KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Về sản xuất: Hiện nay các nông hộ sản xuất cà
phê Arabica với quy mô nhỏ chỉ có 1,5 ha, có khoảng
13% nông hộ sản xuất cà phê có chứng nhận. Chi
phí sản xuất cho 1 ha vào khoảng 51 triệu trong
đó chi phí cho công lao động gia đình là cao nhất
(44,78%), sau đó là chi phí về phân bón (31,14) rồi
tới công thuê (13,24%). Hiện tại các nông hộ đang
gặp 2 khó khăn lớn đó là giá cà phê xuống thấp và
năng suất thấp do dịch bệnh. Chính điều này đã
làm cho thu nhập của nông hộ chỉ được khoảng
44,73 triệu đồng/ha/năm.
Về tiêu thụ: Các nông hộ bán cà phê chủ yếu là
cho thương lái (82%) còn lại 12% là bán cho các công
ty chế biến. Khi bán cho thương lái, giá trị gia tăng
và giá trị gia tăng mà nông dân tạo ra thấp hơn so với
bán cho các công ty chế biến.
4.2. Đề nghị
Các cơ quan ban ngành và các công ty chế biến,
công ty xuất khẩu nên có những chính sách hỗ trợ
trong 1 số lĩnh vực để nông hộ có thể tạo ra giá trị gia
tăng cao hơn như sau:
- Hỗ trợ trong việc sản xuất cà phê có chứng nhận
để nâng cao chất lượng sản phẩm, cắt giảm chi phí
phân bón và thuốc bảo vệ thực vật.
- Hỗ trợ hoặc khuyến khích nông hộ sản xuất cà
phê nhân để nâng cao chất lượng sản phẩm thay vì
hái lẫn nhiều quả xanh và bán quả tươi như hiện nay
để có thể bảo quản lâu hơn, hạn chế rủi ro về giá.
- Thúc đẩy liên kết giữa nông hộ với các công ty
chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm bớt
khâu trung gian và tạo ra giá trị gia tăng cao hơn.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích tình hình sản xuất và tiêu thụ của nông hộ trong chuỗi giá trị cà phê Arabica tại Đà Lạt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
108
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(99)/2019
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ CỦA NÔNG HỘ
TRONG CHUỖI GIÁ TRỊ CÀ PHÊ ARABICA TẠI ĐÀ LẠT
Nguyễn Thị Tươi1, Nguyễn Phú Son2
TÓM TẮT
Phân tích tình hình sản xuất và tiêu thụ của các nông hộ trong chuỗi giá trị cà phê Arabica tại Đà Lạt dựa trên
cách tiếp cận chuỗi giá trị của Kaplinsky và Morris (2001), Nguyễn Thị Thanh Lộc và Nguyễn Phú Son (2016).
Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu phi xác suất cùng với các công cụ khác như: đánh giá nông thôn có sự
tham gia (PRA), tham vấn chuyên gia (KIP) và phỏng vấn trực tiếp 82 nông hộ trồng cà phê tại Đà Lạt. Mục tiêu là
phân tích thực trạng sản xuất và tiêu thụ của các nông hộ trong chuỗi giá trị cà phê Arabica tại Đà Lạt. Kết quả cho
thấy nông hộ sản xuất cà phê Arabica với quy mô nhỏ, trung bình chỉ có 1,5 ha. Nông hộ bán cà phê chủ yếu là cho
thương lái (82%), còn lại (12%) là bán cho các công ty chế biến. Khi bán cho thương lái, giá trị gia tăng và giá trị giá
tăng thực mà nông dân tạo ra thấp hơn so với bán cho các công ty chế biến.
Từ khóa: Chuỗi giá trị, sản xuất, tiêu thụ, cà phê Arabica, Đà Lạt
1 Khoa Nông Lâm, Trường đại học Đà Lạt; 2 Khoa Kinh tế, Đại học Cần Thơ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê đứng thứ 2
trên thế giới chỉ sau Brazil với diện tích 605.178 ha
và sản lượng 1.542.398 tấn (FAO, 2017). Tuy nhiên,
kim ngạch xuất khẩu mang về chưa cao do 95% cà
phê của Việt Nam là xuất khẩu ở dạng nguyên liệu
thô, chất lượng cà phê nhân chưa cao và chủ yếu là cà
phê Robusta trong khi thế giới lại ưa chuộng cà phê
Arabica hơn. Lâm Đồng không chỉ dẫn đầu trong cả
nước về diện tích mà còn về chất lượng của loại cà
phê Arabica (Hoffmann, 2014). Trong đó, không thể
không nhắc đến khu vực sản xuất cà phê Arabica của
Đà Lạt nổi tiếng với chất lượng cao.
Tuy nhiên, diện tích trồng cà phê Arabica những
năm gần đây có nhiều biến động, giá cà phê liên tục
xuống thấp, trong khi năng suất của cà phê Arabica
lại không cao, dịch bệnh nhiều, chi phí lao động cho
việc thu hái và chế biến cao. Để hiểu rõ hơn những
vấn đề trên cũng như các vấn đề khác xoay quanh
các khâu sản xuất, chế biến, tiêu thụ cà phê Arabica
của các nông hộ tại Đà Lạt, đề tài: “Phân tích tình
hình sản xuất và tiêu thụ của các nông hộ trong
chuỗi giá trị cà phê Arabica tại Đà Lạt” được thực
hiện để đạt được mục tiêu nghiên cứu.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các nông hộ trồng cà
phê Arabica tại Đà Lạt đã cho thu hoạch niên vụ
2017 - 2018 và có diện tích lớn hơn 1.000 m2.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phân tích tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ
của các nông hộ trong chuỗi giá trị cà phê Arabica
tại Đà Lạt được dựa trên cách tiếp cận về phương
pháp phân tích chuỗi giá trị của Kaplinsky và Morris
(2001), Võ Thị Thanh Lộc và Nguyễn Phú Son (2016).
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp chọn mẫu
phi xác suất (Nguyễn Thị Cành, 2005) thông qua
phỏng vấn trực tiếp 82 nông hộ trồng cà phê Arabica
cùng với các công cụ khác như: đánh giá nông thôn
có sự tham gia (PRA), tham vấn chuyên gia (KIP) và
quan sát trực tiếp để nắm thêm thông tin và kiểm
chứng lại số liệu khảo sát.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Số liệu được thu thập từ tháng 3 đến tháng 12
năm 2018 về tình hình sản xuất và tiêu thụ cà phê
trong niên vụ 2017 - 2018.
- Địa điểm nghiên cứu là 4 xã: Xuân Trường, Trạm
Hành, Tà Nung và Xuân Thọ chiếm đến 98% diện
tích sản xuất cà phê Arabica của thành phố Đà Lạt.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tình hình sản xuất
3.1.1. Thông tin chung về nông hộ
Nhìn chung lao động tham gia sản xuất của các
hộ trồng cà phê Arabica trung bình là 44 tuổi và có
nhiều kinh nghiệm sản xuất là 15 năm với trình độ
học vấn ở mức trung bình là 8 năm. Qua khảo sát
cho thấy, mặc dù diện tích canh tác cà phê Arabica
có khác nhau nhưng số lao động tham gia vào hoạt
động sản xuất cà phê Arabica của các hộ là tương
đối giống nhau khoảng 2 người. Như vậy, lực lượng
lao động chính tham gia trong sản suất nông nghiệp
của mỗi hộ là khá ít, hầu hết là vợ và chồng trong gia
đình. Tuy nhiên, tùy vào diện tích canh tác, ngoài
lao động chính trong gia đình thì các hộ vẫn thuê lao
động công nhật khi cần, đặc biệt là nhu cầu về thuê
lao động rất lớn vào mùa thu hoạch cà phê.
109
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(99)/2019
Bảng 1. Thông tin chung của nông hộ
trồng cà phê Arabica
Đặc điểm ĐVT Mean Std. Dev. Min Max
Tuổi chủ hộ năm 44 10,87 27 72
Số năm đi học năm 8 2,56 3 16
Số lao động người 2 0,56 1 4
Số lần tập
huấn/2 năm lần 3 2,44 0 10
Kinh nghiệm
sản xuất năm 19 10,46 5 45
Tổng diện
tích đất nông
nghiệp
ha 1,73 1,11 0,3 5
Diện tích trồng
cà phê ha 1,50 1,07 0,2 5
Tuổi cây cà phê năm 12 5,15 4 25
Mật độ trồng cây/ha 4.240 1.096 3.000 10.000
(Nguồn: Tổng hợp số liệu khảo sát, 2018).
Trong 2 năm vừa qua có khoảng 80% nông hộ
đã từng tham gia các lớp tập huấn, còn lại 20% là
chưa bao giờ được tham gia hoặc không muốn tham
gia. Lý do một số nông hộ không muốn tham gia tập
huấn vì họ cho rằng các khóa tập huấn không cung
cấp được kiến thức mới và mất thời gian nên không
thích tham gia. Ngược lại, có những hộ tham gia rất
nhiều, trung bình khoảng 3 lần, nhiều nhất lên tới
10 lần.
Qua khảo sát 82 hộ, tổng số diện tích sản xuất
nông nghiệp là bình quân là 1,73 ha, trong đó diện
tích đất sản xuất cà phê Arabica cũng vào khoảng
1,5 ha, có hộ nhiều nhất là 5 ha trong khi có hộ chỉ
có 0,2 ha. Như vậy diện tích sản xuất cà phê của
các hộ chỉ ở quy mô vừa và nhỏ, chiếm khoảng
87% trong tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp.
Nguyên nhân là do năng suất và giá cà phê Arabica
trong những năm gần đây xuống thấp nên một số
hộ đã chủ động chuyển đổi 1 phần diện tích trồng
cà phê sang các cây trồng khác có giá trị kinh tế cao
hơn như: rau, hoa và khoai lang hoặc do bán đất,
chia đất cho con cái.
Các giống cà phê Arabica trước đây được trồng
tại Đà Lạt chủ yếu là Typica, Moka với hương vị rất
thơm ngon, nhưng do tính chống chịu sâu bệnh kém
và năng suất thấp nên hiện nay nông dân đã chuyển
sang trồng giống Catimor với khả năng kháng bệnh
rỉ sắt rất tốt, năng suất cao hơn mặc dù hương vị
có kém hơn một chút. Mặc dù hiện nay Viện khoa
học Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên đã lai tạo thành
công 1 số giống cà phê Arabica mới cho năng suất
cao hơn, tính chống chịu tốt hơn nhưng theo kết quả
khảo sát cho thấy: 100% các hộ trồng giống cà phê
Catimor. Đây cũng là 1 giống cà phê được lai tạo và
có khả năng kháng bệnh rỉ sắt tốt (Hoffmann, 2014).
Mật độ trồng theo khuyến cáo của Trung tâm
Khuyến nông Lâm Đồng là 5,000 cây/ha, nhưng
phần lớn nông dân đều trồng với mật độ thấp hơn,
trung bình là 4,240 cây/ha, có hộ chỉ trồng 3.000 cây
trong khi có hộ lại trồng tới 10.000 cây. Qua khảo
sát cho thấy, hiện nay hiệu quả kinh tế từ cây cà phê
thấp nên nhiều hộ đã trồng xen 1 số loại cây trồng
khác như bơ và hồng Trong khi có những hộ lại
trồng với mật độ quá cao (10.000 cây/ha) vì họ cho
rằng đất quá dốc, nếu không trồng dày đất dễ bị rửa
trôi và cây cũng dễ bị ngã đổ khi gặp gió lớn.
Hiện nay có khoảng 13% nông dân trồng cà phê
chứng nhận theo tiêu chuẩn Fair Trade, 4C. Trong số
đó, hầu hết là những nông hộ của HTX cà phê Xuân
Trường Cầu Đất, còn lại thì bà con đều sản xuất theo
kinh nghiệm là chính.
Trong những năm gần đây, canh tác cây cà phê
Arabica thường gặp phải 2 đối tượng gây hại chính
đó là bọ xít muỗi (Helopeltis sp.) và bù xè (Xylotrechus
quadripes), thậm chí là phát triển thành dịch và rất
khó khống chế làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
năng suất. Theo kết quả khảo sát có đến 34% nông
dân nhận được sự hỗ trợ từ phía các cơ quan chức
năng nhằm bù đắp 1 phần thiệt hại của bà con nông
dân trước dịch bệnh hoành hành. Hình thức hỗ trợ
ở đây có thể là thuốc diệt bọ xít muỗi hoặc các loại
cây giống như cây bơ để giúp các nông hộ có thêm
1 số loại cây trồng đang có hiệu quả kinh tế, trồng
xen vào trong vườn cà phê đã bị bệnh dịch tấn công.
3.1.2. Chi phí sản xuất
Chi phí về lao động gia đình chiếm tỷ trọng cao
nhất (44,78%) vì đây là chi phí canh tác trong một
mùa vụ, kéo dài khoảng 12 tháng và ít áp dụng cơ
giới hóa vào trong sản xuất và thu hoạch nên đòi hỏi
rất nhiều công lao động. Công lao động cho sản xuất
1 ha cà phê giữa các hộ cũng có sự biến động rất lớn,
cao nhất là 60 triệu trong khi có hộ chỉ có đầu tư
khoảng 9 triệu.
Bên cạnh đó, chi phí về thuê công lao động cũng
chiếm tỷ lệ cao (13,24%) do cà phê Arabica chín
không đều, khi chín quá là quả sẽ rụng khỏi cây,
trong khi Arabica thì cần phải hái lựa. Do đó lao
động gia đình chỉ có khoảng 2 người thì sẽ không
đảm nhiệm được công việc thu hoạch do đó các hộ
hầu như phải thuê công từ các tỉnh khác lên hái:
Phan Rang, Ninh Thuận Ngoài ra, với các hộ có
diện tích lớn hoặc nhân lực ít thì vẫn phải thuê công
cho các công việc như làm cỏ, bón phân, xịt thuốc
110
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(99)/2019
Bảng 2. Chi phí sản xuất 1 ha cà phê Arabica
ĐVT: triệu đồng
Khoản mục Mean Tỷ lệ (%) Min Max
Std.
Dev.
A. Chi phí đầu
vào 19,21 37,53 2,80 36,00 8,21
1. Phân bón 15,94 31,14 2,00 30,00 7,25
2. Thuốc BVTV 2,49 4,86 - 7,00 1,58
3. Nhiên liệu 0,81 1,58 - 2,40 0,48
B. Chi phí tăng
thêm 31,99 62,47 9,00 66,40 11,22
1. Công nhà 22,93 44,78 1,67 60,60 10,62
2. Công thuê 6,78 13,24 - 21,43 6,74
3. Khấu hao 0,78 1,52 - 3,00 0,51
4. Vận chuyển 1,09 2,13 - 4,00 0,92
5. Bao bì 0,41 0,80 - 1,40 0,30
C. Tổng chi phí 51,20 100,00 15,60 95,00 16,77
(Nguồn: Tổng hợp số liệu khảo sát, 2018).
Chi phí về phân bón các loại cũng chiếm tỷ trọng
cao (31,14%) một mặt là do giá cả của các loại phân
bón tăng cao, mặt khác là do nông dân thường sử
dụng các loại phân bón và thuốc BVTV cao hơn so
với khuyến cáo. Cụ thể: Theo khuyến cáo của trung
tâm Khuyến nông tỉnh Lâm Đồng, lượng phân bón
cho 1 ha cà phê Arabica thời kỳ kinh doanh tính ra
tiền, tối đa là 9.433.000 đồng, như vậy nông hộ đã
bón cao hơn 1,67 lần. Điều này vừa làm tăng chi phí
trong sản xuất vừa ảnh hưởng không tốt đến sự phát
triển của cây trồng, đặc biệt là đối với các loại thuốc
kích thích trái chín đều nếu sử dụng thường xuyên
và ở nồng độ cao sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng
phát triển lâu dài của cây cà phê. Thêm vào đó, việc
lạm dụng phân bón và thuốc BVTV, đặc biệt là thuốc
trừ cỏ sẽ làm cho đất bị chai cứng và cây cà phê chậm
phát triển, khi đó chi phí để cải tạo đất bằng phân
hữu cơ, phân vi sinh là rất tốn kém.
Như vậy, trung bình chi phí sản xuất 1 ha cà phê
Arabica vào khoảng là 51,2 triệu đồng, trong đó chi
phí đầu vào là 19,21 triệu và chi phí tăng thêm là
31,99 triệu. Tuy nhiên, chi phí đầu tư của các hộ
là rất khác nhau tùy vào điều kiện kinh tế và kinh
nghiệm sản xuất. Có hộ đầu tư nhiều nhất là 95 triệu
trong khi có hộ chỉ đầu tư có 15,6 triệu đồng, thậm
chí là không có điều kiện để bón hay phun thuốc
hoặc chỉ sử dụng rất ít do giá cà phê thấp quá. Kết
quả này cũng tương tự với kết quả nghiên cứu của
Shively, G và Ha, D. T (2008).
3.2. Tiêu thụ cà phê Arabica
Từ số liệu của bảng 3 cho thấy, trung bình tổng
sản lượng của 1 ha thu được khoảng 9.43 tấn cà phê
quả tươi, trong đó 95% là được bán quả tươi, còn lại
chỉ có 5% là để chế biến nhân. Như vậy, năng suất cà
phê Arabica năm 2018 là rất thấp, so với những năm
trước đây thì năng suất đã giảm hơn 50%. Nguyên
nhân là do vài năm trở lại đây, bọ xít muỗi và bù
xè phát triển mạnh và lan rộng và có những nơi đã
bùng phát thành dịch làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến năng suất, có những hộ chỉ thu được 1,2 tấn quả
tươi. Trong khi đó vẫn có 1 số nông hộ ở khu vực ít
bị dịch, quản lý và chăm sóc vườn cà phê rất tốt nên
năng suất vẫn ổn định và đạt 26 tấn/ha.
Bảng 3. Sản lượng trung bình của 1 ha cà phê Arabica
ĐVT: tấn
Khoản mục Mean Tỷ lệ (%) Min Max
Std.
Dev.
Tổng sản lượng 9,43 100,00 1,20 26,00 5,54
Bán quả tươi 8,95 94,90 - 50,00 7,38
Chế biến nhân 1,38 14,66 - 40,00 5,02
(Nguồn: Tổng hợp số liệu khảo sát, 2018).
Không chỉ có năng suất thấp, giá cà phê tươi
niên vụ 2017 - 2018 trung bình cũng chỉ vào khoảng
9,7 triệu đồng/tấn, có hộ hái tỷ lệ quả xanh cao hoặc
cà phê xấu, lẫn tạp nhiều thì chỉ bán được với giá
7 triệu đồng. Trong khi đó, có những hộ trồng cà
phê chứng nhận (Fair trade hoặc 4C) và bán cho
công ty hoặc HTX thì có thể lên tới 13 triệu/tấn
nhưng đa số vẫn chưa có hợp đồng tiêu thụ. Kết quả
này cũng giống với kết quả nghiên cứu trong chuỗi
giá trị sắn ở Thừa Thiên Huế, liên kết giữa nông dân
bán sắn và nhà máy không chặt chẽ, không có ràng
buộc hay thỏa thuận nào được ký kết (Nguyễn Viết
Tuân, 2012).
Bảng 4. Thu nhập trung bình từ 1 ha cà phê Arabica
Khoản mục Mean Tỷ lệ (%) Min Max
Std.
Dev.
Doanh thu 95,93 100 4 260 57,71
Bán quả tươi 82,88 86,4 0 260 60,88
Chế biến nhân 13,05 13,6 0 171 37,96
Tổng chi phí 51,20 15,60 95,00 16,77
Lợi nhuận 44,73 (59,60) 175,40 45,79
(Nguồn: Tổng hợp số liệu khảo sát, 2018).
Như vậy, doanh thu trung bình từ 1 ha cà phê
Arabica niên vụ 2017 - 2018 vào khoảng 96 triệu
đồng, sau khi trừ các khoản chi phí đầu vào và chi
111
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(99)/2019
phí tăng thêm 15,2 triệu, nông hộ còn lời được
khoảng 44,73 triệu đồng. Trong khi đó mức lợi
nhuận từ trồng rau, hoa công nghệ cao năm 2017 tại
Lâm Đồng trung bình đạt 158 triệu đồng/ha/năm,
cao hơn 3,5 lần so với trồng cà phê Arabica (UBND
tỉnh Lâm Đồng, 2017). Nguyên nhân của thu nhập
thấp từ trồng cà phê Arabica là do năng suất giảm,
có hộ gần như mất trắng do dịch bệnh, mặt khác giá
cà phê Arabica niên vụ 2017 - 2018 thấp nhất trong
vòng 10 năm trở lại đây. Rủi ro về năng suất và giá
là 2 trong 3 loại rủi ro quan trọng nhất đối với nông
dân trồng cà phê ở Tây Nguyên nói chung mà Thinh,
H.S và Huong, N.T., (2015) đã chỉ ra trong nghiên
cứu của mình.
Bảng 5. Giá trị gia tăng
và giá trị gia tăng thuần của nông hộ
ĐVT: ngàn đồng/kg
Chỉ tiêu
Bán cho
công ty
chế biến
Bán cho
thương lái
Giá bán (1) 65,25 55,56
Chi phí trung gian (2) 11,37 11,37
Giá trị gia tăng (3) 53,88 44,19
Chi phí tăng thêm (4) 18,93 18,93
Giá trị gia tăng thuần (5) 34,95 25,26
Lợi ích/Chi phí (6) 1,15 0,83
Ghi chú: Các chỉ tiêu được tính trên 1 kg cà phê nhân;
(3) = (1) – (2); (5) = (3) – (4); (6) = (5) / [(2) + (4)].
Mặc dù nông dân bán cà phê của mình cho
thương lái và các công ty chế biến dưới dạng quả
tươi và cà phê nhân. Tuy nhiên, để thuận lợi cho việc
hoạch toán kinh tế, thì quy đổi sản lượng cà phê quả
tươi ra cà phê nhân với tỷ lệ là 6 kg quả tươi được
1 kg cà phê nhân.
Khoảng 82% là nông dân bán cà phê trực tiếp
cho thương lái, chủ yếu là quả tươi có phẩm chất
thấp. Với kênh này, nông dân bán trung bình là
55,56 ngàn/kg, tạo ra giá trị gia tăng là 44,19 và giá
trị gia tăng thuần là 25,26 với tỷ số lợi ích trên chi
phí đạt 0,83.
Chỉ có 18% nông hộ bán cà phê trực tiếp cho các
công ty công chế biến và hợp tác xã. Kết quả này
cũng tương tự như trong chuỗi giá trị khóm tại Tiền
Giang (Nguyễn Quốc Nghi, 2015). Trên kênh này,
cà phê của nông dân có chất lượng tốt nhất, nếu
bán quả tươi thì tỷ lệ quả chín phải đạt trên 95% và
không lẫn tạp như cành, lá, đất cát còn nếu bán cà
phê nhân thì phải kiểm soát được thời gian lên men
và quy trình phơi sấy phải bảo đảm. Khi đó nông
dân sẽ bán được với giá trung bình là 65,25 ngàn/kg,
sau khi trừ chi phí trung gian 11,37 thì giá trị gia
tăng mà nông hộ tạo ra là 53,88. Nếu tiếp tục trừ chi
phí tăng thêm thì giá trị gia tăng thuần trên mỗi kg
cà phê sẽ là 34,95 ngàn/kg, cao hơn 38% so với kênh
bán cho thương lái. Tỷ số lợi ích/chi phí trên kênh
này cũng cao hơn vào khoảng 1,15 đây là một tỷ lệ
rất cao do chi phí đầu tư của nông dân ít. Thêm vào
đó là quy mô sản xuất nhỏ chỉ vào khoảng 1,5 ha nên
tính về phân phối lợi nhuận/năm thì nông dân là tác
nhân nhận được ít nhất trong chuỗi.
Như vậy, khi nông dân bán cà phê trực tiếp cho
các công ty chế biến và hợp tác xã thì các chỉ tiêu
kinh tế như giá trị gia tăng, giá trị gia tăng thuần
cũng như lợi ích/chi phí sẽ cao hơn khi bán cho
thương lái. Kết quả này cũng tương tự như phân
tích trong chuỗi giá trị lúa gạo ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long (Võ Thị Thanh Lộc và Nguyễn Phú
Son, 2011). Đây là kênh phân phối quan trọng trong
chuỗi nên tập trung vào để phát triển. Tuy nhiên do
yêu cầu khắt khe về chất lượng nên không phải nông
dân nào cũng có thể đáp ứng được.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Về sản xuất: Hiện nay các nông hộ sản xuất cà
phê Arabica với quy mô nhỏ chỉ có 1,5 ha, có khoảng
13% nông hộ sản xuất cà phê có chứng nhận. Chi
phí sản xuất cho 1 ha vào khoảng 51 triệu trong
đó chi phí cho công lao động gia đình là cao nhất
(44,78%), sau đó là chi phí về phân bón (31,14) rồi
tới công thuê (13,24%). Hiện tại các nông hộ đang
gặp 2 khó khăn lớn đó là giá cà phê xuống thấp và
năng suất thấp do dịch bệnh. Chính điều này đã
làm cho thu nhập của nông hộ chỉ được khoảng
44,73 triệu đồng/ha/năm.
Về tiêu thụ: Các nông hộ bán cà phê chủ yếu là
cho thương lái (82%) còn lại 12% là bán cho các công
ty chế biến. Khi bán cho thương lái, giá trị gia tăng
và giá trị gia tăng mà nông dân tạo ra thấp hơn so với
bán cho các công ty chế biến.
4.2. Đề nghị
Các cơ quan ban ngành và các công ty chế biến,
công ty xuất khẩu nên có những chính sách hỗ trợ
trong 1 số lĩnh vực để nông hộ có thể tạo ra giá trị gia
tăng cao hơn như sau:
112
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(99)/2019
- Hỗ trợ trong việc sản xuất cà phê có chứng nhận
để nâng cao chất lượng sản phẩm, cắt giảm chi phí
phân bón và thuốc bảo vệ thực vật.
- Hỗ trợ hoặc khuyến khích nông hộ sản xuất cà
phê nhân để nâng cao chất lượng sản phẩm thay vì
hái lẫn nhiều quả xanh và bán quả tươi như hiện nay
để có thể bảo quản lâu hơn, hạn chế rủi ro về giá.
- Thúc đẩy liên kết giữa nông hộ với các công ty
chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm bớt
khâu trung gian và tạo ra giá trị gia tăng cao hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Thị Cành, 2005. Phương pháp và phương pháp
luận nghiên cứu khoa học kinh tế. Đại học Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Quốc Nghi, 2015. Phân tích chuỗi giá trị sản
phẩm khóm của hộ nghèo ở Tỉnh Tiền Giang. Tạp
chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, 40: 75-82.
Nguyễn Viết Tuân, 2012. Nghiên cứu đặc điểm và mối
liên kết của các tác nhân trong chuỗi giá trị sắn ở
Thừa Thiên Huế. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học
Huế, 75(2): 299-308.
Võ Thị Thanh Lộc và Nguyễn Phú Son, 2011. Phân
tích chuỗi giá trị lúa gạo vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ,
19: 96-108.
Võ Thị Thanh Lộc và Nguyễn Phú Son, 2016. Giáo
trình phân tích chuỗi giá trị sản phẩm. Trường Đại
học Cần Thơ.
Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng, 2017. Báo cáo tình
hình thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội 2017; kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội 2018. Số 227/BC-
UBND, ngày 21 tháng 11 năm 2017.
Food and Agriculture Organization of the United
Nations, 2017. Coffee production, accessed on 23
August 2018. Available from
faostat/en/#data/QC.
Kaplinsky, R. and Morris, M., 2001. A Handbook
for Value Chain Research. Ottawa: International
Development Research Center.
Hoffmann, J., 2014. The world atlas of coffee: from beans
to brewing, coffees explored, explained and enjoyed.
Denise Bates, 1st edn, Britain.
Shively, G. and Ha, D.T., 2008. Coffee Boom, Coffee
Bust and Smallholder Response in Vietnam’s Central
Highlands. Review of Development Economics, 12(2),
312-326.
Thinh, H. S. and Huong, N. T., 2015. Risk analysis:
case study for coffee growers in the central high land
area (Tay Nguyen), Viet Nam. International Journal
of Economics, Commerce and Management United
Kingdom, 3(8): 194-212.
Analysis of production and consumption situation of farmers
in the value chain of Arabica coffee in Da Lat
Nguyen Thi Tuoi, Nguyen Phu Son
Abstract
Analysis of production and consumption situation of farmers in the value chain of Arabica coffee in Da Lat based on
approaches of Kaplinsky and Morris (2001), Vo Thi Thanh Loc and Nguyen Phu Son (2016) were carried out by using
of Non-probability sampling and other tools such as Participatory Rural Appraisal (PRA) approach, key informant
panel method (KIP) and results from direct interviews of 82 coffee farmers in Da Lat. The aim of this study is
to analyze the production and consumption situations of farmers in the value chain of Arabica coffee in Da Lat.
The results showed that the production scale of Arabica coffee farmers was small, only 1.5 ha. Most coffee was sold to
middlemen (82%), the rest (12%) was sold to processing companies. When farmers sold to middlemen, added value
and net added value on this channel was lower than selling to processing companies.
Keywords: Value chain, production, consumption, Arabica coffee, Da Lat
Ngày nhận bài: 27/12/2018
Ngày phản biện: 8/1/2019
Người phản biện: TS. Phan Việt Hà
Ngày duyệt đăng: 14/2/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
phan_tich_tinh_hinh_san_xuat_va_tieu_thu_cua_nong_ho_trong_c.pdf