Lý do chọn đề tài
Trong thời gian gần đây từ năm 2005 – 2007 Ngành Thủy Sản Việt Nam đã tạo
ra những con số thật ấn tượng: Nằm trong top 10 nước đạt tốc độ tăng trưởng
cao nhất về nuôi trồng thủy sản trên thế giới , là ngành sản xuất mang lại
nguồn ngoại tệ lớn thứ 4 cho cả nước, có một tốc độ tăng trưởng đáng kinh
ngạc từ 1 tỉ USD xuất khẩu năm 2000 lên 3,6 tỉ năm 2007 tăng bình quân trên
16.5%/năm (gấp đôi tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân của nền kinh tế
Việt Nam), và đã có 10 công ty xuất khẩu của ngành tham gia huy động vốn
trên thị trường Chứng Khoán Việt Nam. Nhưng trong giai đoạn cuối 2007 đầu
2008 ngành này có dấu hiệu tụt dốc nghiêm trọng: các vụ kiện về vệ sinh an
toàn thực phẩm, bệnh thủy sản phát triển mạnh, giá nguyên liệu biến động khó
lường, các công ty xuất khẩu bị thu hẹp thị trường.
Vậy câu hỏi đặt ra là thực sự ngành thủy sản Việt Nam có phải là ngành mũi
nhọn của nền kinh tế hay không ? Ngành Thủy Sản của chúng ta có thực sự
cạnh tranh được với ngành Thủy Sản của các quốc gia đã thương mại hóa
ngành này trước chúng ta hơn 20 năm như Mĩ, Nhật, Trung Quốc với thế mạnh
cả về nguồn lực và khả năng khai thác hay không? Vì nếu chúng ta muốn thúc
đẩy nền kinh tế phát triển trong môi trường cạnh tranh toàn cầu và khốc liệt
như ngày nay, mỗi quốc gia chỉ có hai con đường để lựa chọn : một là tìm ra
những ngành hoàn toàn mới mà mình có thế mạnh-đây có thể được xem như là
“cái ngách” của ngành. Hai là phát huy tiềm năng những ngành đã tồn tại từ rất
lâu nhưng lại phải chịu một áp lực rất lớn từ các quốc gia phát triển có một nền
công nghiệp hiện đại, một nền KHKT mạnh mẽ. Các quốc gia này luôn tạo ra
những cuộc chiến về giá và các tiến bộ về KHKT.
Đề tài nghiên cứu “Phân tích ngành Thủy Sản Việt Nam” với mong muốn đóng
góp một cách nhìn khách quan và hợp lý nhất để trả lời cho các câu hỏi trên.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Với cách nhìn nhận trên đề tài đã xoáy sâu vào nghiên cứu ngành Thủy sản dữa
trên các khía cạnh sau:
 Nhu cầu thực sự của ngành Thủy Sản hiện nay
 Năng lực cạnh tranh của ngành Thủy Sản trên các phương diện khác nhau
 Quan sát các nhân tố rủi ro tác động đến ngành Thủy Sản
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài xuất phát từ nhu cầu thực tế về ngành Thủy Sản trên thế giới (cả nhu cầu
ngắn hạn và dài hạn-đây là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của ngành). Sau
đó tập trung phân tích những khả năng cạnh tranh của ngành Thủy Sản Việt
Nam trên các phương diện vốn có đối với một ngành sản xuất như: Áp lực
cạnh tranh từ nguồn nguyên liệu đầu vào, sản phẩm đầu ra, và nhiều áp lực
cạnh tranh khác tác động lên ngành. Đặc biệt sự cạnh tranh của ngành được
xét cả ở thị trường nội địa cũng như thị trường xuất khẩu. Và cuối cùng là phân
tích các nhân tố rủi ro có khả năng ảnh hưởng tới ngành và tác động của các
nhân tố này đến giá thị trường của các công ty Sản xuất Thủy Sản đang niên
yết trên sàn. Qua tất cả những mô hình và lập luận phân tích đều nhằm mục
đích đánh giá khả năng, xu hướng phát triển, cơ hội, thách thức của ngành
Thủy Sản Việt Nam trong tương lai.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
 Thu thập rất nhiều thông tin về ngành từ các nguồn thông tin khác
nhau: Internet, báo, truyền hình, tham khảo ý kiến các thầy cô trong
ngành, tham khảo ý kiến các chuyên gia nghiên cứu trong ngành,
tham khảo các báo cáo nước ngoài về phân tích ngành, quan sát thực
tế thị trường chợ và siêu thị .
 Thu thập và xử lý các số liệu quan sát trong gần 4 năm với 39 quan
sát.
 Dùng Mô Hình Hồi Quy kinh tế lượng phân tích rủi ro cho ngành.
 Áp dụng có sàng tạo mô hình APT cho phân tích rủi ro của ngành.
5. Kết cấu đề tài
Đề tài gồm 3 Chương:
 Chương 1: Thị trường chung của ngành Thủy Sản.
 Chương 2: Phân tích ngành Thủy Sản.
 Chương 3: Ngành Thủy Sản có phải là ngành chiến lược Việt Nam?
( Một số giải pháp chính cho ngành trong thời kì hội nhập).
(Vì đây là đề tài nghiên cứu theo cấu trúc phân tích ngành mới nên trong quá
trình phân tích thông suốt các chương đều có những kết luận về khó khăn và
thách thức của ngành. Nên giải pháp nêu ra ở cuối chương chỉ là phần tóm tắt
ngắn gọn lại toàn bộ những giải pháp đã được đề cập và phân tích ở trên)
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
92 trang | 
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 3967 | Lượt tải: 3
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích ngành thủy sản Việt Nam: Ngành thủy sản sự phát triển, cơ hội và thách thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh thủy sản, ngay cả những người hoạt động 
trong nghề cũng như những người quan tâm đến đề tài để chúng ta tiếp cận được với cái 
nhìn khách quan nhất về ngành. 
Xin chân thành cảm ơn! 
DANH MỤC THAM KHẢO 
 GIÁO TRÌNH THAM KHẢO HÌNH THÀNH MÔ HÌNH. 
1. Tài Chính Doanh Nghiệp Hiện Đại _ PGS. TS Trần Ngọc Thơ Chủ Biên. 
2. Đầu Tư Tài Chính _ TS. Phan Thị Bích Nguyệt. 
3. Giáo Trình Kinh Tế Lượng _ Bộ Môn Toán Thống Kê 
 Trường ĐH Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh. 
4. Niên Giám Thống Kê Kinh Tế Việt Nam năm 2006. 
5. Mô hình 5 Áp lực cạnh tranh – Techniques Analyzing Industries and 
Competitors _ Michael Porter. 
6. Các Trang web thống kê. 
Asian Development Bank (ADB). 
Trang thông tin khoa học công nghệ kinh tế Thủy Sản. 
Thống kê của FAO 
mai&sub=gia-ca&news_id=1574 
Thống kê giá_Sở Thương Mại Thủy Sản An Giang. 
Trung Tâm Thông Tin PT Nông Nghiệp Nông Thôn. 
Tổng Cục Thống Kê Việt Nam 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHÂN TÍCH NGÀNH. 
1. Các Báo Cáo Tham Khảo. 
 The state of world fisheries and Aquaculture 2006 _ Website: www.Fao.org 
 Regional review on aquaculture development _ Asian and the Pacific 2005 _ 
Sales and Marketing Group Information Division Fao. 
 Báo Cáo Phân Tích Ngành Chế Biến Xuất Khẩu Thủy Sản _ Công ty cổ phần 
Chứng Khoán Việt Quốc ( tháng 1/2008 ) 
 Hướng dẫn quản lý môi trường trong đầu tư nuôi trồng Thủy Sản ở Việt Nam.( 
Xây dựng theo yêu cầu của Bộ Thủy Sản và Ngân Hàng Thế giới). 
2. Các Website Thông Tin Ngành. 
Trang web của Hiệp hội Vasep 
Trang web Viet Linh chuyên cung cấp thông tin về ngành Thủy Sản. 
Trung Tâm Tin Học Thủy Sản 
Seafood from VietNam 
_index=15&warn_level_id=4&ma_canhbao=51 
Hệ Thống Quan Trắc Cảnh Báo Môi Trường Dịch bệnh ngành Thủy Sản. 
Thương Hiệu Nông Sản Việt Nam 
Thương Hiệu Việt. 
Thị Trường _ Nông Lâm Hải Sản. 
Thông Tin Thương Mại Việt Nam. 
3. Web Thương Mại Ngành. 
Trung Tâm Thông tin Thương Mại Việt Nam. 
Trung Tâm Thông Tin Thông Tin Kinh Tế-Xã Hội Quốc Gia. 
22 
Viện Kinh Tế Thành Phố Hồ CHí Minh. 
Cục Xúc Tiến Thương Mại 
Tổng Cục Hải Quan 
Hội Nông Dân Việt Nam 
Bộ Kế Hoạch Và Đầu Tư 
 Viện 
Nghiên Cứu Hải Sản. 
4. Một số Website Của Một Số Công Ty Thủy Sản. 
29 
 Công ty cổ phần xuất khẩu Thủy Sản Agifish. 
54/language/vi-VN/Default.aspx?category=1&pageIndex=0&newsID=45 
Công Ty Cổ Phần XNK Thủy Sản Nam Việt. 
Công Ty Cổ Phần XNK Thủy Sản Minh Phú 
Công Ty Cổ Phần XNK Thủy Sản Bến Tre 
Công Ty Cổ Phần XNK Thủy Sản Sao Ta 
&id=154 
Vĩnh Hoàn Corp. 
Phụ Lục 1: Ngành Thủy Sản Việt Nam 
Việt Nam được đánh giá là một nước có tiềm năng phát triển ngành thủy sản rất 
lớn.Việt Nam được ưu đãi nhiều về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý thuận lợi, đây cũng 
chính là lý do từ lâu cuộc sống của phần lớn đại bộ phận người nông dân Việt Nam đã 
gắn liền với “nghề cá”. 
Việt Nam có một bờ biển với chiều dài hơn 3.260 km, so sánh với vùng lãnh thổ 
thì ta thấy trung bình cứ 100 km2 đất liền lại có 1 km chiều dài bờ biển – đây là một tỉ lệ 
bờ biển chưa phải bậc nhất, nhưng cũng được xếp vào loại rất cao trong số các quốc gia 
và vùng lãnh thổ có biển.Với đường bờ biển của Việt Nam kéo dài từ Móng Cái (Quảng 
Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang), đi qua hơn 13 vĩ độ với nhiều vùng sinh thái khác nhau, 
nhìn ra Vịnh Bắc Bộ ở phía Bắc, Thái Bình Dương ở miền Trung và Vịnh Thái Lan ở 
miền Tây Nam Bộ. Diện tích vùng nội thuỷ và lãnh hải rộng 226 nghìn km2, diện tích 
vùng biển đặc quyền kinh tế hơn 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền. 
Hơn thế nữa vùng biển Việt Nam thuộc phạm vi ngư trường Trung tây Thái Bình 
Dương, có nguồn lợi sinh vật phong phú, đa dạng, là một trong những ngư trường có trữ 
lượng hàng đầu trong các vùng biển trên thế giới. Biển Việt Nam có trên 2.000 loài cá, 
trong đó khoảng 130 loài cá có giá trị kinh tế. Theo những đánh giá mới nhất, trữ lượng 
cá biển trong toàn vùng biển là 4,2 triệu tấn, trong đó sản lượng cho phép khai thác là 1,7 
triệu tấn/năm, bao gồm 850 nghìn cá đáy, 700 nghìn tấn cá nổi nhỏ, 120 nghìn tấn cá nổi 
đại dương. Bên cạnh cá biển còn nhiều nguồn lợi tự nhiên như trên 1.600 loài giáp xác, 
sản lượng cho phép khai thác 50 - 60 nghìn tấn/năm, có giá trị cao là tôm biển, tôm hùm 
và tôm mũ ni, cua, ghẹ; khoảng 2.500 loài động vật thân mềm, trong đó có ý nghĩa kinh 
tế cao nhất là mực và bạch tuộc (cho phép khai thác 60 - 70 nghìn tấn/năm); hằng năm có 
thể khai thác từ 45 đến 50 nghìn tấn rong biển có giá trị kinh tế như rong câu, rong mơ 
v.v... Bên cạnh đó, còn rất nhiều loài đặc sản quí như bào ngư, đồi mồi, chim biển và có 
thể khai thác vây cá, bóng cá, ngọc trai, v.v... 
Trong vùng viển có 4.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có những đảo lớn có dân cư 
như Vân Đồn, Cát Bà, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc, có nhiều vịnh, vũng, eo ngách, các 
dòng hải lưu là ngư trường khai thác hải sản thuận lợi, cũng là nơi có nhiều điều kiện tự 
nhiên để phát triển nuôi cá nước mặn và nước lợ, xây dựng các khu căn cứ hậu cần nghề 
cá. 
Bên cạnh điều kiện tự nhiên vùng biển, Việt Nam còn có nguồn lợi thuỷ sản nước 
ngọt ở trong 2.860 con sông lớn nhỏ, nhiều triệu hecta đất ngập nước, ao hồ, kênh rạch 
ruộng trũng, rừng ngập mặn, đặc biệt là ở lưu vực sông Hồng và sông Cửu Long, v.v… 
Với điều kiện khí hậu nhiệt đới ôn hòa đã tạo môi trường sống cho cả một hệ sinh thái 
thủy sản nước ngọt và lợ. 
- Theo thống kê của ngành thì nguồn lợi thủy sản nước ngọt gồm 544 loài trong 18 bộ, 57 
họ, 228 giống. Với thành phần giống loài phong phú nước ta được đánh giá có đa dạng 
sinh học cao. Trong 544 loài có nhiều loài có giá trị kinh tế. 
- Nguồn lợi cá nước lợ, mặn: đã thống kê 186 loài chủ yếu. Một số loài có giá trị kinh tế 
như: cá song, cá hồng, cá tráp, cá vược, cá măng, cá cam, cá bống, cá bớp, cá đối, cá dìa. 
Trong đó đã đưa vào nuôi: cá vược, cá giò, cá song, cá măng, cá cam.... 
- Nguồn lợi tôm: Ðã thống kê được 16 loài chủ yếu có giá trị kinh tế và đưa vào nuôi: 
tôm sú (P.monodon), tôm lớt (P.merguiensis), tôm HE ẤN Ộ (P.indicus), tôm rảo 
(Metapenaeus ensis), tôm nương (P.orientalis), tôm hùm bông (Panulirus ornatus), tôm 
càng xanh (Macrobrachium rosenbergii). 
- Về nhuyễn thể: có một số loài chủ yếu: trai, hầu, điệp, nghêu, sò, ốc... đang được đưa 
vào nuôi: trai, nghêu, sò.... 
- Về rong tảo: với 90 loài có giá trị kinh tế trong đó đáng kể là rong câu (có 11 loài), rong 
mơ, rong sụn... 
Tất cả những nhân tố trên đều cho thấy “nghề cá” Việt Nam là một ngành có tiềm 
năng thực sự. Vậy theo đánh giá của các nhà đầu tư đối với ngành này trong ngắn 
hạn và dài hạn như thế nào? Họ đã thực sự đánh giá được giá trị của ngành chưa ? 
Để làm rõ được điều này đề tài chủ yếu tập trung vào khai thác 3 nhân tố chủ yếu, 
đó là những nhân tố được quan sát từ góc độ của nhà đầu tư đối với ngành : 
 Nhu cầu thực sự của ngành hiện nay 
 Năng lực cạnh tranh của ngành trên các phương diện khác nhau 
 Nhân tố rủi ro tác động đến ngành 
Phụ Lục 2: Những Con Số Tổng Quan 
 Mười năm qua, XK thủy sản luôn đạt tốc độ tăng trưởng khá cao 13%/năm. Kim 
ngạch XK năm 2006 đã đạt 3,35 tỷ USD. Những con số chỉ tiêu chủ yếu đạt được nêu 
trên của ngành thủy sản năm 2006 cho thấy kết quả của một quá trình tăng trưởng nhiều 
năm, đặc biệt là từ năm 2000, khi xuất khẩu thủy sản vượt qua giá trị 1 tỷ USD/năm. 
 Năm 2007 thủy sản tiếp tục giữ vững vị trí là ngành sản xuất mang lại nguồn 
ngoại tệ lớn thứ tư cho cả nước. Sản lượng thủy sản cả nước ước đạt 3,9 triệu tấn, trong 
đó, khai thác đạt 1,95 triệu tấn, nuôi trồng 1,95 triệu tấn, với kim ngạch xuất khẩu 3,75 tỷ 
USD. 
 Năm 2007, nước ta nằm trong top 10 nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới. 
Con số này giúp thủy sản tiếp tục duy trì ngôi vị thứ 4 trong những mặt hàng xuất khẩu 
hàng đầu Việt Nam, đồng thời khẳng định, thủy sản là ngành kinh tế hiệu quả và mang lại 
nhiều lợi ích xã hội. 
 Từ 18 doanh nghiệp năm 1999, đến nay sản phẩm TS của Việt Nam đã có mặt tại 
trên khắp 116 thị trường quốc tế, tạo chỗ đứng vững chắc ở nhiều thị trường lớn và khó 
tính như Mỹ, Nhật và EU. Sức tăng trưởng khả quan này một phần lớn là kết quả của sự 
phát triển khá ồ ạt của hàng loạt các nhà máy chế biến trên khắp cả nước. Tính đến cuối 
năm 2007 số lượng các nhà máy chế biến và XKTS đã lên trên 450 cơ sở. 
 Công nghệ chế biến thủy sản của các doanh nghiệp (DN) Việt Nam hiện nay 
ngang với trình độ của các nước trong khu vực và bước đầu tiếp cận với công nghệ của 
thế giới. Việt Nam có 470 DN chế biến thuỷ sản đông lạnh thì 346 cơ sở đạt tiêu chuẩn 
ngành về ATVSTP, trong đó 245 DN được phép xuất khẩu sang EU, 34 DN được xuất 
vào Mỹ và Canada. 
 Việc gia nhập WTO mang lại nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp thủy sản, 
ngành đang chiếm tới 8,6% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tốc độ phát triển Xuất 
khẩu thủy sản rất lớn và tiềm năng phát triển ngành còn rất rộng. 
Từ năm 2006 Việt Nam được mệnh danh là cường quốc thủy sản mới ở Đông Nam Á. 
Phụ Lục 3 : Thị Trường Xuất Khẩu Chính Của Ngành 
Thủy Sản Việt Nam Trong Thời Gian Gần Đây 
CHÂU ÂU (EU) 
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU luôn có chiều hướng tăng mạnh nhất 
là tron giai đoạn từ 2004 đến nay. Hiện nay, EU giữ vị trí là nhà NKTS lớn nhất của 
VN. Năm 2007, EU đã nhập trên 279 nghìn tấn thủy sản VN, trị giá khoảng 908 triệu 
USD, tăng gần 25,5% về giá trị, chiếm khoảng 25,7% tổng giá trị XKTS của VN. Đây 
là thị trường mà từ đầu năm đến nay luôn duy trì mức tăng trưởng mức khá cao, từ 33-
41% so với cùng kỳ năm ngoái. 
Nòng cốt cho sự phát triển chung của cả khối là các thị trường đơn lẻ như: Đức 
(tăng 39,6%), Tây Ban Nha (30%), Hà Lan (28%). Mặt hàng chủ đạo được NK là cá 
philê đông lạnh, tiếp đến là tôm và nhuyễn thể chân đầu. 
Dự đoán, EU sẽ tiếp tục có mức tăng trưởng cao xuất phát từ những lý do: sản 
lượng đánh bắt của toàn EU bị cắt giảm, nhất là loài cá thịt trắng chuyên phục vụ cho chế 
biến thành philê. EU sẽ tiếp tục thâm hụt lớn trong thương mại thủy sản, NKTS trong 
năm 2006 tăng 10,7% so với năm 2005, năm 2008 sẽ tiếp tục theo xu hướng này. 
NHẬT BẢN 
Thị trường Nhật cho đến nay vẫn là nhà NK lớn thứ 2 của thuỷ sản VN, mặc dù 
tiếp tục tình trạng tăng trưởng âm từ cuối năm 2006. Với mức tiêu thụ thủy sản theo 
đầu người cao nhất thế giới, Nhật Bản là thị trường tiềm năng lớn cho ngành chế biến 
thủy sản xuất khẩu nước ta. Muốn thâm nhập thành công thị trường Nhật, các doanh 
nghiệp phải luôn biết làm mới sản phẩm của mình. Trong khi đó đa số các DN Việt 
Nam chưa thực sự chú trọng nghiên cứu để nắm bắt được khẩu vị của người tiêu dùng 
Nhật Bản từ đó có chiến lược sản xuất hàng cho phù hợp. 
Năm 2007, Nhật nhập khoảng trên 119 nghìn tấn thủy sản VN, trị giá gần 746 
triệu USD, giảm 3,8% về KL, gần 11,5 % về GT so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 
khoảng 21,1% tổng GT XKTS của VN. 
Sự sụt giảm chủ yếu là do nhu cầu NK tôm của Nhật đã có sự thay đổi khá lớn về 
thị hiếu tiêu dùng, họ tăng cường NK tôm cỡ lớn, tôm chế biến GTGT và tôm chân 
trắng. 
Tôm chân trắng ngày càng được đánh giá cao trước tính cạnh tranh về giá và Nhật 
đã có nhiều động thái quay sang tìm kiếm nguồn cung cấp ở các nước khác (tôm cỡ 
to, tôm GTGT của Thái Lan và tôm nguyên liệu từ Inđônêxia…). 
Bên cạnh đó, trong những tháng đầu năm 2007, vấn đề dư lượng kháng sinh đã 
gây ảnh hưởng khá mạnh. Đây là mối quan tâm lớn của các doanh nghiệp xuất khẩu 
và của toàn ngành, bởi thị trường này có vị trí rất quan trọng đối với thuỷ sản Việt 
Nam. 
MỸ 
Thị trường Mỹ, sau một giai đoạn phục hồi và tăng trưởng khá vào quí II và quí 
III, sang quí IV, nhập khẩu của nước này tiếp tục không ổn định hoặc giảm nhẹ. Năm 
2007, Mỹ đã tiêu thụ gần 100 nghìn tấn thuỷ sản Việt Nam, trị giá trên 720,5 triệu 
USD, tương đương về KL nhưng tăng 8,5% về GT so với năm 2006, chiếm khoảng 
20,4% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của VN. 
Hiện tại, các nước như Thái Lan, Êcuađo, Inđônêxia và Trung Quốc đang tập 
trung mạnh hơn vào thị trường Mỹ với các mặt hàng tôm chế biến GTGT. Ở mảng thị 
trường này, Việt Nam có thế mạnh nhất là tôm sú cỡ lớn ≤ 15. Tuy nhiên, XK cá tra 
philê vào thị trường này đã xuất hiện dấu hiệu sụt giảm. 
Mỹ vẫn duy trì vị trí thứ 2 về NK tôm của VN. Cuối năm 2007, XK sang Mỹ chỉ 
tăng nhẹ và ổn định, do XK tôm của VN tăng không đáng kể, giá thành nguyên liệu 
trong nước khá cao, trong khi đó nhiều nguồn cung cấp trên thế giới đều đổ về thị 
trường Mỹ gây sự cạnh tranh gay gắt (từ Thái lan, Trung Quốc và Êcuađo…). Các 
năm trước cá ngừ là một trong những mặt hàng xuất khẩu khá mạnh vào Mỹ, sang 
năm 2007 XK mặt hàng liên tục giảm khiến giá trị xuất nói chung cũng bị giảm. Tin 
vui cho thủy sản Việt Nam trong năm 2008 là Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đã đưa 25 
doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa Việt Nam ra khỏi danh sách xem xét hành chính 
sơ bộ thuế chống bán phá giá, và 29 DN Việt Nam đã được giảm thuế nhập khẩu tôm 
vào thị trường Mĩ xuống còn 0%. Đây là cơ hội tốt để Việt Nam tiếp tục đưa sản 
phẩm của mình thâm nhập thị trường rộng lớn số 1 của thế giới này. 
HÀN QUỐC 
Hàn Quốc là một thị trường tiêu thụ thủy sản rất đáng quan tâm - nhà NK lớn thứ 
tư của TSVN. Cho đến nay, Hàn Quốc là thị trường đơn lẻ có sức tăng trưởng rất ổn 
định và giữ ở mức cao trên 20%/ tháng, có ý nghĩa rất quan trọng về đầu ra đối với 
TSVN bởi các mặt hàng và khối lượng đơn hàng rất phù hợp với các doanh nghiệp 
thủy sản vừa và nhỏ của Việt Nam, nhất là ở khu vực miền Trung và miền Bắc. 
 Quan hệ giữa hai cơ quan quản lý về chất lượng Xuất khẩu thùy sản của hai nước 
khá thuận lợi. Hiện nay đã có 343 doanh nghiệp Việt Nam được phép xuất khẩu sang 
Hàn Quốc. Đây là những điều kiện cơ bản để tăng cường tận dụng những lợi thế của 
thị trường này đối với thủy sản Việt Nam. 
Năm 2007, Hàn Quốc nhập gần 92 nghìn tấn thuỷ sản Việt Nam, tăng gần 8,2%, 
trị giá 273 triệu USD, tăng gần 30% so với năm 2006, chiếm khoảng 7,7% tổng giá 
trị XK. 
Dự đoán, thị trường này tiếp tục tăng trưởng tốt nhờ khả năng đáp ứng các mặt 
hàng có phẩm cấp, khối lượng vừa phải và đa dạng của DN Việt Nam. Thị trường 
chưa có những rào cản nào đáng kể cho TS VN. 
 TRUNG QUỐC - HỒNG KÔNG 
Nhiều năm trước thị trường Trung Quốc – Hồng Kông là một trong những mảng 
thị trường tiêu thụ lớn của thủy sản Việt Nam. Nhưng giai đoạn 2001-2004 là một 
thời kỳ sa sút nghiêm trọng về nhập khẩu thủy sản của Việt Nam, chủ yếu do Chính 
phủ Trung Quốc thay đổi phương thức thanh toán và quản lý ngoại hối và áp dụng 
một số qui định về kiểm dịch và quản lý chất lượng. 
Từ năm 2005-2006, nhập khẩu thủy sản VN của khối này đã có bước phục hồi 
nhưng rất chậm, tăng dần nhập khẩu chủ yếu là từ mảng thị trường Hồng Kông. 
Sang năm 2007, tiến độ phục hồi đã khá hơn nhiều, mức tăng trưởng đạt trung 
bình 25%/tháng, trong đó mảng Hồng Kông thường đạt từ trên 30% trở lên, đóng góp 
chính cho sức tăng của cả khối. 
Năm 2007, Trung Quốc – Hồng Kông đã nhập 45,8 nghìn tấn, giảm 5,5% về khối 
lượng, trị giá 152,7 triệu USD, tăng 4,9% về giá trị, chiếm 4,3% tổng giá trị xuất 
khẩu thủy sản của VN. Mặt hàng thủy sản VN được thị trường này ưa chuộng là cá 
biển, hàng khô và tôm đông lạnh. 
NGA 
Thị trường Nga năm nay đạt mức tăng trưởng khá thấp do hạn chế nhập khẩu cá 
philê của VN. Năm 2007, nhập khoảng trên 57 nghìn tấn, giảm 2,6% và đạt giá trị 
trên 119 triệu USD, giảm 5,8% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 3,2% tổng 
GTXKTS VN. 
Vài năm trước, thị trường Nga đạt mức tăng trưởng nhảy vọt, nhờ bùng nổ NK cá 
tra philê. Tuy nhiên, năm 2007, tốc độ NK giảm khá mạnh. Nguyên nhân là do sự 
thay đổi đột ngột chính sách Nhập Khẩu Thủy Sản của Chính phủ Nga với việc ra 
lệnh cấm hoặc hạn chế số DN được nhập vào Nga. 
Hiện nay, họ mới chỉ cho phép 24 Doanh Nghiệp VN được đưa hàng vào. Tuy 
nhiên, các DN còn rất e ngại trước chính sách không ổn định và minh bạch của nước 
này. Nguyên nhân khác là chất lượng hàng của một số DN không tốt, tỷ lệ mạ băng 
quá cao. 
ASEAN 
Nhập khẩu của khối này tiếp tục giữ mức tăng trưởng khá từ năm 2006, hiện tại 
chiếm trên 4,2% tổng XKTS của VN, đạt KL 61 nghìn tấn, trị giá 163 triệu USD, tăng 
17%. Trong đó Xinhgapo và Thái Lan tăng NK cá tra, basa, cá biển, hàng khô còn 
Malaixia tăng NK tôm. Dự đoán thị truờng này sẽ tiếp tục tiến triển tốt do NK cá tra, 
basa tăng cao. 
ĐÀI LOAN, ÔXTRÂYLIA 
Hai thị trường này NK không ổn định, nhưng Đài Loan đã tăng khá vào tháng 
cuối năm vì vậy tổng giá trị nhập đạt 108,3 triệu USD, tăng 9% về GT. Ôxtrâylia lại 
tiến hành áp dụng các biện pháp kiểm dịch tạm thời đối với tôm và các sản phẩm tôm 
nhập khẩu. 
Các biện pháp mới chặt chẽ hơn, có nhiều điểm bất hợp lý và gây khó khăn cho 
các DN xuất khẩu tôm của Việt Nam. Do đó XK tôm của VN sang thị trường này giảm 
khá mạnh cả về KL và GT, đưa tổng GT nhập khẩu TS của VN giảm còn gần 121 triệu 
USD, giảm 4,4% so với năm 2006. 
Phụ Lục 4: Chính Sách Thuế Ngành Thủy Sản Việt Nam 
Theo tinh thần chỉ đạo của chính phủ thì ngành thủy sản là ngành ưu tiên phát 
triển nên chính sách thuế có phần được ưu đãi, cụ thể : 
 Thuế sử dụng tài nguyên chỉ áp dụng cho nghề đánh bắt thủy sản. Ngư dân phải 
đóng một thuế suất bằng 4% (cho đánh bắt hải sản) và 3% (cho đánh bắt cá nước 
ngọt) giá trị sản lượng thu hoạch được trên một năm. Đối với ngư dân có tàu 
không hoạt động do phải bảo dưỡng hoặc do các nguyên nhân khác được lý giải 
không thể ra khơi (thí dụ do thời tiết không thuận lợi, ốm đau hoặc thiên tai) thì 
sẽ được giảm hoặc miễn thuế. 
 Hộ nuôi trồng thuỷ sản tư nhân không phải đóng thuế doanh thu vì họ đã đóng 
thuế sử dụng đất nông nghiệp. Ngư dân sẽ phải đóng một thuế suất bằng 2% giá 
trị sản lượng đưa vào bờ hàng năm. 
 Thuế lợi tức chỉ áp dụng đối với các công ty cổ phần. Mức thuế cơ bản là 25%, 
nhưng đối với một số hoạt động sẽ được giảm và miễn thuế áp dụng cho năm đầu 
đến năm thứ tư làm ăn có lãi. 
 Thuế đối với các mặt hàng nguyên liệu thủy sản nhập vào Việt Nam như cá hồi, 
tôm, bạch tuộc, mực…..giao động từ 5-10%. Và sau kiến nghị của hiệp hội 
Vasep về việc đẩy mạnh nhập khẩu để cung cấp nguyên liệu cho đa số các nhà 
máy chế biến đang hoạt động dưới công suất gây lãng phí rất lớn, thì Bộ tài chính 
đã có công văn trả lời (14513/BTC-TCDN) sẽ xem xét điều chỉnh cắt giảm thuế 
nhập khẩu nguyên liệu thủy sản theo lộ trình đã cam kết gia nhập tổ chức thương 
mại thế giới WTO. 
 Hầu hết các mức thuế áp dụng cho xuất nhập khẩu mặt hàng thủy sản là 30% (trừ 
các mặt hàng nhập làm con giống cho nghiên cứu là 0%) _ đây là mức thuế cao 
nhất trong các mức thuế XNK các mặt hàng từ động vật, điều này hỗ trợ tốt cho 
ngành thủy sản trong thời gian này. Nhưng sẽ phải thực hiện cắt giảm theo lộ 
trình gia nhập WTO vào năm 2010 xuống còn 5-20%. 
 Đầu tư vào các tỉnh khác nhau thì mức ưu đãi thuế cũng khác nhau phụ thuộc vào 
chính sách thu hút đầu tư của từng tỉnh trong từng lĩnh vực, hay các địa bàn có 
điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn với mức thuế giao động từ 10-20%. Như công 
ty chế biến xuất khẩu Thủy Sản: Được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 
năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50 % trong 4 năm tiếp theo theo 
Công văn số 1202/CT-NV ngày 4/10/2001 của Cục thuế tỉnh An Giang. Ngoài 
ra, theo Công văn số 11924/TC/CST ngày 20/10/2004 của Bộ Tài chính công ty 
còn được giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong một năm tiếp 
theo kể từ khi hết thời hạn ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp như đã nêu trên. 
Mức thuế cho ngành thủy sản là mức thuế đầu tư hấp dẫn đối với sản xuất trong 
nước. Nhưng vẫn còn tồn tại khá nhiều bất cập về chính sách thuế ưu đãi đối với ngành 
của cơ quan quản lý thuế, bộ tài chính và các cơ quan chức năng địa phương, chưa có sự 
thống nhất trong thực tế, đôi khi cách giải quyết còn chồng chéo, phức tạp thiếu tính 
minh bạch, rõ ràng. Đôi khi chính sách thuế được áp dụng một cách máy móc và cứng 
nhắc mà không quan tâm đến yếu tố khách quan của doanh nghiệp đã làm giảm rất nhiều 
sức hấp dẫn khi đầu tư phát triển ngành. Đã làm rất nhiều nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà 
đầu tư nước ngoài rất không hài lòng khi tham gia đầu tư tại đây. Có lẽ câu chuyện của 
công ty Grobest trong thời gian vừa qua là ví dụ điển hình trong cách thức quản lý thuế 
không đồng bộ và thống nhất, rất thiếu trách nhiệm. Với nhiều văn bản ưu đãi thuế khác 
nhau của các cơ quan khác nhau lại mâu thuẫn với nhau: 
_Giấy phép đầu tư và chính sách hấp dẫn đầu tư của tỉnh Đồng Nai thì công ty này được: 
miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng bốn năm và giảm 50% trong vòng bốn năm 
tiếp theo cho cả hai dự án. 
_ Văn bản của bộ Tài chính (năm 2005) đồng ý cho Grobest miễn giảm thuế TNDN như 
trong giấy phép đầu tư đã được cấp (còn kéo dài miễn thuế 50% đến năm 2011). 
_ Văn bản của bộ Tài chính, cục trưởng cục thuế tỉnh Đồng Nai đã có công văn 1628 xác 
nhận ưu đãi, miễn thuế TNDN cho Grobest trong vòng bốn năm và giảm 50% trong bảy 
năm tiếp theo. 
_ Nhưng cuối cùng công ty vẫn bị cục thuế tỉnh Đồng Nai thanh tra toàn diện, và truy thu 
14,7 tỷ đồng thuế thu nhập doanh nghiệp. 
Nhưng vấn đề nữa có thể thấy ở đây là luật thuế chưa có yếu tố nào đề cập đến việc xử lý 
thuế với các khó khăn khách quan mà doanh nghiệp gặp phải, cụ thể: 
 Doanh nghiệp này theo kế hoạch sẽ triển khai hai dự án, là dự án chế biến thức 
ăn và dự án chế biến thủy sản. Nhưng do khu công nghiệp Amata không có hệ 
thống xử lý chất thải nên dự án nhà máy chế biến phải tìm nơi khác. Nên không 
đi vào hoạt động sản xuất và xuất khẩu đúng như quy định, không tạo ra sản 
phẩm xuất khẩu nên cơ quan thuế thay đổi chính sách thuế. 
 Sau đó Doanh nghiệp tìm và xây dựng dự án chế biến thủy sản tại tỉnh Bạc 
Liêu_tỉnh có điều kiện đặc biệt khó khăn. 
 Đến nay khu công nghiệp này lại gây khó khăn do họ cho rằng sản xuất thức ăn 
thủy sản có mùi ảnh hưởng đến các khu sản xuất khác công ty lại có nguy cơ phải 
chuyển nốt nhà máy chế biến thức ăn thủy sản này. 
 Cơ quan thuế tỉnh Đồng Nai xét Doanh nghiệp bị vi phạm thuế do sản phẩm của 
nhà máy chế biến thức ăn chủ yếu tiêu thụ trong nội địa, trong khi đó chính sách 
miễn giảm chỉ cho những doanh nghiệp có doanh số xuất khẩu 80% trở lên. Vì 
yếu tố khách quan trên thì thực tế Grobest không thể thực hiện được. Nhưng 
những yếu tố cơ quan thuế tỉnh Đồng Nai đưa ra không hề được ghi trong giấy 
phép đầu tư đã cấp khi kêu gọi công ty vào đây để đầu tư. 
Như vậy có thể thấy chuyện đã xảy ra là do quan niệm ưu đãi của các cơ quan có 
thẩm quyền ở Việt Nam không nhất quán. Ngay cả trong Tổng Cục Thuế và Bộ Tài 
Chính cũng có nhiều quan điểm khác nhau, dẫn đến cách hiểu về ưu đãi bằng thuế khác 
nhau, chưa kể đôi khi còn mâu thuẫn nhau. Không ghi rõ ràng và cụ thể trong giấy phép 
đầu tư mà trong khi đó đây là chứng cứ pháp lí quan trọng của một doanh nghiệp đầu tư. 
Chính sách quản lý yếu kém này đã ít nhiều ảnh hưởng đến tính hấp dẫn trong khuyến 
khích đầu tư vào ngành. 
Phụ Lục 5: QUAN SÁT CÁC NHÂN TỐ RỦI RO TRONG NGÀNH 
Mô Hình Đa Nhân Tố Với Nhóm Ngành Thủy Sản 
1. Các Nhân Tố Rủi Ro Của Ngành Và Các Biến Số. 
Có thể khẳng định rằng các nhân tố rủi ro mà ngành gánh chịu ảnh hưởng rất lớn 
đến các công ty chế biến và xuất khẩu thủy sản trên cả hai thị trường tiêu thụ trong nước 
và nội địa. 
a. Rủi ro về điều kiện tự nhiên: 
Ngành nuôi trồng - khai thác, chế biến và xuất khẩu thủy sản là một ngành có từ lâu 
đời, nó gắn liến với đời sống bà con vùng sông nước và đặc biết thấy rõ nét nhất là ở các 
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Tuy gần đây những hộ dân nuôi trồng thủy sản nơi đây 
đã được áp dụng rất nhiều những tiến bộ khoa học và kĩ thuật nhân giống và nuôi trồng 
chăm sóc, xong nghề nuôi thủy sản ở Việt Nam vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào môi 
trường tự nhiên, nhất là môi trường nước. 
 Thủy sản các loại từ khi nhân giống đến khi trưởng thành cần có một điều kiện tự 
nhiên thích hợp cho sự phát triển. Môi trường nước trong nuôi trồng thủy sản cũng giống 
như môi trường đất trong nông nghiệp. Chỉ cần một thời gian sau một vụ môi trường 
nước sẽ bị ô nhiễm, xuất hiện nhiều vi khuẩn dễ lây bệnh cho con giống. Vì thế bên cạnh 
việc nuôi trồng thủy sau mỗi vụ ta phải cải tạo lại nguồn nước ao, bè, hồ nuôi để các lứa 
sau sẽ phát triển nhanh bảo đảm chất lượng và ít bị dịch bệnh. 
 Thời tiết là một nhân tố tác động trực tiếp đến ngành này. Chỉ cần một vụ ngập lụt có 
thể mất trắng, hay như thời tiết nắng nóng quá dễ gây bệnh cho tôm, cá... So với các tỉnh 
miền trung và niềm Bắc nước ta thì dường như thiên nhiên ưu đãi hơn cho các tình miền 
Nam. Song không có nghĩa là thời tiết xấu không xuất hiện ở đây. Chúng ta cũng có 
những biện pháp đề phòng nhất định cho những rủi ro này. 
b. Rủi ro về kinh tế. 
Nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua đã có một đà tăng trưởng đáng khích lệ. 
Ngành thủy sản và đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh chế biến 
thủy sản xuất khẩu đã góp phần đáng kể cho sự phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên nền 
kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập còn tiềm ẩn nhiều khó khăn. Một rủi ro 
kinh tế được ghi nhận đầu tiên mà có tác động lên hoạt động kinh doanh của các doanh 
nghiệp sản xuất chế biến thủy sản là lạm phát. Khi lạm phát xảy ra dẫn đến tình trạng 
doanh nghiệp phải liên tục tăng vốn lưu động, do đó làm giảm khả năng sinh lời có thể 
đem lại. 
Trong quá trình hội nhập thế giới của Việt Nam, Chính phủ đã có nhiều biện pháp 
nhằm khuyến khích và tạo sự thông thoáng cho hoạt động xuất khẩu của các doanh 
nghiệp. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều quy định, thủ tục hành chính, đặc biệt trong lĩnh 
vực hải quan, và chính sách thuế ưu đãi đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất 
kinh doanh. 
Ngoài ra việc thực thi và sự ổn định của hệ thống văn bản pháp lý chưa cao cũng là 
những yếu tố không dự đoán trước được tác động lên hoạt động sản xuất kinh doanh của 
các công ty trong ngành. 
c. Rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh 
Rủi ro từ nguồn nguyên liệu cho sản xuất 
Nguồn nguyên liệu đầu vào là một nhân tố rủi ro ảnh hưởng mạnh nhất đến doanh 
số, chi phí của ngành thủy sản Việt Nam. Số lượng nguyên vật liệu đầu vào phải đủ để 
máy móc hoạt động hết công suất của mình đúng theo năng suất khấu hao. Hơn thế nữa 
giá cả đầu vào của thủy Sản Việt Nam còn rất nhiều biến động, chưa ổn định được thị 
trường giá nguyên liệu đầu vào điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến giá vốn của Doanh 
Nghiệp. Vào vụ mùa thì giá NVL rất rẻ làm người nuôi cá gặp nhiều khó khăn, khi trái 
mùa thì giá cá lại tăng vọt làm doanh nghiệp không trở tay kịp nếu không có những 
khoản dự phòng hợp lý. 
Hơn thế nữa chất lượng của Nguyên vật liệu đầu vào lại ảnh hưởng trực tiếp đến 
chất lượng đầu ra của sản phẩm, đặc biệt là mặt hàng xuất khẩu thì nguồn gốc nguyên vật 
liệu đầu vào cần phải được xác định rõ ràng, bảo đảm không có dư lượng chất kháng 
sinh, không bị nhiễm bệnh. 
Rủi ro về thị trường tiêu thụ: 
Sản phẩm thủy sản chế biến đông lạnh chịu tác động khắt khe về vệ sinh và an 
toàn chất lượng. Hiện nay toàn bộ quá trình sản xuất sản phẩm của các công ty XNK 
thủy sản đã chú trọng và thực hiện theo những hệ thống quản lý chất lượng phù hợp với 
yêu cầu của những thị trường nhập khẩu. Tuy nhiên, nếu có sự thay đổi về tiêu chuẩn vệ 
sinh an toàn thực phẩm của các thị trường tiêu thụ, thì sẽ dẫn đến sự xáo trộn trong sản 
xuất và tăng thêm chi phí của Công ty. 
Hoạt động xuất nhập khẩu luôn gắn liền với những thông lệ, tập tục quốc tế cũng 
như ràng buộc pháp lý của nước nhập khẩu. Xuất khẩu cá Tra và cá Basa của Việt Nam 
mới chỉ ở bước đầu thâm nhập. Còn nhiều yếu tố khách quan từ luật pháp các nước sở tại, 
chẳng hạn như chính sách bảo hộ người nuôi cá, các quy định về mẫu mã bao bì, tiêu 
chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và đặc biệt là thương hiệu sản phẩm, có thể ảnh hưởng 
đến hoạt động kinh doanh của Công ty. 
Rủi ro về lãi suất (hay rủi ro về nguồn vốn ngắn hạn đầu vào): 
Ta thấy nguồn vốn cho ngành đáp ứng vẫn còn rất hạn chế. Nếu để phát triển 
ngành thủy sản thánh một ngành công nghiệp chế biến và nuôi trồng thì phải thừa nhận 
rằng ngành này cần một lượng vốn lớn để đáp ứng những nhu cầu thiết thực sau: 
 Cần một lượng vốn lớn để phát triển ngành khai thác xa bờ. Vì khai thác ven bờ 
làm nguồn sinh vật biển ven bờ cạn kiệt, ô nhiễm môi trường sinh thái. Ngành 
khai thác xa bờ muốn phát triền phải có máy móc khai thác hiện đại như: máy dò 
dòng hải lưu, các công cụ khai thác chuyên biệt cho tứng loài, tàu đánh bắt xa bờ, 
và kĩ thuật bảo quản thủy sản hiện đại. 
 Cần một lượng vốn lớn để phát triển nuôi trồng ngành nuôi trồng Thủy Sản theo 
hướng tập trung hay liên kết. Để có thể đảm bảo ổn định về chất lượng, vệ sinh an 
toàn thực phẩm, bảo đảm về nguồn gốc xuất xứ. Mà người nuôi trồng thì không 
thể có ngay một lượng vốn này để đầu tư và quay vòng mở rộng. 
 Trong thời gian gần đây chính chính sách thắt chặt tiền tệ (Quyết Định 346 của 
chính phủ ngày 13/2/2008) tác động rất mạnh mẽ đến ngành sản xuất nông nghiệp 
nói chung cũng như ngành thủy sản nói riêng. Người nông dân thiếu do: chưa thu 
hồi được vốn hoặc thua lỗ từ biến động giá thức ăn thủy sản tăng cao trong khi đó 
giá thủy sản giảm mạnh trong quý 1 năm 2008, còn các doanh nghiệp chế biến thì 
Ngoại tệ không đổi được ra VNĐ gây khó khăn cho quay vòng nguồn vốn và hỗ 
trợ người nuôi trồng. Chính những chính sách này đã đẩy nguốn vốn cho ngành 
sản xuất bị đóng băn mức lãi suất cho vay lên cao 16_18%/ năm, điều này làm 
cho các hộ nuôi trồng cũng như chế biến thủy sản lâm vào tình trạng thiếu vốn 
trầm trọng trong khi đó đầu ra giá thấp không thua lỗ lớn theo một tổng hợp chưa 
đầy đủ khoản lỗ của người nuôi trồng thủy sản đã lên tới 200 tỷ đồng cho vụ này. 
Dẫn đến khả năng thu hẹp sản xuất, trong khi nhu cầu thủy sản thế giới vẫn tăng 
cao là điều tất yếu trong thời gian tới. 
d. Rủi ro trong hoạt động xuất khẩu 
Rủi ro về tỷ giá 
Ngành thủy sản phát triển mạnh nhất trong giai đoạn 2005-2007 và tốc độ tăng 
trưởng đó đã đưa Việt Nam vào danh sách 10 quốc gia xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế 
giới. Đa số các doanh nghiệp thủy sản lấy xuất khẩu làm chủ đạo thì doanh thu hầu hết là 
bằng ngoại tệ (chiếm gần 80%). Do đó chính sách quản lí tỷ giá hối đoái của nhà nước 
cũng sẽ tác động đến hoạt động kinh doanh của ngành. 
. 
Rủi ro tỉ giá tác động theo hai mặt: 
_Rủi ro tác động đến lượng hàng thủy sản xuất khẩu giảm khi VNĐ lên giá so với USD. 
Mặt hàng thủy sản Việt Nam trở nên đắt hơn so với các nước trong khu vực, giảm sức 
cạnh tranh về giá thế mạnh vốn có của ngành. 
_Rủi ro tỉ giá cũng đã tác động rất lớn đến doanh thu ngành trong thời gian vừa qua, hàng 
loạt đơn hàng thanh toán bằng USD nhưng USD lại rớt giá thảm hại. Hơn thế nữa do sự 
suy thoái được dự báo của nến kinh tế Mĩ cũng như sự biến động mạnh của đồng USD, 
các ngân hàng lại chủ trương hạn chế mua USD và mua với tỷ giá thấp, nên nhiều doanh 
nghiệp rơi vào tình trạng có dư ngoại tệ trong tài khoản nhưng không bán được cho ngân 
hàng trong khi vẫn phải vay vốn tiền đồng với lãi suất cao hơn trước đây (do các ngân 
hàng đồng loạt tăng lãi suất cho vay lên 1,3 - 1,5%/tháng, thậm chí cao hơn). Nhiều 
doanh nghiệp đang phải chịu lỗ để duy trì sản xuất và thực hiện các đơn hàng đã ký với 
khách hàng trước đây. Vì thế các doanh nghiệp thu mua của hộ dân với giá thấp đôi khi 
phải thu hẹp sản xuất, giảm công suất máy. Hơn thế nữa nguồn nguyên liệu nhập khẩu lại 
tăng giá lại đẩy người dân nuôi trồng trắng tay, cứ vòng tác động luẩn quẩn làm ngành 
chế biến thủy sản Việt Nam trong thời gian tới sẽ có tốc độ phát triển chậm lại. 
Rào cản của các nước nhập khẩu 
Một yếu tố rủi ro vô cùng quan trọng và không thể thiếu đó là rủi ro về rào cản 
của các nước nhập khẩu. Tuy vụ kiện về bán phá giá_thương hiệu_đã lắng xuống, thị 
trường xuất khẩu cá ở Việt Nam được biết tới nhiều hơn, xong không có nghĩa là thị 
trường sẽ ngày càng mở rộng mà các thị trường nhập khẩu trên thế giới là những thị 
trường vô cùng khó tính. Vì vậy chất lượng sản phẩm luôn được đạt lên hàng đầu, chất 
lượng sẽ tạo nên thương hiệu chứ không phải chỉ đơn giản là giá càng rẻ càng có khả 
năng cạnh tranh. Nhất là đối với Mĩ một khi Việt Nam gia nhập WTO thì thuế bán phá 
giá sẽ không còn là một công cụ tốt để bảo vệ ngư dân ở Mĩ thì giờ đây hàng rào thuế 
có thể được thay thế bằng các rào cản về chất lượng sản phẩm. Và các dòng sản phẩm 
giá rẻ của các nước xuất khẩu sẽ là điểm nhắm tới của các chính sách nhập khẩu của Mĩ. 
Việt Nam đang là thị trường xuất khẩu thủy sản có ưu thế về giá đến các thị 
trường lớn và vô cùng khó tính như Mĩ, Đức, Nga, Châu Âu, Nhật Bản….Trong thời gian 
gần đây năm 2007, và 2008 thị trường xuất khẩu Việt Nam đã giảm nhẹ ở Nga do Nga 
siết chặt Vệ sinh an toàn thực phẩm đối với tất cả các mặt hàng thủy sản nhập khẩu. Ở 
Nhật cũng hạn chế nhập khẩu thủy sản Việt Nam do không bảo đảm vế chất lượng. Ở 
Đức thị trường tiêu thụ thủy sản tăng nhanh nhất trên thế giới thì lại rất dị ứng với những 
cụm từ như: “dư lượng kháng sinh, chất lượng kém, không bảo đảm tiêu chuẩn”. 
Tóm lại ngoài những hàng rào kỹ thuật và thương mại ra thì các quy định về dư 
lượng kháng sinh, về truy xuất nguồn gốc thủy sản, về kiểm dịch cũng là thách thức lớn 
đối với các doanh nghiệp Việt Nam. 
Vậy các nhân tố này tác động đến ngành như thế nào, các nhà đầu tư có quan sát 
sự biến động của các nhân tố trên để đánh giá giá trị cổ phiếu của các công ty trong 
ngành Thủy Sản hay không ? Nếu có thì đánh giá những nhân tố nào và với mức độ như 
thế nào. 
a. Thiết lập mô hình hồi quy APT : 
Quan sát thực tế mối quan hệ các nhân tố rủi ro của ngành so với các nhân tố rủi 
ro được phân tích như trên để thấy được mức độ tác động của các nhân tố đó với giá trị 
thị trường của ngành. Nhưng không phải những nhân tố rủi ro nào như phân tích trên 
cũng có thể được đưa vào mô hình, vì muốn đưa được vào mô hình thì trước tiên yếu tố 
đó cần phải có tính định lượng. Sau đó là tính phù hợp tức là nhân tố đó sẽ được phân 
tích và dự báo có khả năng tác động lớn tới ngành. 
Do điều kiện khách quan nên các yếu tố mà đề tài này đề cập đến bị một số giới hạn. Và 
chỉ chọn 4 nhân tố rủi ro được phân tích là có tác động đến giá thị trường của ngành: 
 Nhân tố thị trường (đại diện cho chỉ số thị trường chứng khoán Việt Nam 
VN_Index. 
 Nhân tố nội bộ của công ty: Chỉ số lợi nhuận gộp. 
 Nhân tố ảnh hưởng tới giá trị thị trường của các công ty chế biến và xuất khẩu 
thủy sản: Giá trị xuất khẩu. 
 Nhân tố biến động của tỉ giá. 
PTGTGGTXKGTXKLNGLNGVNIVNITBN FFFFR   **** 
Lưu ý trong cách thu thập số liệu cho mô hình: 
 Giá trị quan sát theo tháng là các đại lượng nhẫu nhiên. 
 Giá trị quan sát từ tháng 10/2004 đến tháng 3/2008 (với tất cả 39 quan sát). 
 Giá trị quan sát trung bình ngành: như Lợi nhuận hoạt động( lợi nhuận gộp): 
Được xác định dựa trên tỉ trọng vốn điều lệ của công ty trong ngành. 
 Do các dữ liệu LNG thu được chỉ có thể là dữ liệu quý. Do đó dữ liệu tháng của 
các công ty được điều chính theo tỉ trọng LNG theo tháng của công ty MPC 
(Minh Phú). Một công ty chiếm tỉ trọng VLĐ rất lớn trong ngành 24,68% ngành. 
 Do ưu tiên cho yếu tố quan sát phải đủ lớn và thời gian dài quan sát dài nhất có 
thể nên chỉ quan sát được dữ liệu TB của 7 công ty trên sàn Hose tất cả: AGF, 
ABT, CAN, FMC, LAF, TS4, SJ1 chỉ chiếm tỉ trọng 22,6% của ngành. Vì hầu hết 
các công ty lớn như ANV, MPC, VHC lên sàn vào thời điểm tháng 12/2007 
không đủ dữ liệu cho chuỗi giá trị quan sát (mặc dù VĐL của các công ty này 
chiếm tỉ trọng chủ yếu trong ngành). 
 Ngày lấy dữ liệu của tháng ưu tiên ngày cuối tháng ngày 29 cho hầu hết các dữ 
liệu lấy tại thời điểm. 
Trong đó: 
TBNR : Biến giá trị thị trường trung bình của ngành Thủy Sản. 
Giá trị này được tính dựa trên giá trị thị trường thực tế theo tháng của 7 công ty Thủy 
Sản. 
:,,, TGGTXKLNGVNI  Beta nhân tố cho 4 nhân tố chính: Chỉ số thị trường VN_Index, 
Lợi nhuận gộp TB, Giá trị xuất khẩu, Tỉ Giá (USD/VNĐ). 
:,,, TGGTXKLNGVNI FFFF Biến đại diện cho 4 nhân tố chính: Chỉ số thị trường VN_Index, 
Lợi nhuận gộp TB, Giá trị xuất khẩu, Tỉ Giá (USD/VNĐ). 
P : Số dư trong mô hình. 
Kết Quả Mô Hình Hồi Quy: 
776.2251 0.046704* 3.94 9 * 0.088107* 0.046634 *TBN VNI LNG GTXK TG PR F E F F F      
Trước khi đi phân tích kết quả của mô hình hồi quy, ta tiến hành kiểm định MHHQ có 
phù hợp hay không. 
b. Kiểm Định Mô Hình Hồi Quy: 
i. Kiểm định quy luật phân phối xác suất của đại lượng ngẫu nhiên: 
Dùng thống kê Jarque Bera (JB) để kiểm định giả thiết phân phân phối chuẩn của hảm 
hồi quy tìm được 
Với bảng trên cho biết : 
JB = 0.719170 với mức xác suất tương ứng là p = 0.67966 >> 5%. Tức giá trị xác suất 
này lớn hơn rất nhiều so với mức ý nghĩa 5%. Vậy ta chấp nhận giả thiết Hàm số có phân 
phối chuẩn. 
Với Ý nghĩa là các đại lượng ngẫu nhiên, và hàm số có dạng phân phối chuẩn là bước đầu 
cho thấy đây là một mô hình tốt có để có thể rút ra các kết luận. 
ii. Kiểm định mức độ tương quan của các yếu tố trong mô hình: 
Bảng quan sát mức độ tương quan của các yếu tố xuất hiện trong mô hình: 
Kết quả quan sát cho thấy: các yếu tố trên thì các giá trị sau đây được xét thấy có xuất 
hiện mức độ tương quan cao và phù hợp cho mô hình: 
 VNI & TG: đây là hai nhân tố có mức độ tương quan lớn nhất; Mối tương quan 
thuận rất cao: r = 0.961223 gần bằng 1. Điều này thể hiện hai chỉ số VNI và tỉ 
giá luôn biến động cùng chiều và theo tỉ lệ thuận. 
 Đồ thị cũng cho một kết quả quan sát tương tự: trong khoảng giá 
trị quan sát từ (200; 1200) của giá trị VN_Index có một chiều theo 
xu hướng đi lên. Với ý nghĩa khi tỉ giá tăng thì VNIndex có một sự 
tăng tương ứng. 
Cụ thể khi tỉ giá tăng 1 đơn vị thì VN_Index tăng 2.0737 đơn vị. 
 Nếu xét về mức độ tương quan của các nhân tố với GTTBN thì ta thấy: 
Các cặp biến sau đây có mối tương quan cao nhất: 
 Giá trị trung bình ngành & VN_Index: là hai cập nhân tố có mối tương 
quan cao nhất: với r = 0.673630, đây là mức độ tương quan thuận và so 
với 1 thì mức độ này khá cao. 
Quan sát biểu đồ phân tán cho ta thấy một mức độ tương quan tỉ lệ thuận 
khá rõ của hai nhân tố này. 
 Giá trị trung bình ngành & Tỉ Giá: Đây là hai nhân tố có mối tương quan 
thuận tương đối cao với r > 0,5. 
Các cặp biến sau đây có mối tương quan cao thấp: Nếu ở tỉ giá và VN_Index thì thể 
hiện một mức độ tương quan khá cao thì các biến Giá trị xuất khẩu và lợi nhuận gộp 
lại thể hiện mức độ ngược lại, rất ít có sự tương quan trong mô hình 
 Giá trị trung bình ngành & GTXK: 
Hệ số tương quan tương đối thấp r = 0.382187, xong vẫn xuất hiện xu 
hướng tương quan tỉ lệ thuận. 
 Giá trị trung bình ngành & LNG: 
Với r = 0.06968 của giá trị trung bình ngành và lợi nhuận gộp cho thấy hai 
yếu tố này hầu như không có sự tương quan với nhau, với r gần 0. Vậy ta 
thấy giá trị trung bình ngành ít chịu tác động bởi yếu tố lợi nhuận gộp 
nhất. 
iii. Kiểm định sự phù hợp của mô hình: 
Để kiểm định rõ hơn xem các nhân tố nêu trong mô hình có thực sự ảnh hưởng đến biến 
số là giá trị trung bình ngành thủy sản hay không? Nếu có thì kết quả kiểm định này đạt 
độ chính xác đến mức độ nào? 
Có hai cách thức để tiếp cận kiểm định: Là khoản tin cậy và kiểm định mức ý nghĩa: 
 Kiểm định ý nghĩa cho các hệ số Beta: 
 Giá trị thống kê t của hệ số VNI = 3.563982 với giá trị xác suất p = 0.0010 (đây là 
mức ý nghĩa thấp gần bằng 0,1%. Nên hệ số VNI có mức độ phù hợp cao nhất. 
 Giá trị thống kê t của hệ số LNG = -3.139551 với giá trị xác suất p = 0.0033 (đây 
là mức ý nghĩa khá thấp). Nên hệ số LNG có mức độ phù hợp tương đối. 
 Giá trị thống kê t của hệ số GTXK = 2,276104 với giá trị xác suất p = 0.0287 . Hệ 
số Beta của Giá trị xuất khẩu với Giá thị trường của ngành có mức ý nghĩa thấp. 
 Giá trị thống kê t của hệ số TG = -1.393912 với giá trị xác suất p = 0.1717 . 
 Nếu theo kết quả kiểm định hệ số beta cua mô hình thì chỉ có hệ số nhạy cảm của 
VN_Index và lợi nhuận gộp và Giá trị xuất khẩu là có một giá trị xác suất có thể tin cậy. 
Còn nhân tố TG có một mức độ tin cậy rất thấp. Nhưng có một điều nghi ngờ với hệ số 
của LNG vì hệ số này mang hệ số âm. Nên ta tách riêng hệ số này với giá trị trung bình 
ngành: 
 Ta thấy hệ số Beta lần này lại mang một giá trị dương, có tính chất hợp lý trong thực 
tiễn, nhưng nếu xem xét dựa trên các kết quả kiểm định thông kê về độ tốt của hàm này 
thì ta thấy hai yếu tố: 
 Hệ số tương quan R2 = 0.004855 rất thấp và tỉ số t ít có ý nghĩa. 
 Mức độ ý nghĩa của thống kê F là p(F-statistic) = 0.661035 >> (lớn hơn rất nhiều 
so với 1%). 
 Từ các kết quả quan sát về hiện tượng tương quan cũng như kiểm định bằng mô hình 
riêng đều cho thấy một kết quả giống nhau: Nhân tố biến động của lợi nhuận gộp theo 
thời gian là yếu tố tác động tất ít đến giá trị thị trường của ngành. Hay nói cách khác các 
nhà đầu tư rất ít quan sát biến động nhân tố lợi nhuận gộp theo từng tháng để đưa ra 
quyết định đầu tư của mình. Cũng một phần là do nhân tố này biến động theo chu kì quý 
kinh doanh, còn giá trị cổ phiếu ngành lại đánh giá sự tăng trưởng so tháng này với cùng 
tháng đó nhưng của năm ngoái. 
Ta có thể kiểm định thêm một lần nữa mức độ có mặt của biến không cần thiết để loại bỏ 
biến này ra khỏi mô hình: 
Kiểm định Wald: Với biến không cần thiết là LNG: 
776.2251 0.046704* 3.94 9 * 0.088107* 0.046634 *TBN VNI LNG GTXK TG PR F E F F F       
Từ mô hình hồi quy tìm được ta đưa phương trình về dạng: 
PTGGTXKLNGVNITBN FCFCFCFCCR  *)5(*)4(*)3(*)2()1( 
Ta kiểm định giả thiết H0 : C(3) = 0 
Ta có F = 5.180649 với xác suất tương ứng là: p = 0.028721 >> 1% vậy ta chấp nhận giả 
thiết H0: C(3) = 0 và một lần nữa thấy rõ yếu tố LNG không hề ảnh hưởng đến gái trị 
trung bình ngành trên thị trường. 
Kiểm định Wald với nhân tố TG: Làm như trên nhưng thay đổi giả thiết: 
H0 : C(5) = 0 
Ta có F = 1.942990 với xác suất tương ứng là: p = 0.171660 >> 1% (lớn hơn rất nhiều) 
vậy ta chấp nhận giả thiết H0: C(5) = 0. Kết luận của kiểm định này là nhân tố TG là một 
nhân tố không cần thiết. 
Vậy chỉ còn nhân tố VN_Index và nhân tố giá trị xuất khẩu là có ý nghĩa nhiều trong mô 
hình. 
Một Số Kiểm Định Khác: 
Với kết quả mô hình tìm được: 
776.2251 0.046704* 3.94 9 * 0.088107* 0.046634 *TBN VNI LNG GTXK TG PR F E F F F       
 Ta thấy R2 = 0.581221  r = 2R = 0.7623 một mối tương quan khá cao nên mô 
hình hồi quy có ý nghĩa. 
 Quan sát thống kê F-statistic = 12.83801 với p(F-satistic) = 0.000001 << 
%01.0 nên ta chấp nhận giả thiết không xảy ra hiện tượng cộng tuyến. 
 Kiểm định Durbin-Watson: phát hiện nhân tố tự tương quan. 
Nhìn kết quả kiểm định cho ta thấy: 
0 < d = 0.535052 <1 : mô hình có hiện tượng tự tương quan dương. 
 Kiểm định phần dư: 
Đồ thị phần dư Resid của mô hình có xu hướng đi lên hoặc xuống không rõ ràng. Có 
xu hướng đi lên nhẹ, và đi xuống mạnh trong khoảng thời gian ngắn: 
 Mô hình không có hiện tượng tự tương quan. 
Không có kết luận cụ thể về hiện tượng tự tương quan của mô hình. 
c. Phân Tích Kết Quả Hồi Quy: 
Mô hình có ý nghĩa giải thích khá tốt cho những biến VN_Index và biến giá trị xuất 
khẩu với biến động của giá trị thị trường. Cụ thể: 
 Khi Giá trị VN_Index tăng lên 1 đơn vị thì giá trị thị trường trung bình của ngành 
thủy sản sẽ tăng 0,0467 đơn vị. Hai chỉ số này rất có ý nghĩa trong kiểm định. 
 Nhân tố có tác động thứ 2 đó là nhân tố giá trị xuất khẩu với nhân tố giá trị thị 
trường. Khi giá trị xuất khẩu tăng lên 1 đơn vị thì giá trị thị trường trung bình 
ngành thủy sản sẽ tăng 0.088107 đơn vị. Mức độ có ý nghĩa của nhân tố này 
không cao, nhưng là biến động có khả năng tham khảo. 
 Hai nhân tố lợi nhuận gộp TBN và nhân tố tỉ giá thể hiện một sự ảnh hưởng rất 
nhỏ, và hai nhân tố này là những nhân tố không cần thiết trong mô hình. Vậy tóm 
lại tỉ giá và lợi nhuận gộp rất ít được quan sát khi đưa vào xác định giá trị trung 
bình của ngành của thị trường. 
 Về nhân tố tỉ giá cũng do khoảng thời gian chọn quan sát từ năm 2004 đến năm 
2007 thời gian này tỉ giá khá ổn định do chính sách giữ mức ổn định tỉ giá của nhà 
nước, và trong giai đoạn này đồng USD vẩn chưa bị biến động mạnh. Nên nhà 
đầu tư ít nhìn vào tỉ giá khi đưa ra ý định tính giá cho ngành thủy sản. Mặc dù biết 
ngành này chịu áp lực rất lớn của biến động tỉ giá. 
 Nhân tố lợi nhuận có tính biến động theo chu kì. Về đầu tư ngắn hạn và dài hạn 
người ta sẽ so sánh lợi nhuận của tháng 1 năm nay so với năm trước, nên con số 
này được dùng để đưa ra quyết định đầu tư nhưng nó không được so sánh dựa trên 
biến động theo chu kì của ngành. 
 Nhưng đặc biệt hai nhân tố VN_Index và nhân tố tỉ giá lại là hai nhân tố có mối 
liên quan rất chặt chẽ. Và một điều đặc biệt là TG có mối quan hệ gián tiếp đối 
với Giá trị thị trường trung bình ngành. Tỉ giá tác động lên VN_Index, khi 
VN_Index biến động thì nó lại tác động đến ngành. Chứng tỏ các trong việc phân 
tích giá trị các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản thì rất ít phân tích sự biến động 
trực tiếp của tỉ giá lên ngay doanh thu hoặc lợi nhuận của Doanh nghiệp xuất 
khẩu thủy sản. Điều này sẽ dẫn đến không thực sự quan sát được rủi ro mà nhân 
tố tỉ giá mang lại cho ngành. Nếu đưa hai nhân tố VN_Index và Tỉ giá vào mô 
hình quan sát ta sẽ có mô hình: 
Với mức độ ý nghĩa rất cao p = 0.00000 << 0.005%. 
Và R2 = 0.867176 có một mức độ tương quan rất cao. 
Vậy khi nhân tố tỉ giá thay đổi 1 đơn vị thì nhân tố VN_Index thay đổi 2.073731 đơn 
vị. Một xu hướng tương quan dương, phù hợp với đồ thị biểu diễn mối tương quan ở 
phần trên. Cũng cần nhận thấy có kết quả này là do sự biến động rất mạnh mẽ của sự 
điều chỉnh của tỉ giá USD/VNĐ do sự yếu kém đang có xu hướng bộc lộ của thị 
trường tài chính cũng như nền kinh tế Mĩ. Dẫn tới biến động đến thị trường vàng và 
thị trường chứng khoán. 
KẾT LUẬN: 
- Mô hình còn mắc phải một số yếu điểm sau: 
 Dữ liệu mô hình chưa đủ đại diện cho ngành vì nó còn chiếm tỉ trọng thấp 
22.24%. 
 Một số ít dữ liệu về giá chưa loại bỏ được yếu tố cổ tức. 
 Dữ liệu giá do ưu tiên quan sát trong thời gian dài và nhiều dữ liệu nên một số dữ 
liệu phải có sự điều chỉnh để có được như: giá của một số công ty mới lên sàn 
tháng 12/2006. Hay lợi nhuận gộp theo tháng cũng bị điều chỉnh vì để tìm được 
dữ liệu chính xác chịu giới hạn khách quan về thông tin. 
 Mô hình này có ưu điểm vì nó đã quan sát được sự biến động của các nhân tố thị 
trường và các nhân tố riêng biệt khác qua các hệ số beta nhân tố. 
 Đây là một mô hình dựa trên lập luận cơ sở là xem ảnh hưởng của biến động các 
nhân tố tới ngành. Các nhân tố được xem xét là rủi ro của ngành có tác động và 
ảnh hưởng nhiều nhất tới ngành như phân tích trên. Nếu ta đưa được hết tất cả các 
nhân tố trên vào mô hình thì sẽ có một mô hình tốt, đề xuất thêm một vài nhân tố 
có thể quan sát được mức độ ảnh hưởng tới giá thị trường: 
 Biến động lãi suất theo tháng. 
 Giá nguyên liệu trung bình của ngành đầu vào, có thể lấy trung bình một số mặt 
hàng có giá trị xuất khẩu lớn (chủ yếu như: tôm, cá tra, basa, cá đông lạnh, và cái 
này có thể lấy trọng số theo yếu tố tỉ trọng xuất khẩu). 
 Các chỉ số ngành ROE, ROA, P/E, EPS các chỉ số này có mối liên hệ tốt hơn là 
chỉ số Lợi nhuận gộp. 
 Thấy rất cần thiết nên đưa nhân tố thu nhập đầu người, vì nó ảnh hưởng nhiều tới 
ngành thủy sản. 
 Nếu trong tương lai, rổ tiền tệ trung bình mà ngành xuất nhập khẩu không chiếm 
đa số USD như bây giờ, thì dữ liệu tỉ giá quan sát sẽ phải dựa trên biến động rổ 
tiền tệ. 
 Để mô hình có mức độ đánh giá tốt hơn nên quan sát các thị trường phát triển 
mạnh như Mĩ, Nhật Bản, Trung Quốc (các quốc gia này phát triển mạnh về thủy 
sản, và yếu tố giá trị thị trường của TTCK của các quốc gia này là yếu tố chạy rất 
tốt để xem xét tính phù hợp của mô hình, và nhất là các quốc gia này đã xây dựng 
được hệ thống chỉ số trung bình ngành). 
 Với Việt Nam vì các nhiều hạn chế đã làm cho tính phù hợp của mô hình bị giảm 
đáng kể. Các hạn chế nổi bật nhất tác động đến mô hình trên là: 
o Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam chưa có một mô hình 
quản trị rủi ro tỉ giá. 
o Do tỉ giá chưa thực sự được thả nổi trong giai đoạn từ (2004-2007_gian 
đoạn dùng làm dữ liệu đầu vào cho Doanh Nghiệp). 
o Thông tin thị trường kém minh bạch, và đầy đủ. 
o Thị trường vốn (TTCK) của Việt Nam còn chịu nhiều tác động của yếu tố 
tâm lý. 
o Các chỉ số cho ngành chưa được thiết lập ở Việt Nam. 
o Các doanh nghiệp thủy sản lớn của Việt Nam mới lên sàn như Nam Việt, 
Minh Phú, Vĩnh Hoàn. Đây lại là các đại diện tốt cho ngành, nhưng lại bị 
giới hạn về thời gian quan sát. 
Ý NGHĨA CỦA MÔ HÌNH: 
Mô hình này đưa ra hai ý nghĩa quan trọng trong việc quan sát các yếu tố rủi ro 
được phân tích là có ảnh hưởng rất lớn tới biến động giá trị thị trường của 
ngành: 
 Mô hình đã xây dựng nên các chỉ số Beta nhân tố, các Beta nhân tố này cho 
thấy khi các nhân tố rủi ro tương ứng có sự biến động thì giá trị thị trường 
của ngành sẽ dự báo biến động như thế nào (độ tin cậy của mô hình nhiều 
hay ít vẫn phụ thuộc vào độ dài và tính chính xác của chuỗi dữ liệu quá khứ 
). 
 Nếu thực sự xây dựng được mô hình mà các kết quả kiểm định cho thấy 
những tín hiệu tốt thì ta có thể áp dụng mô hình này để dự báo giá trị thị 
trường của ngành trong tương lai.Để các nhà đầu tư có thể đưa ra những 
quyết định đúng đắn cho việc tham gia đầu tư vào ngành, cũng như xem xét 
việc tham gia đầu tư vào các công ty trong ngành. 
Tóm Tắt Mô Hình Đa Nhân Tố 
d. Thiết lập mô hình hồi quy APT 
Lưu ý trong cách thu thập số liệu cho mô hình 
e. Kiểm Định Mô Hình Hồi Quy 
 Kiểm định quy luật phân phối xác suất của đại lượng ngẫu nhiên. 
 Kiểm định mức độ tương quan của các yếu tố trong mô hình. 
 Kiểm định sự phù hợp của mô hình. 
f. Phân Tích Kết Quả Hồi Quy. 
KẾT LUẬN RÚT RA TỪ MÔ HÌNH. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Bai hoan chinh.pdf
Tom tat.pdf