
22,82
XKLĐ
1.250
950
1.350
-24,00
42,10
Tổng cộng
87.680
118020
180.530
34,60
52,97
Nguồn: Phòng tín dụng
2.2.1. Doanh số thu nợ ngắn hạn:
+ Đối với các doanh nghiệp:
- Năm 2004, doanh số thu nợ đối với đối tượng này 10.850 triệu đồng, tăng 246,59% so với doanh số thu nợ ngắn hạn theo thành phần kinh tế năm 2003, và chiếm 10,17% trong tổng doanh số thu nợ ngắn hạn theo thành phần kinh tế, tăng 4,68% so với tỷ trọng của đối tượng này trong năm 2003.
- Đến năm 2005 thì doanh số thu nợ ngắn hạn đối với đối tượng này là 13.750 triệu đồng, tăng 58,32% so với doanh số thu nợ của đối tượng này trong năm 2004, và chiếm tỷ trọng là 8,14%, giảm 2,03% so với tỷ trọng doanh số thu nợ ngắn hạn theo thành phần kinh tế trong năm 2004.
+ Đối với hộ gia đình, cá nhân:
- Năm 2004, doanh số thu nợ ngắn hạn của đối tượng này là 95.580 triệu đồng, tăng 26,26% so với năm 2004, và chiếm tỷ trọng là 89,64% trong tổng doanh số thu nợ ngắn hạn theo thành phần kinh tế, giảm 4,81% so với tỷ trọng này của năm 2003.
- Đến năm 2005 thì doanh số hu nợ ngắn hạn của các hộ gia đình đã tăng lên 154.920 triệu đồng, tăng 62,08% so với năm 2004, và chiếm tỷ trọng là 91,77%, tăng 2,13% so với tỷ trọng doanh số thu nợ ngắn hạn theo thành phần kinh tế của năm 2004.
+ Đối với các đối tượng khác thì doanh số thu nợ của các đối tượng này cũng chính là doanh số thu nợ của các ngành nghề khác đã nêu trên. Đây là đối tượng thuộc các thành phần kinh tế khác, có nhu cầu vay vốn để phục vụ cho nhu cầu đời sống, nhằm ổn định xã hội, tạo điều kiện phát triển kinh tế, mở rộng sản xuất…
Nhìn chung, doanh số thu nợ của ngắn hạn đối với các thành phần kinh tế của ngân hàng trong ba năm qua tương đối ổn định, hầu hết tình hình thu nợ các đối tượng luôn được đảm bảo kịp thời và khá đầy đủ, đặc biệt là doanh số thu được từ các doanh nghiệp và các hộ gia đình, cá nhân, bởi vì các doanh nghiệp muốn hoạt động được ổn định và phát triển tốt thì ngoài việc có tiềm lực về tài chính tốt thì còn cần phải giữ chữ tín đối với mọi đối tác, đặc biệt là với nhà cấp vốn cho họ, đó là ngân hàng. Còn các hộ gia đình thì để thực hiện những phương án sản xuất của các lần sau thì họ cũng đã có ý thức hơn trong việc trả nợ, từ đó họ có thể có được nguồn vốn cho những vụ mùa tiếp theo. Như vậy, có được điều này không chỉ do ý thức trả nợ của khách hàng, mà còn do ngân hàng có những phân tích phù hợp về tình đặc điểm và tình hình sản xuất kinh doanh của từng địa phương, để đưa ra những kỳ hạn trả nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất cho từng đối tượng.
2.2.2. Doanh số thu nợ trung hạn:
+ Đối với hộ gia đình, cá nhân:
- Năm 2004, doanh số thu nợ trung hạn của đối tượng này đạt 4.350 triệu đồng, tăng 219,85% so với doanh số thu nợ trung hạn của hộ trong năm 2003, và chiếm tỷ trọng là 38,19% trong tổng doanh số thu nợ trung hạn theo thành phần kinh tế, tăng 20,15% so với tỷ trọng trong năm 2003.
- Đến năm 2005 thì doanh số thu nợ trung hạn của các hộ đã giảm xuống còn 2.880 triệu đồng, giảm 33,79% so với doanh số thu nợ trung hạn của hộ trong năm 2004, và chiếm tỷ trọng là 24,59% trong cơ cấu, giảm 13,6% so với tỷ trọng doanh số thu nợ trung hạn theo thành phần kinh tế của năm 2004.
+ Đối với cán bộ công nhân viên:
- Doanh số thu nợ của cán bộ công nhân viên trong năm 2004 đạt 6.090 triệu đồng, tăng 23,53% so với năm 2003, và chiếm 53,47% trong cơ cấu, giảm 11,91% so với tỷ trọng doanh số thu nợ trung hạn theo thành phần kinh tế của năm 2003.
- Trong năm qua, năm 2005 thì doanh số thu nợ của đối tượng này đạt được là 7.480 triệu đồng, tăng 22,82% so với năm 2004, và chiếm tỷ trọng là 43,74% trong tổng doanh số thu nợ trung hạn, giảm 9,73% so với tỷ trọng của năm 2004.
+ Đối với đối tượng xuất khẩu lao động:
- Trong năm 2004, doanh số thu nợ trung hạn của đối tượng này là 950 triệu đồng, giảm 24% so với năm 2004, và chỉ chiếm 8,34% trong tổng doanh số thu nợ trung hạn, giảm 8,24% so với tỷ trọng doanh số thu nợ trung hạn theo thành phần kinh tế của năm 2003.
- Doanh số thu nợ trung hạn năm 2005 đối với những người xuất khẩu lao động đã tăng lên 1.350 triệu đồng, tăng 42,1% so với doanh số thu nợ trung hạn của năm 2004, và chiếm tỷ trọng là 11,53% trong cơ cấu doanh số thu nợ trung hạn theo thành phần kinh tế, tăng 3,19% so với tỷ trọng của năm 2004.
Như vậy, doanh số thu nợ trung hạn đối với các thành phần kinh tế của ngân hàng trong ba năm qua có sự thay đổi khá rõ nét. Đối với các hộ gia đình, cá nhân thì doanh số tăng trong năm 2004 và giảm trong năm 2005, nguyên nhân cụ thể làm thay đổi doanh số thu nợ trung hạn của đối tượng này là do nợ tôn nền nhà của các hộ gia đình chưa trả kịp thời và đầy đủ, mặc khác, trong năm qua thì tình hình giá đầu vào của các yếu tố cấu thành chi phí sản xuất của các hộ tăng cao, trong khi đó, giá đầu ra lại không có sự tăng lên đáng kể, từ đó, các hộ không đủ khả năng trả nợ vay.
Trong khi đó, cũng trong ba năm qua thì doanh số trung hạn đối với đối tượng xuất khẩu lao động lại giảm trong năm 2004 và tăng trong năm 2005. Điều này là do trong năm 2004, những người xuất khẩu lao động ra nước ngoài không được làm việc theo đúng hợp đồng, chế độ lương bổng không đủ cho họ trang trải trong cuộc sống hàng ngày, từ đó họ làm việc không có dư tiền để gửi về trả nợ đúng hạn và đầy đủ, dẫn đến doanh số thu nợ đối với đối tượng này giảm trong năm. Tuy nhiên, trong năm 2005 thì doanh số thu nợ của họ lại được tăng lên nhanh chóng, một phần là do có sự tuyên truyền và phản ánh tình trạng xuất khẩu lao động trên các báo, đài, một phần là do trong năm qua, những người đi xuất khẩu là những người có trình độ chuyên môn và học vấn khá tốt, có rất ít trường hợp là lao động phổ thông, nên chế độ lương bổng cũng được cải thiện và khả năng trả nợ của họ luôn được đảm bảo. Còn đối với cán bộ công nhân viên thì doanh số thu nợ vẫn ổn định.
Như vậy, đối với những nguyên nhân làm giảm doanh số thu nợ của ngân hàng thì ngân hàng cũng đã có những biện pháp nhằm làm tăng doanh số thu nợ như, thường xuyên theo dõi và trực tiếp kiểm tra, đôn đốc dối với những món nợ khó có khả năng thu hồi, thực hiện chủ trương thu đúng, thu đủ ngay từ đầu.
3. Tình hình dư nợ:
Nhìn chung, tình hình dư nợ của ngân hàng trong ba năm qua có sự tăng trưởng khá ổn định, và được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 12: Tình hình dư nợ qua ba năm
ĐVT: Triệu đồng
Đối tượng
Năm
Chênh lệch qua các năm (%)
2003
2004
2005
2004/2003
2005/2004
I. Ngắn hạn
73.700
103.280
125.400
40,14
21,42
Trồng trọt
56.500
44.400
28.100
-21,42
-36,71
Chăn nuôi
9.300
46.200
78.100
396,77
69,05
Cầm đồ
1.600
520
1,200
-67,5
130,77
Kinh doanh
6.100
12.050
18.000
97,54
49,38
CV tiêu dùng
200
110
-45,00
II. Trung hạn
15.250
20.490
22.230
34,36
8,49
Cho vay SXNN
70
10
30
85,71
200,00
Xây dựng nhà ở
310
110
690
-64,52
527,27
Cho vay khác
30
2.160
3.280
7100,00
51,85
Cho vay tiêu dùng
10.840
14.250
14.240
31,46
-0,07
Cho vay DATCNT
4.000
3.960
3.990
-1,00
0,76
Tổng cộng (I + II)
88.950
123.770
147.630
39,15
19,28
Nguồn: Phòng tín dụng
Biểu đồ tình hình dư nợ
2003 2004 2005
3.1. Dư nợ theo ngành nghề:
Bảng 13: Tình hình dư nợ theo ngành nghề
ĐVT: triệu đồng
Thời hạn
Năm
Chênh lệch qua các năm (%)
2003
2004
2005
2004/2003
2005/2004
1. Ngắn hạn
73.700
103.280
125.400
40,14
21,42
Nông nghiệp
65.800
90.600
106.200
37,69
17,22
Kinh doanh - dịch vụ
7.700
12.570
19.200
63,25
52,74
Ngành khác
200
110
-45,00
2. Trung hạn
15.250
20.490
22.230
34,36
8,49
Nông nghiệp
4.070
3.970
4.020
-2,46
1,26
Ngành khác
11.180
16.520
18.210
47,76
10,23
Tổng cộng
88.950
123.770
147.630
39,15
19,28
Nguồn: Phòng tín dụng
3.1.1. Dư nợ ngắn hạn:
+ Đối với ngành nông nghiệp:
- Năm 2004, tình hình dư nợ ngắn hạn trong ngành nông nghiệp của ngân hàng đạt 90.600 triệu đồng, tăng 37, 69% so với dư nợ ngắn hạn của ngành này trong năm 2003, và chiếm 87,72% trong tổng dư nợ ngắn hạn của năm 2003, giảm 1,56% so với dư nợ ngắn hạn trong năm 2003.
- Đến năm 2005 thì dư dư nợ ngắn hạn trong ngành nông nghiệp của ngân hàng đã đạt được 106.200 triệu đồng, tăng 17,22% so với dư nợ ngắn hạn của ngành trong năm 2004, và chiếm tỷ trọng là 84,69% trong cơ cấu, và lại tiếp tục giảm 3,03% so với tỷ trọng dư nợ ngắn hạn của năm 2004.
Nhìn chung tỷ trọng dư nợ ngắn hạn của ngân hàng trong ngành nông nghiệp có phần giảm đi nhưng không đáng kể, tỷ trọng này giảm chủ yếu là do dư nợ của ngành trồng trọt giảm, mặc dù diện tích đất dành cho trồng trọt của huyện Châu Thành là khá cao, 18.502 ha (chiếm 79,05% trong tổng diện tích của huyện), điều này càng cho thấy sự chuyển dịch trong cơ cấu nông nghiệp của địa phương đã có sự chuyển biến đáng kể. Trong ba năm qua thì dư nợ trong chăn nuôi luôn tăng nhanh, nguyên nhân là do xu hướng kinh doanh của người nông dân là học hỏi những thành công từ người khác, điều này dẫn đến nhiều người không đủ vốn cũng trực tiếp đến ngân hàng vay về để tiến hành sản xuất theo mô hình có sẵn, mặc khác, họ nhận thấy được giá cả của các sản phẩm đầu ra trong ngành này luôn giữ ở mức khá cao và có xu hướng ổn định.
+ Đối với kinh doanh – dịch vụ:
- Đối với các ngành kinh doanh, dịch vụ trong năm 2004 thì dư nợ ngắn hạn đạt 12.570 triệu đồng, tăng 63,25% so với dư nợ của ngành này trong năm 2003, và chiếm 12,17% trong cơ cấu dư nợ ngắn hạn theo ngành nghề, tăng 1,72% so với tỷ trọng dư nợ ngắn hạn theo ngành nghề của năm 2003.
- Và trong năm 2005 thì dư nợ ngắn hạn của các ngành nghề kinh doanh, dịch đạt được là 19.200 triệu đồng, tăng 52,74% so với dư nợ ngắn hạn năm 2004, chiếm tỷ trọng là 15,31% trong tổng dư nợ ngắn hạn theo ngành, tăng 3,14% so với tỷ trọng năm 2004.
Như vậy, dư nợ trong các ngành nghề kinh doanh dịch vụ cũng tăng khá cao, nguyên nhân là do trong thời gian gần đây, xu hướng kinh doanh của các ngành nghề trong cơ cấu nguồn vốn là không nên sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu cao, mà thay vào đó là nên sử dụng các nguồn vốn khác như vốn cổ phần, vốn vay ngân hàng chẳng hạn. Vì vậy mà trong ba năm qua, dư nợ ngắn hạn của ngành này có phần tăng nhanh.
+ Đối với các ngành nghề khác:
Trong năm 2004 thì dư nợ ngắn hạn đạt được là 110 triệu đồng, giảm 45% so với dư nợ ngắn hạn năm 2003, và chiếm tỷ trọng là rất nhỏ trong cơ cấu dư nợ ngắn hạn theo ngành nghề, chỉ chiếm 0,1%, giảm 0,27% so với tỷ trọng này của năm 2003.
3.1.2. Dư nợ trung hạn:
+ Đối với ngành nông nghiệp:
- Năm 2004, dư nợ trung hạn đối với ngành nông nghiệp đạt được là 3.970 triệu đồng, giảm 2,46% so với năm 2003, và chiếm tỷ trọng là 19,38% trong tổng dư nợ trung hạn theo ngành nghề, giảm 7,31% so với tỷ trọng năm 2003.
- Đến năm 2005 thì dư nợ trung hạn của ngân hàng về nông nghiệp đã đạt được là 4.020 triệu đồng, tăng 1,26% so với dư nợ trung hạn theo ngành của năm 2004, chiếm 18,08% trong tổng dư nợ trung hạn cho vay theo ngành nghề, tỷ trọng tiếp tục giảm 1,3% so với tỷ trọng của ngành này trong năm 2004.
+ Đối với các ngành khác:
- Dư nợ trung hạn cho vay đối với các ngành này đạt 16.520 triệu đồng trong năm 2004, tăng 47,76% so với dư nợ trung hạn của năm 2003, và chiếm 80,62% trong tổng dư nợ trung hạn theo ngành nghề, tăng 7,31% so với tỷ trọng năm 2003.
- Và trong năm 2005 thì dư nợ trung hạn đối với các ngành khác của ngân hàng đạt 18.210 triệu đồng, tăng 10,23% so với dư nợ trung hạn theo ngành của năm 2004, và chiếm 81,92% trong tổng dư nợ trung hạn cho vay theo ngành nghề, tỷ trọng này lại tiếp tục tăng 1,3% so với tỷ trọng của các ngành này trong năm 2004.
Nhìn chung, dư nợ trung hạn xét theo ngành nghề kinh doanh của ngân hàng chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng, dư nợ chủ yếu xảy ra đối với cho vay tiêu dùng và cho vay đối với các dự án tài chính nông thôn, chính những đối tượng này đã làm cho dư nợ trung hạn của ngân hàng tăng trong ba năm qua.
3.2. Dư nợ theo thành phần kinh tế:
Bảng 14: Tình hình dư nợ theo thành phần kinh tế
ĐVT: Triệu đồng
Đối tượng
Năm
Chênh lệch qua các năm (%)
2003
2004
2005
2004/2003
2005/2004
1. Ngắn hạn
73.700
103.280
125.400
40,14
21,42
Doanh nghiệp
6.100
12.050
18.000
97,54
49,38
Hộ gia đình, cá nhân
67.400
91.120
107.400
35,19
17,87
Đối tuợng khác
200
110
-45,00
2. Trung hạn
15.250
20.490
22.230
34,36
8,49
Hộ gia đình, cá nhân
4.380
4.080
4.710
-6,85
15,44
CBCNV
10.840
14.250
14.240
31,46
-0,07
XKLĐ
30
2.160
3.280
7.100,00
51,85
Tổng cộng
88.950
123.770
147.630
39,15
19,28
Nguồn: Phòng tín dụng
3.2.1. Dư nợ ngắn hạn:
+ Đối với các doanh nghiệp:
- Năm 2004, tình hình dư nợ ngắn hạn của các doanh nghiệp đạt 12.050 triệu đồng, tăng 97,54% so với dư nợ ngắn hạn của năm 2003, và chiếm tỷ trọng là 11,67% trong tổng dư nợ ngắn hạn, tăng 3,39% so với tỷ trọng của năm 2003.
- Đến năm 2005 thì tổng dư nợ ngắn hạn của đối tượng này là 18.000 triệu đồng, tăng 49,38% so với dư nợ ngắn hạn của các doanh nghiệp trong năm 2004, và chiếm tỷ trọng là 14,35% trong tổng dư nợ ngắn hạn theo thành phần kinh tế của ngân hàng, tăng 2,68% so với tỷ trọng của đối tượng này trong năm 2004.
Như vậy, đối với các doanh nghiệp thì dư nợ ngắn hạn của họ tại ngân hàng cũng chiếm vị trí tương đối lớn, nguyên nhân là do trong những năm gần đây, mục tiêu phấn đấu của nước ta đến năm 2010 thì số lượng doanh nghiệp trong cả nước đạt 500 ngàn doanh nghiệp (hiện nay thì huyện có trên 110 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hơn 1.700 cơ sở sản xuất dịch vụ khác). Vì vậy, sự ra đời của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn huyện Châu Thành ngày càng trở nên nhanh hơn, và là nguyên nhân dẫn đến quan hệ giữa họ với ngân hàng ngày càng gần gũi hơn trong hoạt động tín dụng, kéo theo gia tăng về doanh số dư nợ của ngân hàng đối với họ ngày càng tăng.
+ Đối với hộ gia đình, cá nhân:
- Trong năm 2004, thì dư nợ ngắn hạn của ngân hàng đối với đối tượng này là 91.120 triệu đồng, tăng 35,19% so với năm 2003, và chiếm tỷ trọng là 88,22% trong tổng dư nợ ngắn hạn, giảm 3,23% so với tỷ trọng năm 2003.
- Đến năm 2005 thì dư nợ ngắn hạn của các hộ gia đình, cá nhân đạt được là 107.400 triệu đồng, tăng 17,87% so với tổng dư nợ ngắn hạn của hộ trong năm 2004, và chiếm tỷ trọng là 85,64%, giảm 2,58% so với tỷ trọng dư nợ trung hạn theo thành phần kinh tế của năm 2004.
Đối với ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành thì các hộ gia đình, cá nhân luôn là đối tượng mang lại nguồn thu chủ yếu nhất cho ngân hàng, vì vậy tổng dư nợ của đối tượng này vẫn luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng dư nợ ngắn hạn của ngân hàng. Doanh số dư nợ của đối tượng này liên tục tăng qua ba năm qua, nguyên nhân là do trong thời gian qua, ngoài những khách hàng cũ thì ngân hàng cũng luôn tìm mọi cách để khai thác những thị trường có tiềm năng mang lại lợi ích cho ngân hàng, đó là những hộ, cá nhân tạm thời thiếu vốn, nhưng họ có nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, góp phần nâng cao thu nhập cải thiện đời sống. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự tăng trưởng dư nợ ngắn hạn của các hộ, cá nhân.
+ Đối với các đối tượng khác:
Tổng dư nợ ngắn hạn của các đối tượng khác cũng chính là tổng dư nợ của các ngành nghề khác đã nêu trên. Như vậy, tình hình dư nợ của các đối tượng khác trong năm 2004 đã giảm đi so với năm 2003 (giảm 45%). Nguyên nhân là do trong thời gian gần đây đối tượng này đã được ngân hàng khai thác khá tốt và có xu hướng ổn định. Đối tượng vay vốn này chủ yếu là những người vay để phục vụ cho tiêu dùng, và gần đây thì họ đã chuyển từ vay ngắn hạn sang hình thức vay trung hạn để có thời gian trả nợ dài hơn, và lãi suất cùng có phần cao hơn.
3.2.2. Dư nợ trung hạn:
+ Đối với hộ gia đình, cá nhân:
- Tổng dư nợ trung hạn đối với hộ gia đình trong năm 2004 đạt 4.080 triệu đồng, giảm 6,85% so với dư nợ trung hạn của năm 2003, chiếm tỷ trọng là 19,91% trong tổng dư nợ trung hạn theo đối tượng, giảm 8,81% so với tỷ trọng năm 2003.
- Trong năm 2005 thì tổng dư nợ trung hạn của hộ gia đình, cá nhân đạt được là 4.710 triệu đồng, tăng 15,44% so với tổng dư nợ trung hạn của năm 2004, và chiếm 21,19% trong tổng dư nợ trung hạn theo đối tượng, tỷ trọng tăng so với năm 2004 là 1,28%.
Khác với dư nợ ngắn hạn, dư nợ trung hạn của các hộ gia đình trong ba năm qua có những thay đổi đáng kể, dư nợ trong năm 2004 giảm những đến năm 2005 lại tăng, nguyên nhân là do trong năm 2004, một số hộ, cá nhân đã chuyển từ vay trung hạn sang vay ngắn hạn, vì điều này sẽ làm cho họ chịu mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất trung hạn, mặc khác thì do sự nổ lực của các cán bộ tín dụng nên việc thu nợ vay trung hạn đối với những người vay tôn nền nhà đã được thực hiện rất tốt, và thời gian gần đây, ngân hàng đã có nhiều biện pháp được đưa ra nhằm làm tăng tổng dư nợ nhưng lại hạn chế nợ quá hạn, vì vậy tình hình dư nợ trong ba năm qua có sự thay đổi.
+ Đối với cán bộ công nhân viên:
- Năm 2004, dư nợ trung hạn của cán bộ công nhân viên đạt 14.250 triệu đồng, tăng 31,46% so với dưo nợ trung hạn của đối tượng này trong năm 2003, chiếm tỷ trọng là 69,55% trong cơ cấu tổng dư nợ trung hạn theo đối tượng, giảm 1,53% so với tỷ trọng của năm 2003.
- Và trong năm 2005 thì dư nợ trung hạn của đối tượng này đã giảm, chỉ còn đạt 14.240 triệu đồng, tương ứng đã giảm 0,07% so với năm 2004, và chiếm tỷ trọng là 64,06% trong tổng dư nợ trung hạn theo đối tượng, giảm 5,49% so với tỷ trọng của đối tượng này trong năm 2004.
+ Đối với đối tượng xuất khẩu lao động:
- Tổng dư nợ trung hạn của ngân hàng đối với đối tượng xuất khẩu lao động trong năm 2004 đạt 2.160 triệu đồng, tăng lên rất nhiều so với tổng dư nợ trung hạn của đối tượng này trong năm 2003, chiếm tỷ trọng là 10,54% trong tổng dư nợ trung hạn theo đối tượng, tăng lên 10,26% so với tỷ trọng của năm 2003.
- Trong năm 2005 thì tình hình dư nợ trung hạn của ngân hàng đối với những người xuất khẩu lao động đã có sự tăng trưởng ổn định, đạt 3.280 triệu đồng, tăng 51,85% so với tổng dư nợ trung hạn năm 2004, và chiếm 14,75% trong cơ cấu tổng dư nợ trung hạn theo đối tượng, tăng 4,21% so với tỷ trọng này của năm 2004.
4. Tình hình nợ quá hạn, nợ xấu :
Tình hình nợ quá hạn, nợ xấu qua các năm có sự thuyên giảm rõ rệt. Đặc biệt trong năm 2005, do cơ chế chính sách mới nên tài khoản nợ quá hạn đã không còn sử dụng như trước, thay vào đó là tài khoản nợ xấu được sử dụng, và tỷ lệ đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng là dưới 5% trên tổng dư nợ. Như vậy, trong năm 2005 thì chỉ tiêu này sẽ không được so sánh mà chỉ nói về tình hình nợ xấu trong năm, trong cơ cấu nợ xấu thì bao gồm nợ quá hạn, nợ chưa đến hạn nhưng được đánh giá là khó thu.... Như vậy, nợ xấu, nợ quá hạn của ngân hàng được thể hiện qua bảng 15:
Bảng 15: Tình hình nợ quá hạn, nợ xấu qua ba năm
ĐVT: triệu đồng
Đối tượng
Năm
Chênh lệch qua các năm (%) (2004/2003)
2003
2004
2005
I. Ngắn hạn
195
122
1.281
-37,44
Trồng trọt
120
70
410
-41,67
Chăn nuôi
20
10
751
50,00
Cầm đồ
Kinh doanh
50
40
120
-20,00
CV tiêu dùng
5
2
-60,00
II. Trung hạn
20
15
3.238
-25,00
Cho vay SXNN
Xây dựng nhà ở
Cho vay khác
496
Cho vay tiêu dùng
20
15
2.742
-25,00
Cho vay DATCNT
Tổng cộng (I + II)
215
137
4.519
-36,28
Nguồn: Phòng tín dụng
Biểu đồ tình hình nợ quá hạn, nợ xấu
2003 2004 2005
4.1. Nợ quá hạn, nợ xấu đối với các ngành nghề:
Bảng 16: Tình hình nợ quá hạn, nợ xấu theo ngành nghề
ĐVT: triệu đồng
Thời hạn
Năm
Chênh lệch qua các năm (%) 2004/2003
2003
2004
2005
1.Ngắn hạn
195
122
1.281
-37,44
Nông nghiệp
140
80
1.161
-42,86
Kinh doanh - dịch vụ
50
40
120
-20,00
Ngành khác
5
2
-60,00
2.Trung hạn
20
15
3.238
-25,00
Ngành khác
20
15
3.238
-25,00
Tổng cộng
215
137
4.519
-36,28
Nguồn: Phòng tín dụng
4.1.1. Nợ quá hạn, nợ xấu ngắn hạn:
+ Đối với ngành nông nghiệp:
- Năm 2004 thì nợ quá hạn ngắn hạn của ngân hàng trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn còn lại là 80 triệu đồng, đã giảm được 42,86% so với nợ quá hạn ngắn hạn của ngành nông nghiệp trong năm 2003. Tỷ trọng nợ quá hạn ngắn hạn trong năm của ngành này là 65,57%, đã giảm được 6,22% so với tỷ trọng nợ quá hạn ngắn hạn của ngành trong năm 2003.
- Bước sang năm 2005 thì nợ xấu ngắn hạn của ngân hàng trong nông nghiệp là 1.161 triệu đồng, tỷ trọng nợ xấu của ngành này trong tổng cơ cấu nợ xấu trong năm là 90,63%, tỷ trọng này khá cao so với tỷ trrọng nợ quá hạn của năm 2004.
+ Đối với các ngành nghề kinh doanh - dịch vụ:
- Tình hình nợ quá hạn ngắn hạn của các ngành này trong năm 2004 cũng có sự giảm đi đáng kể, chỉ còn 40 triệu đồng, giảm 20% so với nợ quá hạn của ngành này trong năm 2003, và chiếm 32,79% trong cơ cấu nợ quá hạn ngắn hạn theo ngành nghề, tăng 7,15% so với tỷ trọng của năm 2003.
- Đến năm 2005 thì nợ xấu ngắn hạn của ngân hàng trong các ngành nghề kinh doanh dịch vụ là 120 triệu đồng, chiếm tỷ trọng là 9,37% trong tổng cơ cấu nợ quá hạn ngắn hạn của ngân hàng phân theo ngành nghề.
+ Đối với các ngành nghề khác:
Năm 2004 thì nợ quá hạn đối với các ngành nghề khác đã giảm đi được 3 triệu đồng, tương ứng giảm 60% so với nợ quá hạn của năm 2003, chỉ còn lại là 2 triệu đồng, chiếm tỷ trọng là 1,64% trong tổng nợ quá hạn ngắn hạn theo ngành nghề, giảm đựoc 0,92% so với tỷ trọng này của năm 2003. Nguyên nhân chính dẫn đến nợ quá hạn của ngân hàng giảm đối với các ngành nghề khác là do trong những năm qua, các ngành nghề này hoạt động tương đối có hiệu quả, và ý thức trả nợ của họ cũng ngày càng nâng cao.
Như vậy, xét về nợ quá hạn, nợ xấu xảy ra trong các ngành nghề của ngân hàng thì luôn giảm qua các năm, điều này thì tốt cho hoạt động của bất kỳ ngân hàng nào, kể cả ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành, đáng kể nhất là trong ngành nông nghiệp, nợ quá hạn trong ngành nông nghiệp đã giảm đi rất nhiều so với trước đây, nguyên nhân là do trong những năm gần đây ngân hàng luôn có những phân tích hợp lý, phù hợp với nhu cầu về vốn của người dân và với lợi ích tối ưu của ngân hàng như hướng dẫn cho người dân về những nghĩa vụ của họ đối với ngân hàng và những lợi ích đạt được của họ khi trả nợ kịp thời và đầy đủ. Đồng thời có những biện pháp xử lý có hiệu quả đối với những món vay trả nợ quá hạn và kiên quyết xử lý đối với những món vay chai ỳ, vì vậy nợ xấu, nợ quá hạn của ngân hàng luôn giảm.
4.1.2. Nợ quá hạn, nợ xấu trung hạn:
Tình hình nợ quá hạn và nợ xấu trung hạn không xảy ra trong ngành nông nghiệp, mà chỉ xảy ra ở một số ngành khác như: cho vay đối với người tiêu dùng và cá đối tượng khác. Cụ thể là trong năm 2004, nợ quá hạn ngắn hạn của ngân hàng trong các ngành nghề này là 15 triệu đồng, giảm 25% so với nợ quá hạn trong năm 2003, còn trong năm 2005 thì nợ xấu của ngân hàng trong các ngành nghề này còn tồn lại khá cao, 3.238 triệu đồng.
Như vậy trái ngược với tình trạng nợ xấu ngắn hạn, thì nợ xấu trung hạn của ngân hàng xét về các ngành nghề chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng nợ quá hạn, nợ xấu của ngân hàng. Nguyên nhân là do trong cơ cấu nợ xấu thì nợ xấu bao gồm các khoản nợ quá hạn và các khoản nợ chưa thu và được đánh giá là có khả năng khó thu trong năm, vì vậy, các khoản nợ chưa thu này chiếm tỷ trọng khá cao nên làm cho tỷ trọng nợ xấu trung hạn cũng cao hơn nợ xấu ngắn hạn.
4.2. Nợ quá hạn, nợ xấu đối với các thành phần kinh tế:
Bảng 17: Tình hình nợ quá hạn, nợ xấu theo thành phầnkinh tế
ĐVT: triệu đồng
Đối tượng
Năm
Chênh lệch năm 2004/2003 (%)
2003
2004
2005
1. Ngắn hạn
195
122
1.281
-37,44
Doanh nghiệp
50
40
120
-20,00
Hộ gia đình, cá nhân
140
80
1.161
-42,86
Đối tuợng khác
5
2
-60,00
2. Trung hạn
20
15
3.238
-25,00
CBCNV
496
XKLĐ
20
15
2.742
-25,00
Tổng cộng
215
137
4.519
-36,28
Nguồn: Phòng tín dụng
4.2.1. Nợ quá hạn, nợ xấu ngắn hạn:
Cũng giống như tình hình nợ quá hạn, nợ xấu diễn ra trong các ngành nghề, thì tình trạng nợ quá hạn, nợ xấu đối với các đối tượng cũng vậy, tương ứng với ngành nông nghiệp thì tình trạng nợ xấu, nợ quá hạn của của nó là các hộ gia đình, cá nhân; đối với các ngành nghề kinh doanh - dịch vụ là các doanh nghiệp và nợ quá hạn, nợ xấu đối với các đối tượng khác chính là nợ xấu thuộc các ngành nghề khác đã nêu trên.
4.2.2. Nợ quá hạn, nợ xấu trung hạn:
+ Đối với cán bộ công nhân viên thì trong năm 2005, nợ xấu của đối tượng này là 496 triệu đồng, chiếm tỷ trọng là 15,32% trong tổng nợ xấu, nợ quá hạn trung hạn của ngân hàng xét theo các thành phần kinh tế.
+ Còn đối với đối tượng xuất khẩu lao động thì trong năm 2004, nợ quá hạn còn lại là 15 triệu đồng, giảm được 25% so với nợ quá hạn năm 2003, đến năm 2005 thì nợ xấu của đối tượng này là 2.742 triệu đồng chiếm tỷ trọng là 84,68% trong tổng nợ quá hạn, nợ xấu trung hạn xét theo các thành phần kinh tế.
Nhìn chung, tình hình nợ xấu của ngân hàng trong năm qua là khá cao, tuy nhiên so với tổng dư nợ thì nợ xấu trên tổng dư nợ của ngân hàng vẫn còn ở dưới mức cho phép là 5%, vì vậy nếu căn cứ vào tổng doanh số nợ quá hạn, nợ xấu thì ngân hàng vẫn không có biểu hiện tiêu cực, rủi ro kèm theo là có thể chấp nhận được, chất lượng tín dụng vẫn được đảm bảo tốt, ngân hàng kinh doanh khá hiệu quả.
III. Đánh giá hoạt động tín dụng qua 3 năm của ngân hàng thông qua các tỷ số tài chính:
Bảng 18: Tổng hợp các chỉ tiêu phân tích
ĐVT: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
2003
2004
2005
Vốn huy động (VHĐ)
57.400
66.390
85.090
Doanh số cho vay (DSCV)
103.930
152.840
204.390
Doanh số thu nợ
87.680
118.020
180.530
Tổng dư nợ
88.950
123.770
147.630
Nợ quá hạn (NQH)
215
137
4519
Doanh thu
9.300
11.500
19.800
Lợi nhuận
5.700
7.000
9.000
Tỷ suất lợi nhuận (%)
61,29
60,87
45,46
VHĐ/tổng dư nợ (%)
64,53
53,64
57,64
Thu nợ/DSCV (%)
84,36
77,22
88,33
NQH/tổng dư nợ (%)
0,24
0,11
3,06
Nguồn Phòng tín dụng
1. Vốn huy động trên tổng dư nợ:
Năm 2004, tỷ lệ vốn huy động trên tổng dư nợ chiếm 53,64% giảm 10,89% so với tỷ lệ này trong năm 2003, tuy nhiên, tỷ lệ này đã là khá ổn định, vì với tỷ lệ trên 50% thì được xem là ngân hàng hoạt động có hiệu quả, nguồn vốn huy động được sử dụng vào mục đích tín dụng là chủ yếu, tính tự chủ của ngân hàng ngày một cao. Và trong năm 2005 tỷ lệ vốn huy động trên tổng dư nợ lại tăng lên tương đối ổn định, đạt 57,64%, tăng 4% so với tỷ lệ này của năm 2004. Điều này cho ta thấy khả năng huy động vốn của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng, chính họ là người góp phần vào việc sử dụng đồng vốn có hiệu quả.
2. Doanh số thu nợ trên doanh số cho vay:
Tỷ lệ doanh số thu nợ trên doanh số cho vay trong năm 2004 là 77,22%, giảm 7,14% so với năm 2003, sự giảm sút này là do trong năm, giá nhiên liệu tăng vọt, khiến cho bà con nông dân nơi đây gặp rất nhiều khó khăn vì chi phí sản xuất nông nghiệp cũng tăng theo mà giá sản phẩm đầu ra thì chỉ tăng nhẹ. Nhưng đến năm 2005 thì tình trạng này đã ổn định, tỷ lệ này đạt được là 88,33%, tăng 11,11% so với năm 2004, từ đó cho thấy người dân đến vay đã có thể tự chủ trong việc trả nợ và là nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng. Như vậy, năm qua thì tỷ lệ này tăng cao nhất trong những năm gần đây, từ đó ngân hàng có thể yên tâm hơn vì đồng vốn mà mình đã bỏ ra cho vay có thể thu hồi lại một cách có hiệu quả.
3. Nợ quá hạn trên tổng dư nợ:
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ trong năm 2004 tiếp tục giảm so với năm 2003, tỷ lệ này trong năm 2004 là 0,11%, giảm 0,13% so với năm 2003. Có được điều này là do trong công tác tín dụng, cụ thể là trong việc thẩm định các dư án trước khi vay vốn là tương đối tốt, các dự án được đàu tư trong năm luôn được thực hiện theo đúng quy định cho phép và theo sự lãnh chỉ đạo của ban lãnh đạo ngân hàng. Đồng thời, trong năm 2005, thì tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là khá khả quan, chiếm 3,06%, tỷ lệ này đảm bảo theo quy định là dưới 5%. Như vậy, trong ba năm qua, tình trạng nợ quá hạn, nợ xấu trên tổng dư nợ luôn được đảm bảo và từng bước hạ thấp đến mức tối thiểu nhất. Điều này thể hiện khả năng lãnh đạo của ban giám đốc ngân hàng và sự tận tâm với công việc của tập thể cán bộ ngân hàng, đồng thời cũng xuất phát từ ý thức vay của người dân khi đi vay vốn.
4. Tỷ suất lợi nhuận:
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng được thể hiện thông qua tình hình thu nhập, lợi nhuận, đặc biệt là tỷ suất lợi nhuận của ngân hàng. Căn cứ vào tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, ta thấy trong ba năm qua, doanh thu của ngân hàng không ngừng tăng cao, và đạt được mức ổn định, đồng thời lợi nhuận của ngân hàng cũng tăng khá nhanh và tỷ suất lợi nhuận của ngân hàng qua ba năm là tương đối ổn định và giữ ở mức cao. Cụ thể là:
Trong năm 2003 thì thu nhập của ngân hàng chỉ có 9.300 triệu đồng, và lợi nhuận đạt 5.700 triệu đồng, tỷ suất lợi nhuận đạt 60,29%, đây là một tỷ lệ khá cao. Đến năm 2004 thì doanh số thu nhập của ngân hàng tiếp tục được nâng cao, đạt 11.500 triệu đồng, tăng 23,66% so với thu nhập trong năm 2003, và lợi nhuận đạt được là 7.000 triệu đồng, lợi nhuận tăng so với năm 2003 là 22,80%, tỷ suất lợi nhuận đạt 60,87%, giảm 0,42% so với năm 2003. Và trong năm qua, doanh số thu nhập của ngân hàng lại tăng lên rất nhanh, đạt 19.800 triệu đồng, tăng 72,17% so với thu nhập năm 2004, lợi nhuận đạt được của ngân hàng trong năm đạt 9.000 triệu đồng, tăng 28,57% so với lợi nhuận năm 2004, và tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu của ngân hàng đạt 45,46%, giảm 15,41% so với tỷ lệ này trong năm 2004.
Tuy tỷ suất lợi nhuận của ngân hàng trong ba năm qua có giảm nhưng nguyên nhân làm giảm tỷ lệ này không phải là do ngân hàng hoạt động không hiệu quả mà là do trong những năm qua, chi nhánh ngân hàng đã tăng cường chi phí, mạnh dạn đầu tư vào các nghiệp vụ huy động vốn nhằm thu hút nhiều hơn khách hàng và mở rộng quy mô hoạt động, đồng thời tăng cường mua sắm thêm các máy móc, thiết bị phục vụ tốt nhất trong hoạt động của ngân hàng, điều này không chỉ mang lại hiệu quả riêng cho ngân hàng mà còn mang lại hiệu quả cho những khách hàng đến vay vốn tại ngân hàng.
Hiệu quả của ngân hàng được thể hiện thông qua các tỷ số tài chính như doanh số cho vay, tình hình thu nợ, dư nợ, nợ quá hạn.... Đồng thời còn được thể hiện bằng hiệu quả về mặt kinh tế xã hội. Còn hiệu quả đối với người đi vay, những người tạm thời thiếu vốn là họ có thể sử dụng được đồng vốn một cách hiệu quả để đầu tư vào các dự án, phương án sản xuất kinh doanh của mình, góp phần cải thiện đời sống, tăng thu nhập của mình, phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn, gắn kết được “Bốn nhà” trong hoạt động kinh doanh theo xu hướng hiện nay là: nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà bank.
Chương 4
CÁC BIỆN PHÁP MỞ RỘNG TÍN DỤNG
TẠI NHNo&PTNT HUYỆN CHÂU THÀNH
I. Về việc huy dộng vốn:
- Phát huy tính đa dạng hoá các phương thức huy động vốn
- Tăng cường đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng phục vụ đối với khách hàng. Điều này giúp cho ngân hàng xử lý nhanh chóng, tiện lợi và chính xác các nghiệp vụ.
- Mở rộng các loại hình dịch vụ thanh toán, chuyển tiền... bằng việc khai thác tối ưu các đối tượng như: các hộ gia đình có thân nhân định cư ở nước ngoài, hộ vay xuất khẩu lao động, các doanh nghiệp có quan hệ thượng mại với các địa phương khác... để có hướng tư vấn và hướng dẫn họ hiểu rõ tính thuận lợi đối với dịch vụ này, đồng thời làm tăng nguồn thu cho ngân hàng từ các dịch vụ trên.
- Để công tác huy động vốn được thuận lợi hơn nữa, cần mở thêm các điểm huy động vốn tại những nơi có môi trường kinh tế phát triển như các khu thương mại hoặc các cụm tuyến dân cư, để thu hút nguồn vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc gửi, rút và chuyển tiền.
- Cần có sự ưu đãi về phí dịch vụ đối với những đơn vị có quan hệ thanh toán thường xuyên và quan hệ phát sinh cao. Điều này có thể tạo cho họ tính an tâm khi giao dịch tại ngân hàng, đồng thời có thể giữ chân khách hàng trong hoạt động tín dụng.
- Tuyên truyền nhiều hơn nữa đến tận các thành phần kinh tế để họ hiểu rõ lợi ích của mình khi đến với ngân hàng bằng việc chú trọng quảng bá thương hiệu trên các phương tiện trên báo đài...
- Để tăng cường việc huy động vốn, ngoài việc điều chỉnh lãi suất, cần xem xét cung cấp tốt các dịch vụ ngân hàng như: an toàn tiền gửi, gửi tiết kiệm một nơi có thể rút được nhiều nơi, nhằm tạo sự thuận lợi và tiết kiệm thời gian giao dịch cho khách hàng. Ngoài ra cũng có thể tư vấn cho những hộ gia đình có con em theo học tại các trường đại học, cao đẳng tại các tỉnh thành xa như Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ...
II. Về hoạt động cho vay (cấp tín dụng cho khách hàng):
1. Mở rộng các phương thức cho vay:
Sự kết hợp nhiều phương thức cho vay sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cả người vay lẫn ngân hàng, bởi vì người đi vay có thể lựa chọn cho mình một phương thức phù hợp nhất, còn ngân hàng thì sẽ tận dụng được điều này để thu hút được nhiều khách hàng hơn, từ đó có thể tăng doanh số cho vay và mở rộng đựơc quy mô của mình hơn. Như vậy ngân hàng có thể:
- Kết hợp cho vay phục vụ đời sống và cho vay sản xuất nông nghiệp đối với một khách hàng để có thể tăng mức dư nợ, hạn chế được nợ quá hạn, nợ xấu...
- Bám sát các chương trình, các dự án trọng điểm của địa phương về lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhằm phát hiện ra những thị trường tiềm năng để có thể tranh thủ được thời gian thu hút khách hàng trước các đối thủ khác.
2. Thực hiện tốt công tác quản lý và xử lý nợ:
Nợ quá hạn là một vấn đề luôn làm cho các nhà quản trị ngân hàng thương mại luôn quan tâm. Do đó quản lý hạn chế rủi ro luôn là nhiệm vụ hàng đầu của các ngân hàng thương mại. Để hạn chế được nợ quá hạn tốt, cần phải:
- Tăng cường công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, luôn đề cao và xem đây là nhiệm vụ then chốt trong nghiệp vụ tín dụng, nhằm hạn chế rủi ro. Đối với công tác cho vay của ngân hàng, trong tất cả các bước thì việc thẩm định là bước quan trọng nhất để phát tiền vay đến tay người sử dụng, nếu công tác thẩm định không chính xác, đầy đủ, thì rủi ro của ngân hàng là không thể tránh khỏi. Muốn vậy thì đòi hỏi tập thể cán bộ phải có những kiến thức và khả năng am hiểu về luật, đặc biệt là những luật cơ bản liên quan đến hoạt động xử lý nợ quá hạn, nợ xấu như luật dân sự, luật đất đai, luật doanh nghiệp, pháp lệnh thi hành án, công chứng..., tăng cường ý thức chấp hành luật cũng như tuân thủ những quy trình, quy định của Nhà nước và của ngành.
- Cập nhật thông tin thường xuyên và phân tích đánh giá kịp thời khả năng xử lý từng tài sản ở từng địa phương cũng như tình hình giá cả thị trường, tình hình thiên tai địa phương, nắm rõ các định mức phát triển kinh tế kỹ thuật, đặc thù kinh tế của địa phương, các hồ sơ kinh tế địa phương để đầu tư chính xác mang lại hiệu quả cao. Khi rủi ro tín dụng nảy sinh sẽ làm đồng vốn kinh doanh mà ngân hàng bỏ ra sẽ không đem lại hiệu quả, làm ảnh hưởng đến hoạt động chung của ngân hàng, chính điều đó mà trước khi cho vay, cán bộ tín dụng phải nắm bắt được các thông tin, đánh giá khả năng tài chính của khách hàng, cũng như tính khả thi của dự án của họ mang lại, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ với phòng kế toán để theo dõi thường xuyên tình trả nợ của từng khách hàng.
- Kết hợp với các ban ngành đoàn thể ở địa phương nhằm thuận tiện trong việc quản lý từng hộ. Đối với các cán bộ tín dụng thì có thể nắm rõ tình hình hoạt động của hộ, và làm tốt công tác tư vấn cho khách hàng. Đồng thời, có sự can thiệp của chính quyền địa phương trong những trường hợp đột xuất xảy ra. Từ đó phát huy tính hệ thống trong Agribank, đặc biệt là ở những nơi có tài sản cần xử lý.
- Cần đánh giá lại toàn bộ các khoản nợ xấu của ngân hàng để xác định lại các khoản nợ có khả năng thu hồi được, đồng thời dự kiến các chi phí liên quan đến việc khôi phục các khoản nợ này. Sau đó là lập phương án khôi phục các khoản nợ đó với sự tham gia của các ban ngành địa phương đối với từng đối tượng cụ thể, chẳng hạn:
+ Đối với các khoản nợ xấu của các doanh nghiệp thì ngân hàng có thể kiểm soát chặt chẽ các luồng tiền của doanh nghiệp, áp dụng biện pháp thanh toán qua ngân hàng, sắp xếp lại hoặc xác định giá trị doanh nghiệp để kiểm soát có hiệu quả.
+ Đối với đối tượng xấu khẩu lao động thì ngân hàng phải áp dụng biện pháp thanh toán qua ngân hàng khi họ gửi tiền về nước, trường hợp họ gửi về không thường xuyên và không đảm bảo khả năng thanh toán thì ngân hàng kiên quyết xử lý tài sản đảm bảo đúng theo hợp đồng tín dụng đã ký kết.
+ Đối với các hộ gia đình, cá nhân có dấu hiệu bất ổn, có khả năng thua lỗ trong khi thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh thì ngân hàng có thể áp dụng biện pháp rút từng phần hoặc toàn bộ dư nợ đối với khách hàng này, đồng thời, ngân hàng cần kiên quyết xử lý nhiều hơn nữa đối với những hộ vay chai ỳ, để có tác động tích cực đến những hộ khác có ý thức về việc vay vốn.
3. Phân loại và xếp hạng khách hàng theo mức rủi ro tín dụng:
Xếp hạng khách hàng nhằm:
- Cho phép họ có những nhận định chung về rủi ro các khoản cho vay
- Phát hiện sớm các khoản vay có khả năng bị tổn thất, từ đó có biện pháp xử lý thích hợp.
- Nhân viên có thể xác định được khi nào cần tăng sự giám sát
Như vậy, việc xếp hàng khách hàng phải được sắp xếp như sau:
- Khoản vay chất lượng tốt, xếp hạng A, khoản này được thực hiện đối với những người vay mà ngân hàng biết rõ, những người có nguồn thanh toán đầy đủ và rõ ràng.
- Khoản vay có chất lượng, xếp hạng B, những khoản vay này có nguồn thanh toán đầy đủ, không có rủi ro trong việc thu hồi nợ và hoàn toàn tuân thủ tất cả các chính sách của ngân hàng, có ít ngoại lệ trong chính sách vay nợ và trong quá trình chỉnh sửa, các khoản vay này không thuộc loại gây nên tổn thất, mất mát.
- Khoản vay có thể chấp nhận, xếp hạng C, những khoản vay này có nguồn thanh toán đầy đủ, có ít rủi ro trong việc thu nợ và tuân thủ chính sách của ngân hàng.
- Khoản vay không đủ tiêu chuẩn, xếp hạng D, là những khoản hiện tại không đủ vốn tự có, thiếu khả năng thanh toán hoặc tài sản thế chấp của người đi vay.
- Khoản vay nghi vấn, xếp hạng E, là những khoản có nghi vấn trong việc thu nợ, hoặc những khoản thanh toán đầy đủ đã từng xếp hạng D.
- Khoản vay mất mát, xếp hạng F, là những khoản vay không thể thu hồi và có giá trị thấp.
III. Các biện pháp thuộc về cơ chế chính:
Dự báo Việt Nam sẽ gia nhập WTO vào năm 2006, đồng thời hiệp hội thương mại Việt - Mỹ vào năm 2008 với việc thực hiện cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính nên việc cung cấp dịch vụ ngân hàng từ các ngân hàng ngoài nước tại thị trường Việt Nam cũng sẽ gia tăng. Vì vậy, NHNo&PTNT huyện Châu Thành nói riêng và hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam nói chung cần chủ động đề xuất ban hành những chính sách phù hợp với nhu cầu của khách hàng và lợi ích của bản thân ngân hàng. Cụ thể như sau:
- Ngân hàng cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế đầu tư cho nông nghiệp-nông thôn một cách hoàn hảo, như đẩy mạnh đầu tư áp dụng khoa học kỹ thuật, nhất là tiến bộ kỹ thuật về giống cây trồng, vật nuôi, nhằm đảm bảo yêu cầu về vốn, thực hiện tốt mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
- Tăng cường và phát triển các cụm tuyến công nghiệp nông thôn.
- Tham gia các chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp lớn thông qua mô hình kinh tế trang trại, tiểu trang trại, có sự phối hợp với phòng nông nghiệp, trung tâm khuyến nông tịa địa phương.
- Xây dựng thành công việc xã hội hoá công tác tín dụng ngân hàng, phục vụ tốt cho chương trình xoá đói giảm nghèo và phát triển mạnh mẽ các làng nghề truyền thống, tiểu thủ công nghiệp tại địa phương.
- Đẩy mạnh đầu tư cho các cơ sở cung ứng dịch vụ như: cung cấp phân bón, thuốc trừ sâu, máy móc phục vụ cho nông nghiệp, thức ăn gia súc...
IV. Các biện pháp khác:
1. Marketing (tìm kiếm khách hàng và thu hút khách hàng)
- Việc này đòi hỏi nhân viên chuyên trách ngân hàng nghiên cứu nền kinh tế của mình, chuyên sâu vào các xí nghiệp, công ty, khu sản xuất, cá nhân sản xuất…để có thể phân loại khách hàng và nghiên cứu thị trường để xác định được đâu là khách hàng chiến lược đâu là khách hàng mục tiêu, khách hàng tiềm năng và vòng đời lưu giữ khách hàng, nhằm nắm bắt được các thành phần có nhu cầu mở rộng, cải tiến, phát triển doanh nghiệp mình. Từ đó cung ứng tín dụng, tạo điều kiện cho các tổ chức phát triển, đồng thời đầu tư vào các ngành, các dự án có tính khả thi cao.
- Khi thu hút khách hàng sẽ phải cạnh tranh khách hàng với các ngân hàng khác. Do đó muốn cạnh tranh tốt, đòi hỏi ngân hàng không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật nghiệp vụ, hoàn thiện hệ thống thanh tra, kiểm soát và đổi mới công nghệ ngân hàng, tạo điều kiện phục vụ tốt hơn cho khách hàng.
- Thực hiện tuyên truyền, quáng bá hình ảnh của chi nhánh ngân hàng nhiều hơn nữa trên các phương tiện thông tin như: trên các tạp chí ngân hàng, tên pano, áp phích, trên đài truyền thanh... về những thông tin có liên quan đến hoạt động tín dụng như lãi suất, các phương thức cho vay, thủ tục khi vay, đặc biệt là hiệu quả khi vay của từng đối tượng.
- Tổ chức giao lưu hoặc tham gia vào các phong trào văn hoá văn nghệ quần chúng, thể dục thể thao trên địa bàn huyện và những vùng lân cận.
- Tổ chức tham giếng, tạng quà cho những khách hàng thuộc loại A, B, những khách hàng thường xuyên có mức dư nợ cao trong những tết, lễ lớn hoặc những trường hợp hỷ sự, hữu sự của gia đình họ để có thể tìm hiểu nhiều hơn nữa về tình hình sử dụng vốn vay cũng như phát hiện nhu cầu về vốn của các khách hàng tiềm năng, những khách hàng thân tín với họ.
2.Yếu tố con người trong hoạt động tín dụng:
- Để mọi người thực hiện tốt thì việc thực hiện chính xác các quy định về chuyên môn nghiệp vụ, đòi hỏi cán bộ tín dụng cần cập nhật trên báo đài... nhằm giúp cho việc xử lý tín dụng thuận lợi, trôi trải. Tuân thủ đúng các quy chế về chuyên môn nghiệp vụ, thực hiện đúng quy định là đòi hỏi hàng ngày trong hoạt động tín dụng ngày nay.
- Nếu cần thì có thể đào tạo hoặc đào tạo lại trình độ của nhân viên ngân hàng. Ngoài chuyên môn nghiệp vụ ngân hàng, cần bổ sung thêm kiến thức về lĩnh vực kinh doanh để khắc phục công tác thẩm định khách hàng trước khi quyết định cho vay vốn.
- Tạo cơ hội cho nhân viên tiếp xúc, trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp trong và ngoài đơn vị công tác. Tạo cơ hội để cho nhân viên phát huy hết mọi khả năng tiềm ẩn của mình.
- Bên cạnh đó cần nâng cao nhận thức nghề nghiệp cho nhân viên để họ nhận thức nhiều hơn nữa về điều này, và đây chính là biện pháp hữu hiệu nhất để thu hút khách hàng.
- Và hiện nay, để giảm bớt tình trạng quá tải thì có thể phân bố các cán bộ làm công tác tín dụng theo hình thức mỗi cán bộ chỉ nên phụ trách một địa bàn để việc quản lý thuận tiện hơn, nhằm mở rộng hoạt động tín dụng tại ngân hàng.
- Có thể lập đoàn, tổ thu nợ và lưu động vào những vụ mùa cao điểm tại những nơi có mức dư nợ cao với thủ tục thuận tiện, dễ dàng, nhằm giảm tải áp lực về việc khách hàng đến ngân hàng quá đông. Đồng thời, khách hàng cũng giảm được những chi phí phát sinh và cũng giảm tải được công việc cho các cán bộ tín dụng trực tại cơ quan.
PHẦN KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN:
Để hoạt động của ngân hàng ngày càng phát triển và trở thành nơi tin cậy của các doanh nghiệp cũng như của cộng đồng dân cư, đặc biệt hơn nữa trong cơ chế thị trường hiện nay, khả năng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng đang cùng hoạt động trên địa bàn cũng là một trong những vấn đề cần phải quan tâm. Với thực tế trên địa bàn huyện Châu Thành rộng lớn và còn dầy tiềm năng chưa đánh giá hết thì việc mở rộng và nâng cao chất lượng về hoạt động tín dụng là điều rất cần thiết. Hiện tại một số ngân hàng thương mại đang hoạt động trên địa bàn huyện cũng chưa triển khai hết các hoạt động dịch vụ , một phần lớn dân cư và cơ sở sản xuất, kinh doanh vừa và nhỏ chưa tiếp nhận đựơc hiệu quả cũng như lợi ích của các hoạt động do ngân hàng mang lại, ngay cả trong hoạt động dịch vụ của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành cũng chưa phát huy hết khả năng và nội lực. Vì vậy, Nhận thức về việc nâng cao mức thu dịch vụ trong tổng nguồn thu của ngân hàng cũng đồng nghĩa với việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trong giai đoạn hiện nay là rất đúng lúc và đúng hướng phát triển chung của nền kinh tế nước ta.
Bên cạnh đó, hoạt động của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành luôn được sự lãnh, chỉ đạo của ngân hàng cấp trên, Huyện Uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND huyện Châu Thành, và sự phối hợp, kết hợp với các ban ngành đoàn thể có liên quan trong việc tháo gỡ những khó khăn cho các thành phần kinh tế đang hoạt động trên địa bàn. Tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư tín dụng được mở rộng, có hiệu quả, phục vụ cho sự phát triên kinh tế - xã hội của địa phương. Nắm bắt được thế mạnh của địa phương, hoạt động của ngân hàng đã xác định được mục tiêu trước mắt và lâu dài của ngành là tập trung ưu tiên phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn, kết hợp với đầu tư xây dựng phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng gắn với thuỷ lợi hoá nông nghiệp.
Như vậy, trong ba năm qua, ngân hàng luôn thực hiện tốt phương châm an toàn để phát triển, thực hiện nghiêm ngặt công tác kiểm tra hoạt động tín dụng, tiến hành phân loại các khoản vay có vấn đề, để có biện pháp xử lý, thu hồi thích hợp, tuân thủ nghiêm ngặt 5 tiêu chí: “trung thực, kỷ cương, sáng tạo, chất lượng, hiệu quả”, vì vậy tốc độ tăng trưởng tín dụng trong ba năm qua luôn tăng cao, chất lượng tốt, đảm bảo khả năng sinh lợi và giảm thiểu rủi ro. Đồng thời hoạt động tín dụng luôn thực hiện theo nguyên tắc thoả mãn nhu cầu về vốn của khách hàng, là nơi đáng tin cậy, và luôn mang phồn thịnh đến với khách hàng, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế nông thôn.
Tuy nhiên, hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng chứa đựng những rủi ro khó lường. Để có thể giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh thì ngân hàng cần phải khắc phục được nguyên nhân làm phát sinh nợ quá hạn, điều này ngân hàng có thể thực hiện được nhằm củng cố và tiếp tục mở rộng tín dụng không chỉ trong nông nghiệp, nông thôn, mà còn đối với mọi thành phần khác trong xã hội.
2. KIẾN NGHỊ:
- Về phía các cơ quan Nhà nước, các ban ngành có liên quan:
+ Chính quyền địa phương cần quan tâm hơn nữa công tác tuyên truyền quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với người nông dân để họ biết và nhận thức được đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình khi vay vốn ngân hàng.
+ Cần có kế hoạch và giải pháp hỗ trợ đầu tư cụ thể như: quy hoạch vùng chuyên canh trồng các loại cây, con giống và các làng nghề truyền thống... để người sản xuất yên tâm đầu tư, và sản xuất đạt hiệu quả cao.
- Về phía ngân hàng:
+ Ngân hàng cần có kế hoạch triển khai việc lắp đặt một số máy rút tiền tự động, sử dụng thẻ ATM trong thời gian sớm nhất, vì cho đến nay, một số vùng lân cận đã sử dụng hình thức rút tiền này. Ưu điểm của hình thức này là nhanh chóng, tiện lợi, tính an toàn cao, phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế. Từ đó ngân hàng có thể nâng cao mức thu dịch vụ, mở rộng hệ thống tín dụng.
+ Nếu cần thì ngân hàng có thể mở thêm chi nhánh cấp dưới hoặc phòng giao dịch tại một trong các địa phương như: Tân Phú, Phú Long, Tân Phú Trung, bởi vì tiềm năng tín dụng tại các địa phương này còn chưa khai thác hết và khả năng mở rộng các làng nghề truyền thống ở nơi đây là rất cao, và hiện tại thì ngân hàng chỉ có một điểm hoạt động trên địa bàn huyện. Như vậy, cần phải mở rộng mạng lưới giao dịch trên địa bàn là điều cần thiết hiện nay.
+ Về nhân sự, nếu có đủ điều kiện mở rộng mạng lưới giao dịch thì ngân hàng có thể phân công, bố trí hoặc tăng thêm số lượng cán bộ làm công tác tín dụng một cách phù hợp để tránh tình trạng quá tải, gây ảnh hưởng không tốt trong hoạt động tín dụng như phát sinh rủi ro tín dụng của ngân hàng... Tuy nhiên, cán bộ tín dụng được bố trí phải là những người có phẩm chất dạo đức tốt, trung thực, có trình độ chuyên môn, không ngại khó khăn với công việc và địa bàn mà mình phụ trách, đặc biệt là phải yêu nghề và hiểu rõ thực tế, nhằm mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội.
Tài liệu tham khảo
1. Sổ tay tín dụng. Sử dụng cho toàn hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
2. Cẩm nang tín dụng – Nhà xuất bản Hà Nội, 2002.
3. Giáo trình lý thuyết Tiền tệ & Ngân hàng – TS.Ngô Hướng, ThS.Tô Kim Ngọc – NXB Thống kê, 2001.
4. Tín dụng ngân hàng – PGS.TS.Nguyễn Đăng Dờn, TS.Hoàng Đức, TS.Trần Huy Hoàng, TS.Trần Xuân Hương, ThS. Nguyễn Quốc Anh – NXB Thống kê - Trường Đại học kinh tế TPHCM.
5. Các văn bản về hoạt động tín dụng
6. Các báo cáo tổng kết của ngân hàng trong những năm gần đây.
7. Các trang wed về thông tin kinh tế
- www.Agribank.com
- www.vietnamnet.vn/chinhtri/2006/07/593287/
- www.cpv.org.vn/chuyende/nnnn/
8. Tạp chí ngân hàng – 10/2005
9.Tạp chí công nghệ ngân hàng - Trường Đại học ngân hàng Thành Phố Hồ Chí Minh (Tháng 7 – 8/2005)
10. Tạp chí công nghệ ngân hàng - Trường Đại học ngân hàng Thành Phố Hồ Chí Minh (Tháng 01 – 02/2006)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kilo32 .doc