GIỚI THIỆU
1.1. Đặt vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Sự cần thiết nghiên cứu.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, nền kinh tế thế giới đang vận động không ngừng. Để cho một nền kinh tế phát triển thì một yếu tố rất quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế của một nước đó là vấn đề cơ sở hạ tầng kỹ thuật, giao thông thuận lợi và giao thông đường thuỷ thì cảng biển là một bộ phân không thể thiếu trong hệ thống giao thông đường thuỷ trong thương mại quốc tế, 80% hàng hoá được vận chuyển bằng đường biển. Chẳng hạn như hơn 30 năm trở về trước, nhờ hình thành cảng trung chuyển quốc tế đã đưa Singapore trở thành trung tâm thương mại, tài chính quốc tế, . kế hoạch đó đã là cho Singapore phát triển như bây giờ. Việt Nam cũng vậy trong việc phát triển kinh tế thì cảng là một bộ phận để giao thông, mà giao thông có thuận lợi thì đất nước mới có cơ hội để phát triển kinh tế - xã hội, mới giao lưu thông thương với các nước trên thế giới.
Cảng không những phục vụ cho nhu cầu đi lại cho con người mà còn là nơi trao đổi hàng hoá cho nhu cầu nội địa và cho nhu cầu xuất nhập khẩu góp phần không nhỏ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việt Nam có tiềm năng về biển, có nguồn hàng hoá dồi dào trong đó có đồng bằng sông Cửu Long. Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa của cả nước đóng góp 60% sản lượng gạo , 90% kim ngạch xuất khẩu gạo, 65% kim ngạch xuất khẩu thuỷ hải sản của cả nước (nguồn: báo điện tử kinh tế nông thôn). Lượng hàng hoá xuất nhập khẩu của đồng bằng sông Cửu Long ngày càng tăng nhanh nên nhu cầu vận chuyển hàng hoa ngày càng tăng cao, vị trí của các cảng biển trong hệ thống giao thông ngày càng quan trọng.
Mặt khác, với địa hình của đồng bằng sông Cửu Long thì các tuyến giao thông đường sông trở thành “mạch máu” quan trọng giúp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thông thương, giao lưu hàng hóa đến với các vùng miền trong cả nước và trên thế giới góp phần thúc đẩy kinh tế vùng phát triển.
Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại quốc tế WTO thì việc thu hút nhà đầu tư vào để phát triển nền kinh tế của đất nước, nhưng điều mà nhà đầu tư nào khi đầu tư đều phải chú trọng đó là cơ sở hạ tầng, trang bị kỹ thuật, hệ thống giao thông đặc biệt là hệ thống cảng biển có đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hoá hay không khi đầu tư vào Việt Nam.
Bên cạnh đó hệ thống cảng biển cũng góp phần làm ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế do chi phí vận chuyển có hợp lý hay không.
Đồng bằng sông Cửu Long có sông ngòi chằng chịt, hệ thống cảng biển cũng góp phần vào việc phát huy thế mạnh và tiềm năng vốn có của vùng của vùng không lãng phí điều kiện tự nhiên vốn có nếu khai thác đúng và hợp lý.
Hệ thống giao thông cơ sở hạ tầng phát triển thì các doanh nghiệp có càng nhiều cơ hội hơn để vươn mình ra thế giới cạnh tranh với các nước trên thế giới, các doanh nghiệp ngày càng có cơ hội phát triển, ăn nên làm ra góp phần thúc đẩy nền kinh tế vùng phát triển, từ đó nền kinh tế của đất nước cũng phát triển theo.
Vì vậy hệ thống giao thông, cơ sở hạ tầng nói chung trong đó cảng là một phần không thể thiếu trong hệ thống giao thông và là một phần không thể thiếu trong một nền kinh tế phát triển để phát huy thế mạnh của mình so với các nước khác. Cảng hoạt động vừa mang tính chất phục vụ vừa là một đơn vị kinh tế, cùng với các doanh nghiệp khác trong cả nước góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế trong cả nước. Hệ thống cảng biển phát triển mạnh không những chính cảng biển đó đống góp vào sự phát triển của nền kinh tế mà còn tạo cơ hội và điều kiện cho các hoạt động khác, các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế khác phát triển và thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển.
1.1.2. Căn cứ khoa học và thực tiễn.
Hoạt động vận tải mang tính chất phục vụ, vì vậy sản phẩm của vận tải đó chính là hoạt động ấy. Cũng do đặc tính phục vụ nên sản phẩm của vận tải cũng mang tính chất khác biệt.
Hoạt động vận tải có ích lợi là do đối tượng vận chuyển (hành khách hoặc hàng hóa) được di chuyển tới nơi cần thiết. Như vậy tính sử dụng của hoạt động đưa đến việc làm thỏa mãn nhu cầu cần có. Điều lợi đem lại do đối tượng đó có tại nơi yêu cầu lại nằm ngoài phạm vi của sản xuất vận tải. Như vậy giá trị sử dụng của hoạt động vận tải thống nhất với mục đích sản xuất, phải dựa trên chính bản thân sự di chuyển.
Tóm lại, giá trị sử dụng của hoạt động vận tải phát sinh và được tiêu thụ ngay trong quá trình vận tải.
Sau hoạt động vận tải, giá trị sử dụng của vận tải không còn, nhưng giá trị của hoạt động vận tải vẫn còn tồn tại trong giá trị của đối tượng vận chuyển. Cũng giống như các sản phẩm khác giá trị của hoạt động vận tải được xác định bởi thời gian lao động xã hội cần thiết để làm ra quá trình hoạt động vận tải đó. Khi hàng hóa được vận chuyển đến nơi yêu cầu thì giá trị của nó tăng thêm một lượng đúng bằng giá trị của hoạt động vận tải tạo ra. Biểu hiện về mặt giá trị thành sản phẩm thì giá thành này có bao gồm chi phí cho vận tải.
Mác đã chỉ ra rằng trong sản xuất, hàng hóa nhận giá trị mới, giá trị này tồn tại độc lập và nhờ có phần đóng góp của lao động sống vào nên nó cao hơn giá trị của nguyên, vật liệu, thiết bị dùng để làm ra hàng hóa đó. Mác đã diễn đạt điều đó bằng biểu thức mô tả các giai đoạn kế tiếp liên tục biến tiền ở dưới dạng tư bản công nghiệp qua quá trình sản xuất ra giá trị mới cao hơn của hàng hóa để rồi cuối cùng lại trở lại dạng tiền với số lượng nhiều hơn.
Nếu ta coi sự phục vụ vận tải là có thể bán được thì là bán chính bản thân hoạt động phục vụ ấy chứ không thể coi đấy là hàng hóa tách rời ra khỏi quá trình sản xuất. Do đó quá trình sản xuất ra giá trị mới trong vận tải sẽ không có khâu hàng hóa mới được sản xuất ra và nó sẽ có dạng:
SLĐ
T - H SX - T`
TLSX
Tóm lại hoạt động vận tải là một dạng sản xuất đặc biệt, sản phẩm của nó chính là bản thân của hoạt động ấy. Sản phẩm của vận tải được sinh ra và tiêu thụ ngay trong quá trình của hoạt động vận tải.
Khối lượng của sản xuất vận tải được đo bằng các đại lượng bằng khối lượng vận chuyển nhân với quảng đường vận chuyển của hoạt động vận tải.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ năm 2007
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ qua các năm theo nhiều hướng khác nhau: theo chiều hàng, theo loại hàng, theo mặt hàng, theo thời gian và theo phương án xếp dỡ.
- Đánh giá mức độ thực hiện sản lượng so với kế hoạch đã đề ra và khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường của Cảng Cần Thơ.
- Tìm ra nguyên nhân khách quan, chủ quan ảnh hưởng đến việc thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ và biện pháp khắc phục những khó khăn, phát huy và tận dụng những thuận lợi. Xác định ưu khuyết điểm, những thuận lợi, khó khăn và điểm mạnh, điểm yếu của Cảng Cần Thơ trong việc thực hiện sản lượng.
1.3. Phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Không gian: Cảng Cần Thơ
1.3.2. Thời gian:
- Lấy số liệu từ năm 2005, 2006, 2007
- Trực tiếp thâm nhập thực tế tại Cảng Cần Thơ từ ngày 25/02/2008 đến ngày 25/4/2008
1.3.3. Đối tượng nghiên cứu
Tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ năm 2007
1.3.4. Lược khảo tài liệu có liên quan đến đề tài nghiện cứu
Luận văn tốt nghiệp: Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của cảng Cần Thơ năm 2006 ( Phạm Hoàng Trãi- Trường Đại học Giao thông vận tải Thành Phố Hồ Chí Minh)
73 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2314 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ năm 2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng suất, tiết kiệm chi phí, tránh lãng phí tăng cường hoạt động các dịch vụ ngoài khu vực để tăng doanh thu hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Ngoài ra Cảng Cần Thơ cũng được trang bị tương đối về thiết bị máy móc cơ sở hạ tầng đảm bảo phục vụ tốt cho sản xuất, mặt khác cơ sở hạ tầng được nhà nước đầu tư cơ bản tạm thời đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ kinh tế chính trị cấp bách hiện nay.
CHƯƠNG 4
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN SẢN LƯỢNG CỦA CẢNG CẦN THƠ
NĂM 2005-2007
4.1. Đánh giá chung tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ năm 2005-2007
4.1.1. Đánh giá chung kết quả sản xuất kinh doanh về sản lượng của Cảng Cần Thơ năm 2005 - 2007
Bảng 4: BẢNG BÁO CÁO TÌNH HÌNH THỰC HIỆN SẢN LƯỢNG CỦA CẢNG CẦN THƠ NĂM 2005 -2007
S
T
T
Chỉ tiêu
Đơn vị
Thực hiện
năm 2005
Thực hiện
năm 2006
Thực hiện
năm 2007
1
Sản lượng thông qua
Tấn
879.386
875.531
1.305.952
2
Sản lượng xếp dỡ
Tấn
1.082.532
1.075.118
1.606.548
3
Sản lượng chuyển thẳng
Tấn
768.944
781.046
1.150.492
4
Sản lượng lưu kho bãi
Tấn
143.085
147.432
236.831
( Nguồn: Phòng kế hoạch và đầu tư)
Bảng 5: BẢNG SO SÁNH TÌNH HÌNH THỰC HIỆN SẢN LƯỢNG CỦA CẢNG CẦN THƠ NĂM 2005 - 2007
S
T
T
CHỈ TIÊU
Chênh lệch năm 2006 so với năm 2005
Chênh lệch năm 2007 so với năm 2006
(Tấn)
(%)
(Tấn)
(%)
1
Sản lượng thông qua
-3.855
-0,44
430.421
49,16
2
Sản lượng xếp dỡ
-7.414
-0,68
531.430
49,43
3
Sản lượng chuyển thẳng
12.102
1,57
369.446
47,3
4
Sản lượng lưu kho bãi
4.347
3,04
89.399
60,64
4.1.2. Đánh giá chung về từng chỉ tiêu.
Sản lượng thông qua
Sản lượng hàng hóa thông qua năm 2007: thực hiện 1.305.952 tấn đạt 131% kế hoạch năm 2007, so với năm 2006 đạt 149,16%, tăng 49,16% số tuyệt đối là tăng 430.421 tấn. Nguyên nhân sản lượng hàng hoá thông qua năm 2007 tăng khá cao so với năm 2006 nguyên nhân là do sản lượng gạo xuất ngoại tuy có giảm nhưng bù lại năm 2007 sản lượng cát xuất khẩu và gỗ tràm xuất khẩu tăng mạnh, mặt khác tuy sản lượng lương thực xuất ngoại giảm nhưng sản lượng lượng lương thực xuất nội tăng đáng kể so với năm 2006 do áp dụng chính sách của nhà nước để đảm bảo an toàn lương thực trong cả nước. Mặt khác các hàng hoá nhập nội xề sắt thép, than đá và clinker cũng tăng mạnh do năm 2007 là năm có nhiều dự án, công trình sẽ và đang khởi công xây dựng, nhu cầu về xây dựng để đáp ứng cơ sở hạ tầng, cơ sở hợp tác đầu tư trong thời kỳ hội nhập như hiện nay.
Sản lượng hàng hoá năm 2006 so với năm 2005 đạt 99,56% giảm 0,44%, số tuyệt đối là giảm 3.855 tấn. Nguyên nhân là do thời tiết lũ lụt, dịch bệnh trên lúa nên sản lượng gạo sản xuất ra bị giảm dẫn đến sản lượng gạo xuất ngoại và xuất nội giảm, ngoài ra mặt hàng thức ăn gia súc cũng giảm. Năm 2006 hàng hoá nhập ngoại clinker giảm mạnh đây là một trong những nguyên nhân là cho lượng hàng hoá trong năm 2006 giảm so với năm 2005.
Tuy nhiên, nhu cầu vận chuyển hàng hoá của đồng bằng sông Cửu Long ngày càng tăng, nhưng thật sự hệ thống cảng biển của đồng bằng sông Cửu Long chưa thể đáp ứng được nhu cầu vận chuyển này, các cảng không hoạt động hết công suất và Cảng Cần Thơ cũng vậy do nhiều yếu tố khác nhau nhưng luồng vào cảng là một yếu tố rất quan trọng. Năm 2007 khối lượng hàng hóa vận chuyển thông qua cảng của đồng bằng sông Cửu Long khoảng 10 triệu tấn/năm. Với khối lượng lớn như vậy, nhưng vùng này chỉ có 12 cảng biển và mới đảm nhận được khoảng 30% nhu cầu hàng hóa của khu vực (nguồn: báo Cần Thơ). Với khoảng 30% nhu cầu hàng hoá của khu vực thì sản lượng hàng hoá vận chuyển thông qua cảng là khoảng 3 triệu tấn trong đó Cảng Cần Thơ đã vận chuyển được 1.305.952 tấn chiếm khoảng 45,53%, cảng Mỹ Thới là 936.026 tấn chiếm khoảng 31,2 %, cảng Mỹ Tho 317.735 tấn chiếm khoảng 10,59 % , cảng Vĩnh Long 187.000 tấn chiếm khoảng 6,23 %, các cảng còn lại tại đồng bằng sông Cửu Long chiếm khoảng 8,45 %.
Bảng 6: BẢNG ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN SẢN LƯỢNG CỦA CẢNG CẦN THƠ SO VỚI CÁC CẢNG TRONG KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG NĂM 2007
STT
Tên cảng
Sản lượng (tấn)
Tỷ trọng (%)
1
Cảng Cần Thơ
1.305.952
43,53
2
Cảng Mỹ Thới
936.026
31,20
3
Cảng Mỹ Tho
317.735
10,59
4
Cảng Vĩnh Long
187.000
6,23
5
Cảng khác
253.251
8,45
Tổng sản lượng
3.000.000
100
Biểu đồ thực hiện sản lượng của các cảng đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long có 3 cảng đầu mối là Cảng Cần Thơ, Cảng Mỹ Thới và Cảng Mỹ Tho trong đó Cảng Cần Thơ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng hàng hoá thông qua các cảng ở đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên hầu hết các cảng đều không hoạt động hết công suất do luồng vào không đảm bảo cho tàu có trọng tải lớn ra vào. Các cảng ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ có thể đáp ứng được khoảng 30% tổng sản lượng hàng hoá có nhu cầu thông qua cảng như vậy là quá thấp trong khi đó cảng không hoạt động hết công suất. Khoảng 70% lượng hàng hoá xuất khẩu của đồng bằng sông Cửu Long phải qua các cảng ở thành phố Hồ Chí Minh trước khi ra ngoài . Điều này không những làm cho tăng thời gian, giá thành, giao thông thành phố quá tải, mà còn làm giảm chất lượng cũng như giảm tính cạnh tranh của hàng hoá đồng bằng sông Cửu Long bởi vì chi phí vận chuyển lên thành phố Hồ Chí Minh rồi mới xuất đi có khi lên đến 200 USD/tấn. Năng lực của cảng Cần Thơ là không nhỏ nhưng khó hấp dẫn các chủ hàng và chủ tàu bởi sự hạn chế về độ sâu của cửa Định An. Việc khai thông luồng vào cảng ở đồng bằng sông Cửu Long không những giúp cho các cảng hoạt động hết công suất tránh lãng phí trong việc đầu tư có sở hạ tầng cho các cảng, ngoài ra còn giảm áp lực cho Cảng Sài Gòn, giao thông thành phố thông thoáng hơn và nhất là nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới điều này đặc biệt quan trọng nhất là khi nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Hệ thống giao thông vận tải đường thuỷ nhất là cảng biển hoạt động tốt cũng góp phần vào việc khẳng định vị trí của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Sản lượng xếp dỡ:
Sản lượng xếp dỡ bằng sản lượng thông qua cộng với sản lượng bốc xếp hàng hoá từ kho bãi lên phương tiện của khách hàng và từ phương tịên của khách hàng xuống kho bãi của cảng nên sản lượng hàng hoá xếp dỡ phụ thuộc nhiều vào sản lượng hàng hoá thông qua.
Sản lượng hàng hoá thông qua tăng nên sản lượng hàng hoá xếp dỡ cũng tăng theo ngược lại sản lượng hàng hoá thông qua giảm sẽ dẫn đến sản lượng hàng hoá xếp dỡ cũng giảm theo, sản lượng hàng hoá xếp dỡ năm 2006 so với năm 2005 đạt 99,32% giảm 0.68% số tuyệt đối là giảm 7.414 tấn.
Sản lượng hàng hoá xếp dỡ năm 2007 so với năm 2006 đạt 149,43% tăng 49,43 %, số tuyệt đối là tăng 531.430 tấn.
Tuy sản lượng hàng hoá xếp dỡ tăng mạnh trong năm 2007 so với năm 2006, tuy nhiên Cảng Cần Thơ vẫn chưa thực sự hoạt động hết công suất thiết kế. Trong khi năng suất xếp dỡ của Cảng Cần Thơ cơ thể xếp dỡ được 2.187.500 tấn năm 2007 tuy nhiên trong năm 2007 Cảng Cần Thơ chỉ xếp dỡ được 1.606.548 tấn, cảng Cần Thơ chỉ đạt được 73,44 % công suất thiết kế. Nguyên nhân là do luồng vào Cảng Cần Thơ chưa được khai thông nên không thu hút được nhiều chủ hàng, chủ tàu cập cảng.
Sản lượng chuyển thẳng
Sản lượng chuyển thẳng năm 2006 so với năm 2005 đạt 101,57 % tăng 1,57 % số tuyệt đối là tăng 12,102 tấn.
Sản lượng chuyển thẳng năm 2007 so với năm 2006 đạt 147,3 % tăng 47,3 % số tuyệt đối là tăng 366.446 tấn.
Nguyên nhân là do lượt tàu ra vào cảng ngày càng tăng, cụ thể số lượt tàu ra vào cảng năm 2007 là 1420 lượt phương tiện, so với cùng kỳ năm 2006 đạt 125% tăng 25%. Trong đó:
Tàu nội: 160 lượt so với năm 2006 đạt 182%
Tàu ngoại: 111 lượt so với năm 2006 đạt 156%
Ghe và sà lan: 1149 lượt so với năm 2006 đạt 117%
Tất cả các lượt tàu ghé vào cảng đều tăng đáng kể điều này cho thấy thương hiệu Cảng Cần Thơ ngày càng có uy tín trong nước và quốc tế, được khách hàng trong và ngoài nước tín nhiệm và đặt niềm tin thực sự. Tuy Cảng Cần Thơ chưa thực sự hoạt động hết công suất và khả năng trang bị hiện có của cảng do các tác động bên ngoài đặt biệt là luồng cửa Định An ngày càng bị bồi lắng, luồng bị cạn, nhà nước có đầu tư nạo vét nhưng thực sự không hiệu quả bởi cửa Định An bị bồi lắng bởi dòng sông Hậu. Do đó luồng lạch chưa đảm bảo an toàn cho tàu bè ra vào cảng, luồng thực sự không ổn định, theo thông báo của hàng hải đôi khi cốt luồng chỉ đạt 2,5 m thì gây tâm lý trở ngại cho các hãng tàu, thực tế Cảng Cần Thơ hiện nay chỉ tiếp nhận tàu có mớn nước dưới 7 m. Nhưng đây là một dấu hiệu đáng mừng để Cảng Cần Thơ có thể phát huy khả năng thực sự của mình khi luồng vào cảng được khai thông.
Sản lượng lưu kho bãi
Sản lượng lưu kho bãi năm 2006 đạt 103,04 % tăng 3,04 %, số tuyệt đối là tăng 4.347 tấn so với năm 2005. Nguyên nhân là do năm 2006 tuy sản lượng nhập kho thấp hơn năm 2005 nhưng sản lượng tồn kho cao hơn so với năm 2005 nên sản lượng hàng hóa tồn kho năm 2006 tăng nhẹ so với năm 2005
Sản lượng lưu kho bãi năm 2007 đạt 160,64 % tăng 60,64 % so với năm 2006, số tuyệt đối là tăng 89.399 tấn. Nguyên nhân là do trong năm 2007 phòng giao nhận kho hàng thực hiện việc kiểm đếm giao nhận hàng hoá đầy đủ, chính xác, không có xảy ra nhầm lẫn, thiếu hụt hay mất mát hàng hoá, luôn luôn cải tiến để sắp xếp điều động để cán bộ kiểm đếm làm việc có hiệu quả. Mặt khác hàng hóa lưu kho bãi được bảo quản tốt, việc giao nhận kiểm đếm hàng hoá trong kho và bãi luôn đầy đủ chính xác, kịp thời, sắp xếp hàng hóa thứ tự ngăn nắp và khoa học đảm bảo tốt công tác giao nhận và đảm bảo an toàn hàng hoá nên uy tín cũng như thương hiệu của Cảng Cần Thơ ngày càng được nâng cao hơn, sản lượng hàng hoá lưu kho bãi ngày càng nhiều hơn. Sản lượng hàng hoá nhập kho năm 2007 tăng mạnh hơn năm 2006 và lượng hàng hoá tồn kho cũng cao hơn lượng hàng lượng hàng hoá tồn kho năm 2006. Do vậy lượng hàng hoá lưu kho năm 2007 tăng mạnh so với năm 2006. Điều này cho thấy kho bãi của Cảng Cần Thơ được quản lý và khai thác tương đối tốt toàn bộ diện tích.
4.2. Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ theo chiều hàng
4.2.1. Ý nghĩa và mục đích
4.2.1.1. Ý nghĩa
Công ty có thể hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu về việc thực hiện sản lượng hay không phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân, nhiều khía cạnh khác nhau trong đó thực hiện sản lượng theo chiều hàng cũng là một khía cạnh cần phải quan tâm. Cảng Cần Thơ hoạt động chủ yếu mang tính chất dịch vụ và là nơi trao đổi mua bán của các công ty trong nước và nước ngoài hay trong nước với nhau. Vì vậy sản lượng của Cảng Cần Thơ phụ thuộc rất nhiều vào chiều hàng.
Phân tích tình hình thực hiện sản lượng theo chiều hàng để thấy được chiều nào tăng, chiều nào giảm từ đó đưa ra biện pháp để cũng cố như bố trí lại nguồn nhân lực, các trang thiết bị, cơ sở hạ tầng,…. cho hợp lý theo chiều hàng đó.
Ngày nay việc trao đổi mua bán thông thương giữa các công ty nước ngoài vào Việt Nam ngày càng dễ dàng hơn nhất là khi chúng ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Công ty Cảng Cần Thơ thực hiện sản lượng theo chiều hàng gồm có chiều hàng: xuất ngoại, nhập ngoại, xuất nội, nhập nội.
4.2.1.2. Mục đích
- Đánh giá tình hình thực hiện sản lượng theo chiều hàng nhằm tìm ra các nguyên nhân ảnh hưởng đến việc thực hiện sản lượng của công ty.
- Đưa ra các biện pháp khắc phục những khó khăn, phát huy điểm mạnh nhằm tăng sản lượng cho công ty theo chiều hàng đó.
Bảng 7: BẢNG ĐÁNH GIÁ TỶ TRỌNG ĐÓNG GÓP VÀO TỔNG SẢN LƯỢNG THEO CHIỀU HÀNG CỦA CẢNG CẦN THƠ NĂM 2005-2007
Thực hiện 2005
Thực hiện 2006
Thực hiện 2007
S
T
T
Chiều hàng
Sản lượng (tấn)
Tỷ trọng
(%)
Sản lượng (tấn)
Tỷ trọng
(%)
Sản lượng (tấn)
Tỷ trọng
(%)
1
Xuất ngoại
54.712
6,22
52.606
6,00
413.017
31,63
2
Nhập ngoại
272.627
31,00
285.836
32,65
211.123
16,17
3
Xuất nội
185.374
21,08
155.460
17,76
193.927
14,85
4
Nhập nội
366.673
41,70
381.629
43,59
487.885
37,35
5
Tổng cộng
879.386
100%
875.531
100%
1.305.952
100%
( Nguồn: Phòng kế hoạch và đầu tư)
Biểu đồ đánh giá tỷ trọng đóng góp vào tổng sản lượng theo chiều hàng của Cảng Cần Thơ
Qua biểu đồ trên ta thấy có sự chuyển dịch cơ cấu hàng hoá thông qua theo chiều hàng qua các năm từ năm 2005 đến năm 2007, hàng hoá thông qua cảng xuất ngoại giảm nhẹ qua từ năm 2005 đến năm 2006 (chiếm từ 6,22% xuống còn 6% trong cơ cấu sản lượng thông qua Cảng Cần Thơ) nhưng qua năm 2007 hàng hoá tăng nhanh gấp hơn 5 lần so với cơ cấu về sản lượng hàng hoá thông qua cảng (chiếm 6% năm 2006 đã tăng lên chiếm 31,36 % trong tổng sản lượng thông qua cảng). Nguyên nhân là do Cảng Cần Thơ tự tìm kiếm nguồn hàng và khác hàng mới, tuy không thể tiếp nhận tàu có trọng tải lớn nhưng Cảng Cần Thơ đã và đang khai thác tìm nguồn hàng mới có tính chất nhẹ và có sẵn nguồn cung tại chỗ, đảm bảo cho tàu lớn nước ngoài vào tìm nguồn hàng vào được do trọng tải của hàng hoá nhẹ nên có mớn nước thấp tàu có thể vào được vừa có thêm sản phẩm mới cho Cảng Cần Thơ vừa tạo đầu ra cho sản phẩm của vùng đồng bằng sông Cửu Long phát huy thế mạnh của vùng.
Sự chuyển dịch cơ cấu của hàng nhập ngoại năm 2006 tăng nhẹ so với năm 2005 ( chiếm 31% năm 2005 đến chiếm 32,65 % năm 2006 trong cơ cấu tổng sản lượng hàng hoá thông qua của Cảng Cần Thơ ) nhưng tỷ trọng của hàng nhập ngoại trong cơ cấu tổng sản lượng của Cảng Cần Thơ năm 2007 lại giảm mạnh so với năm 2006 ( tỷ trọng hàng nhập ngoại chiếm 16,17% trong cơ cấu tổng sản lượng hàng hoá thông qua cuả Cảng Cần Thơ năm 2007).
Tỷ trọng hàng hoá xuất nội giảm qua các năm từ năm 2005 đến năm 2007 (chiếm 21,08 % năm 2005, chiếm 17,76 % năm 2006 và chiếm 14,85% năm 2007)
Tỷ trọng hàng hoá nhập nội trong cơ cấu tổng sản lượng hàng hóa thông qua của Cảng Cần Thơ năm 2006 giảm so với năm 2005 (năm 2005 chiếm 41,7 % so với năm 2006 chiếm 43,59 % ), tỷ trọng hàng hóa nhập nội trong tổng cơ cầu hàng hoá thông qua của Cảng Cần Thơ năm 2007 giảm so với năm 2006 (năm 2007 chiếm tỷ trọng 37,35 %).
Tóm lại, qua 3 biểu đồ trên ta nhận thấy có sự chuyển dịch cơ cấu trong tổng sản lượng hàng hoá thông qua của Cảng Cần Thơ qua các năm. Sự chuyển dịch cơ cấu qua các năm tỷ trọng hàng hoá xuất ngoại tăng nhanh chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng sản lượng hàng hoá thông qua Cảng Cần Thơ, đây là một dấu hiệu đáng mừng chứng tỏ thị trường xuất khẩu ngày càng sôi động hơn, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội để vươn mình ra các nước khác hơn. Đây là một phần để giúp cho Cảng Cần Thơ có thể đưa ra kế hoạch và chuẩn bị cho tương lai.
Bảng 8: BẨNG ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN SẢN LƯỢNG CủA CẢNG CẦN THƠ THEO CHIỀU HÀNG.
S
T
T
Chiều hàng
Chênh lệch năm 2006 so với năm 2005
Chênh lệch năm 2007 so với năm 2006
Số tuyệt đối
(tấn)
Số tương đối
(%)
Số tuyệt đối
(tấn)
Số tương đối
(%)
1
Xuất ngoại
-2.106
-3,85
360.411
685,11
2
Nhập ngoại
13.209
4,85
-74.713
-26,14
3
Xuất nội
-29.914
-16,14
38.467
24,74
4
Nhập nội
14.956
4,10
106.256
27,84
Tổng cộng
-3.855
-0,44
430.421
49,16
Xuất ngoại
Sản lượng xuất ngoại năm 2006 so với năm 2005 đạt 96,15% giảm 3,85% số tuyệt đối là giảm 2.106 tấn. Nguyên nhân là do sản lượng lương thực năm 2006 giảm so với năm 2005.
Sản lượng xuất ngoại so với năm 2006 đạt 785,11% vượt 685,11% số tuyệt đối là tăng 360.411 tấn. Nguyên nhân là do tuy sản lượng lương thực xuất khẩu giảm so với năm 2006 nhưng năm 2007 sản lượng cát xuất khẩu và gỗ tràm xuất khẩu tăng mạnh nên làm cho sản lượng xuất ngoại năm 2007 tăng mạnh.
Nhập ngoại
Sản lượng hàng hoá nhập ngoại năm 2006 đạt 104,85% so với năm 2005 tăng 4,85% số tuyệt đối là 13.209 tấn. Nguyên nhân là do sản lượng gỗ và thạch cao nhập nội tăng đáng kể nhưng do sản lượng clinker năm 2006 giảm đáng kể so với năm 2005 nên sản lượng hàng hoá thông qua năm 2006 có tăng so với năm 2005 nhưng không đáng kể.
Sản lượng hàng hoá nhập ngoại năm 2007 so với năm 2006 đạt 73,86% giảm 26,14% số tuyệt đối là giảm 74.713 tấn. Nguyên nhân là do sản lượng gỗ, clinker, phân bón nhập ngoại năm 2007 giảm đáng kể so với năm 2006, tuy năm 2007 có sự tăng lên về sản lượng của thạch cao tuy nhiên tổng lượng hàng hoá nhập ngoại năm 2007 vẫn giảm so với năm 2006.
Xuất nội
Xuất nội năm 2006 đạt 83,86% giảm 16,14% so với năm 2005 số tuyệt đối là giảm 29.914 tấn. Nguyên nhân là do lượng lương thực xuất nội năm 2006 giảm mạnh so với năm 2005.
Sản lượng hàng hoá xuất nội năm 2007 đạt 124,74% tăng 24,74% so với năm 2006 số tuyệt đối là 38.467 tấn. Nguyên nhân, tuy các mặt hàng khác có giảm nhưng không đáng kể, nhưng mặt hàng chính là sản lượng gạo năm 2007 tăng đáng kể làm cho sản lượng hàng hoá xuất nội năm 2007 tăng so với năm 2006
Nhập nội
Sản lượng hàng hoá nhập nội của Cảng Cần Thơ năm 2006 đạt 104,1% tăng 4,1% số tuyệt đối là 14.956 tấn so với năm 2005. Nguyên nhân là do sản lượng xi măng và phân bón nhập nội năm 2006 tăng đáng kể so với năm 2005, tuy các mặt hàng khác đặt biệt là than đá giảm một lượng khá cao, các mặt hàng khác có giảm nhưng không đáng kể, hàng hoá nhập nội của Cảng Cần Thơ chủ yếu là than đá, xi măng, hàng container.
Sản lượng hàng hoá nhập nội năm 2007 so với năm 2006 sản lượng nhập nội năm 2007 đạt 127,84% tăng 27,84% số tuyệt đối là 106.256 tấn.
Nhìn chung sản lượng hàng hoá nhập nội tăng qua các năm cả về số tương đối và số tuyệt đối nguyên nhân là do nền kinh tế của Việt Nam ngày càng phát triển và để đáp ứng nhu cầu hội nhập thì nhu cầu về sự trao đổi, lưu thông hàng hoá ngày càng cao.
Sản lượng hàng hoá thông qua Cảng Cần Thơ ngày càng tăng một phần là do sản lượng hàng hoá của đồng bằng sông Cửu Long có nhu cầu trao đổi ngày càng tăng và Cảng Cần Thơ đã biết khai thác và phát huy thế mạnh của vùng đồng bằng sông Cửu Long, không những góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động kinh tế của Cảng Cần Thơ mà còn góp phần tạo đầu ra cho sản phẩm của đồng bằng sông Cửu Long.
Bảng 9: BẢNG ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH SẢN LƯỢNG CỦA CẢNG CẦN THƠ THEO CHIỀU HÀNG NĂM 2007
S
T
T
Chiều hàng
Sản lượng năm 2007
(tấn)
Chênh lệch giữa kế hoạch với thực hiện
Số tương đối nhiệm vụ kế hoạch
(%)
Số tương đối hoàn thành kế hoạch
(%)
Kế
hoạch
Thực
hiện
Số tuyệt đối
(tấn)
Số tương đối
(%)
1
Xuất ngoại
59.500
413.017
353.517
594,15
113,10
694,15
2
Nhập ngoại
260.000
211.123
-48.877
-18,80
90,96
81,2
3
Xuất nội
164.000
193.927
29.927
18,25
105,49
118,25
4
Nhập nội
366.500
487.885
121.385
33,12
96,04
133,12
5
Tổng cộng
850.000
1.305.952
455.952
53,64
97,08
153,64
Qua bảng đánh giá tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ năm 2007
Sản lượng hàng hoá xuất ngoại của Cảng Cần Thơ không những hoàn thành mà còn vượt mức kế hoạch đề ra nhiệm vụ kế hoạch năm 2007. Sản lượng hàng hoá xuất ngoại của Cảng Cần Thơ chỉ cần đạt 113,1 % sản lượng thực hiện của năm 2006 nhưng sản lượng hàng hoá xuất ngoại thực hiện của Cảng Cần Thơ đã đạt 694,15 % so với kế hoạch đã đề ra vượt 595,15 % so với kế hoạch đã đề ra, số tuyệt đối là tăng 353.517 tấn. Vượt quá cao so với kế hoạch đã đề ra nguyên nhân là do sản lượng tràm xuất khẩu năm 2007 tăng mạnh nguyên nhân là do sự cố gắng nhiệt tình của Ban Giám đốc Cảng Cần Thơ đã tìm được nguồn hàng gỗ tràm và đã thuyết phục các doanh nghiệp Trung Quốc chọn Cảng Cần Thơ làm nơi thu mua cây tràm của đồng bằng sông Cửu Long vì sản lượng tràm của đồng bằng sông Cửu Long nhiều, thân cây nhẹ nên dù tàu chở đầy tràm thì mơn nước vẫn thấp, dễ ra vào cửa biển Định An.
Sản lượng hàng hoá nhập ngoại năm 2007 với số tương đối nhiệm vụ kế hoạch đạt 90,96 % so với thực hiện năm 2006 nhưng thực tế năm 2007 sản lượng hàng hoá nhập ngoại hoàn thành được 81,2 % sản lượng kế hoạch đã đề ra, do vậy năm 2007 Cảng Cần Thơ không hoàn thành kế hoạch về sản lượng hàng hoá nhập ngoại, sản lượng không hoàn thành là 18,8 %, số tuyệt đối là giảm 48.877 tấn so với kế hoạch đã đề ra năm 2007.
Sản lượng hàng hoá xuất nội năm 2007, với số tương đối nhiệm vụ kế hoạch 105,49 % so với năm 2006 tăng 5,49 % sản lượng thực hiện năm 2006. Sản lượng thực hiện năm 2007, với số tương đối hoàn thành kế hoạch đạt 118,25 % vượt 18,25% so với kế hoạch đã đề ra. Như vậy sản lượng hàng hoá xuất nội năm 2007 không những đã hoàn thành kế hoạch đã đề ra mà còn vượt kế hoạch với số tương đối là 29.927 tấn.
Sản lượng hàng hoá nhập nội năm 2007, với số tương đối nhiệm vụ kế hoạch là đạt 96,04% sản lượng hàng hoá nhập nội thực hiện năm 2006. Năm 2007 với số tương đối hoàn thành kế hoạch là 133,12 % Cảng Cần Thơ không những hoàn thành kế hoạch đã đề ra mà còn vượt mức kế hoạch đã đề ra là 33,12 %, số tuyệt đối là 121.385 tấn.
Tóm lại, với bảng đánh giá khả năng hoàn thành kế hoạch của Cảng Cần Thơ ta thấy chỉ có sản lượng hàng hoá nhập ngoại là không hoàn thành kế hoạch, còn việc thực hiện theo các chiều hàng khác thì không những Cảng Cần Thơ đã hoàn thành mà còn vượt mức kế hoạch đã đề ra. Qua đó ta nhận thấy Cảng Cần Thơ ngày càng hoạt động có hiệu quả nhưng cần chú ý hơn trong việc đề ra kế hoạch thực hiện sản lượng theo chiều hàng xuất ngoại do vượt mức quá xa so với kế hoạch đã đề ra, sản lượng hàng hoá nhập ngoại không hoàn thành kế hoạch đã đề ra.
4.3. Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ theo loại hàng
4.3.1. Ý nghĩa và mục đích
4.3.1.1.Ý nghĩa.
Tuỳ theo từng đặc điểm khác nhau của hàng hoá mà mỗi hàng hoá có cách đóng gói khác nhau được tạo thành nhiều loại hàng khác nhau. Mỗi loại hàng khác nhau sẽ có phương pháp đóng gói và vận chuyển và xếp dỡ khác nhau. Có nhiều loại hàng khác nhau là do nhu cầu về an toàn, đảm bảo chất lượng hàng hoá hay tiết kiệm bao bì, cách đóng gói để giảm chi phí,…. Mỗi phương pháp vận chuyển và xếpdỡ khác nhau đòi hỏi phải có phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật phù hợp với từng loại hàng khác nhau.
Nguyên nhân tác động đến sản lượng hàng hoá là nhiều nguyên nhân khác nhau tác động. Nguyên nhân khác quan là do sự biến động của hàng hoá, sự tiết kiệm về bao bì để giảm chi phí cho hàng hoá, …..
Nguyên nhân chủ quan là do nhu cầu về trang thiết bị kỹ thuật của cảng không đủ để đáp ứng nhu cầu vận chuyển của khách hàng, điều này cũng có thể dẫn đến việc sản lượng hàng hoá qua cảng giảm.
So sánh sự biến động của tùng loại hàng hoá từ đó tìm ra nguyên nhân gây ra
sự biến động đó để tìm cách khắc phục khuyết điểm, hạn chế những khó khăn.
4.3.1.2.Mục đích
Đánh giá sự tăng giảm của từng loại hàng hoá qua các năm. Tìm ra nguyên nhân của sự biến động đó và đưa ra biện pháp để khắc phục.
Bảng 10: BẢNG BÁO CÁO TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
SẢN LƯỢNG THEO LOẠI HÀNG CỦA CẢNG CẦN THƠ NĂM 2005 - 2007 Đơn vị tính: Tấn
S
T
T
Loại hàng
Thực hiện năm 2005
Thực hiện năm 2006
Thực hiện năm 2007
1
Hàng bao
241.250
259.361
272.557
2
Hàng xá
328.799
191.803
427.957
3
Container
159.238
158.422
198.206
4
Gỗ
56.927
167.428
137.496
5
Hàng bó, hàng kiện
28.113
44.326
217.683
6
Hàng khác
65.059
54.191
52.053
Tổng cộng
879.386
875.531
1.305.952
( Nguồn: Phòng kế họach và đầu tư)
Bảng 11: BẢNG ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN SẢN LƯỢNG CỦA CẢNG CẦN THƠ THEO LOẠI HÀNG NĂM 2005 – 2007.
S
T
T
Loại hàng
Chênh lệch năm 2006 so với năm 2005
Chênh lệch năm 2007 so với năm 2006
Số tuyệt đối (tấn)
Số tương đối (%)
Số tuyệt đối (tấn)
Số tương đối (%)
1
Hàng bao
18.111
7,51
13.196
5,09
2
Hàng xá
-136.996
-41,67
236.154
123,12
3
Container
-816
-0,51
39.784
25,11
4
Gỗ
110.501
194,11
-29.932
-17,88
5
Hàng bó, hàng kiện
16.213
57,67
173.357
391,10
6
Hàng khác
-10.868
-16,70
-2.138
-3,95
Tổng cộng
-3.855
-0,44
430.421
49,16
4.3.2.Phân tích tình hình của từng chỉ tiêu loại hàng.
Hàng bao
Hàng bao là loại hàng hoá được đựng trong bao.
Hàng bao là loại hàng tăng đều qua các năm ít có sự biến động, chiếm tỷ trọng lớn trong loại hàng bao là lương thực và xi măng.
Sản lượng hàng bao năm 2006 đạt 107,51 % tăng 7,51 % so với năm 2005, số tuyệt đối là tăng 18.111tấn. Nguyên nhân là sản lượng xi măng, phân bón tăng lên đáng kể trong năm 2006 so với năm 2005 nhưng do sản lượng lương thực trong năm 2006 giảm đáng kể so với năm 2005 nên sản lượng loại hàng bao có tăng nhưng không đáng kể.
Sản lượng hàng bao năm 2007 đạt 105,09% tăng 5,09% so với sản lượng hàng bao năm 2006 số tuyệt đối là tăng 13.196 tấn. Nguyên nhân là do sản lượng lương thực, thức ăn gia súc tăng lên đáng kể nhưng do sản lượng xi măng giảm đáng kể nên sản lượng loại hàng bao năm 2007 có tăng so với năm 2006 nhưng không đáng kể.
Hàng xá
Hàng xá là các mặt hàng bao gồm than đá, clinker, bã đậu nành, cát vàng xuất khẩu, thạch cao.
Sản lượng hàng xá năm 2006 đạt 58,33% giảm 41,67 % so với sản lượng hàng xá năm 2005, số tuyệt đối là giảm 136.996 tấn . Nguyên nhân sản lượng hàng xá năm 2006 giảm mạnh so với năm 2005 là do các mặt hàng than đá, clinker giảm mạnh, tuy các mặt hàng khác có tăng nhưng không đáng kể dẫn đến sản lượng theo loại hàng xá năm 2006 giảm mạnh so với năm 2005.
Sản lượng hàng xá năm 2007 đạt 223,12 % so với sản lượng hàng xá năm 2006 tăng 123,12 %, số tuyệt đối là tăng 236.154 tấn. Nguyên nhân là do sản lượng cát xuất khẩu và thạch cao tăng mạnh tuy sản lượng than đá có giảm nhưng giảm nhẹ nên sản lượng hàng xá năm 2007 tăng mạnh so với năm 2006 và kế hoạch đã đề ra.
Container
Sản lượng hàng container năm 2006 đạt 9,49 %, giảm 0,51 % so với sản lượng hàng container năm 2005, số tuyệt đối là giảm 816 tấn.
Sản lượng hàng container năm 2007 đạt 125,11 % tăng 25,11 % so với sản lượng hàng contianer năm 2006, số tuyệt đối là tăng 39.784 tấn.
Tóm lại, sản lượng hàng container qua các năm 2005 đến 2007 ít có biến động, giảm nhẹ năm 2006 so với sản lượng hàng container năm 2005 nhưng sản lượng hàng container năm 2007 tăng cao hơn so với sản lượng hàng container năm 2006. Theo xu hướng vận tải của thế giới là những loại tàu lớn, có nhu cầu sử dụng bến container và cần những phương tiện bốc xếp hiện đại, đó là xu hướng chung của vận tải thế giới, Cảng Cần Thơ đã nhìn thấy xu hướng phát triển vận tải của thế giới trong hiện tại cũng như trong tương lai nhưng hiện tại Cảng Cần Thơ không thể đáp ứng được nhu cầu của vận tải thế giới. Hiện tại Cảng Cần Thơ tiếp tục đầu tư vào hệ thống kho bãi và phương tiện để bốc xếp hàng container phục vụ khu công nghiệp Trà Nóc 1,2, cùng với hàng hoá nông sản của cảng sau này. Khi luồng Định An được được khai thông, mở luồng mới Quan Bố Chánh tạo đà cho đồng bằng sông Cửu Long phát triển. Mặt hàng container là một trong những mục tiêu mà Cảng Cần Thơ được hướng phát triển xây dựng các bãi nhà kho chứa các hàng container, mua sắm trang thiết bị để phục vụ nhu cầu ngày càng tốt hơn của xã hội, hàng container có nhiều loại khác nhau tuy nhiên đồng bằng sông Cửu Long là nuôi trồng và xuất khẩu thuỷ hải sản lớn của nước ta, nhu cầu về hàng đông lạnh cũng tăng cao. Container là một trong những phương tiện vận chuyển đạt hiệu quả cao nhất, được hầu hết các công ty thuỷ hải sản hay các công ty khác sử dụng vận chuyển qua các cảng trước khi xuất khẩu sang nước ngoài. Mặt khác, Cảng Cần Thơ có vị trí địa lý thuận lợi nằm kế khu công nghiệp Trà Nóc, các nhà máy chế biến thuỷ hải sản như Nam Hải, … vận chuyển hàng hoá đông lạnh chủ yếu là qua Cảng Cần Thơ.
Xuất nhập khẩu hàng hoá bằng container của các doanh nghiệp tại khu công nghiệp Trà Nóc đều phải kéo container về Cảng Cần Thơ từ đó được xếp lên tàu về cảng Sai Gòn để kết nối tiếp lên tàu mẹ. Tuy nhiên có một khó khăn khách quan rất lớn cản trở công việc lưu thông hàng hoá của các nhà máy trên khu công nghiệp Trà Nóc cũng như là một nguyên nhân làm giảm sản lượng hàng container hiện nay của Cảng Cần Thơ đó là sức chịu trọng tải của cầu Trà Nóc thấp, không đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hoá đông lạnh của các nhà máy đến Cảng Cần Thơ. Điều này không những ảnh hưởng đến sản lượng thực hiện của cảng Cần Thơ mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến các doanh nghiệp, làm tăng chi phí vận chuyển hàng hoá khi phải chia nhỏ hàng hoá ra, làm giảm chất lượng hàng hoá sản phẩm nhất là sản phẩm đông lạnh. Vì vậy việc sửa chữa cơ sở hạ tầng giao thông là rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế vùng.
Bảng 12: BẢNG BÁO CÁO CONTAINER HÃNG TÀU NĂM 2005 – 2007
Đơn vị tính: cont
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Loại container
20’
40’
20’
40’
20’
40’
Nhập
6.303
6.198
7.883
Có hàng
1.996
1.032
2.381
700
3.140
1.123
Rỗng
1.584
1.535
1.608
1.407
1.863
1.580
Đông lạnh
35
121
29
73
77
100
Xuất
6.570
6.375
7.676
Có hàng
880
283
992
217
1.172
164
Rỗng
2.155
1.268
2.277
927
2.939
1.268
Đông lạnh
726
1.258
762
1.200
795
1.338
Tổng cộng
12.873
12.573
15.559
( Nguồn: Phòng kế hoạch và đầu tư)
Qua bảng báo cáo ta thấy sản lượng hàng container ra vào cảng năm 2005 - 2007 giảm nhẹ năm 2006, nhưng tăng mạnh năm 2007. Điều này cho thấy Cảng Cần Thơ tuy không khai thác hết công suất nhưng cũng đang trong xu thế chung của vận tải Việt Nam nói chung và của đồng bằng sông Cửu Long nói chung.
Gỗ
Sản lượng gỗ năm 2006 đạt 294,11 % tăng 194,11%, tăng vọt so với năm 2005, số tuyệt đối là 110.501 tấn. Nguyên nhân sản lượng gỗ năm 2006 tăng vọt so với năm 2005 là do sản lượng gỗ nhập ngoại tăng mạnh trong năm 2006.
Sản lượng gỗ năm 2007 đạt 82,12 % giảm 17,88 % so với năm 2006, số tuyệt đối là giảm 29.932 tấn là do sản lượng gỗ nhập ngoại năm 2007 giảm so với năm 2006.
Hàng bó, hàng kiện
Hàng bó, hàng kiện bao gồm các mặt hàng: sắt xây dựng, gỗ tràm xuất khẩu, gạch tàu, bia.
Sản lượng hàng bó, hàng kiện năm 2006 đạt 157,67 % so với năm 2005 tăng 57,67 %, số tuyệt đối là tăng 16.213 tấn. Nguyên nhân là do lượng sắt thép năm 2006 tăng mạnh so với năm 2005.
Sản lượng hàng bó, hàng kiện năm 2007 đạt 491,1 % tăng 391,1% so với năm 2006, số tuyệt đối là tăng 173.357tấn. Nguyên nhân tăng mạnh của mặt hàng trên là do sản lượng gỗ tràm xuất khẩu tăng mạnh, tuy mặt hàng sắt xây dựng có giảm nhưng không đáng kể nên sản lượng hàng bó, hàng kiện năm 2007 tăng vọt.
Hàng khác
Sản lượng các loại hàng khác có giảm nhưng hàng khác là các mặt hàng có đóng góp cho quá trình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ nhưng sự đóng góp đó không đáng kể trong tổng sản lượng mà cảng đạt được nên sự tăng giảm của các loại hàng khác cũng không ảnh hưởng lớn đến tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ.
Bảng 13: BẢNG ĐÁNH GIÁ TỶ LỆ ĐÓNG GÓP CỦA TỪNG LOẠI HÀNG TRONG TỔNG SẢN LƯỢNG HÀNG HOÁ CỦA
CẢNG CẦN THƠ NĂM 2005 - 2007
S
T
T
Loại hàng
Thực hiện năm 2005
Thực hiện năm 2006
Thực hiện năm 2007
Sản lượng (tấn)
Tỷ trọng (%)
Sản lượng (tấn)
Tỷ trọng (%)
Sản lượng (tấn)
Tỷ trọng (%)
1
Hàng bao
241.250
27,43
259.361
29,62
272.557
20,87
2
Hàng xá
328.799
37,39
191.803
21,91
427.957
32,77
3
Container
159.238
18,11
158.422
18,09
198.206
15,18
4
Gỗ
56.927
6,47
167.428
19,12
137.496
10,53
5
Hàng bó, hàng kiện
28.113
3,20
44.326
5,06
217.683
16,67
6
Hàng khác
65.059
7,40
54.191
6,20
52.053
3,98
Tổng cộng
879.386
100
875.531
100
1.305.952
100
Biểu đồ đánh giá sự đóng góp của từng loại hàng trong cơ cấu tổng sản lượng hàng hoá thông qua của Cảng Cần Thơ qua các năm 2005 - 2007
Qua biểu đồ đánh giá sự đóng góp của từng loại hàng trong cơ cấu tổng sản lượng hàng hoá thông qua của Cảng Cần Thơ qua các năm 2005 – 2007 ta thấy có sự chuyển dịch cơ cấu giữa các loại hàng.
Năm 2005 tỷ lệ đóng góp cao nhất trong tổng sản lượng thông qua năm 2005 cảu Cảng Cần Thơ là loại hàng xá, sau đó là hàng bao, hàng container, các loại hàng khác, gỗ và hàng bó hàng kiện.
Năm 2006 tỷ lệ đóng góp cao nhất trong tổng sản lượng thông qua năm 2006 của Cảng Cần Thơ là loại hàng bao, tiếp đến là hàng xá, hàng container, hàng gỗ, các loại hàng khác và hàng bó hàng kiện.
Năm 2007 tỷ lệ đóng góp cao nhất trong tổng sản lượng thông qua năm 20067 của Cảng Cần Thơ là loại hàng xá, hàng bao, hàng bó hàng kiện, hàng container, gỗ, và các loại hàng khác.
Qua chuyển dịch cơ cấu về sự đóng góp từng loại hàng trong tổng sản lượng hàng hoá thông qua của Cảng Cần Thơ qua các năm, rõ nhất là năm 2007 cho thấy Cảng Cần Thơ đã có sự chuyển tuy Cảng Cần Thơ có tìm thêm nguồn hàng mới, đa dạng hoá sản phẩm nhưng Cảng Cần Thơ vẫn không ngừng hướng chú trọng vào các mặt hàng chủ yếu. Mua sắm trang thiết bị xếp dỡ, kho bãi phù hợp với các loại hàng chủ yếu đáp ứng và thoã mãn tốt nhu cầu của khách hàng, làm hài lòng khách hàng khi hàng hoá của họ thông qua Cảng Cần Thơ.
Bảng 14: BẢNG ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH THEO TỪNG LOẠI HÀNG CỦA CẢNG CẦN THƠ NĂM 2005 - 2007
S
T
T
Loại hàng
Kế hoạch năm 2007
Thực hiện năm 2007
Chênh lệch thực hiện so với kế hoạch năm 2007
Số tương đối nhiệm vụ kế hoạch
(%)
Số tương đối hoàn thành kế hoạch
(%)
Số tuyệt đối (tấn)
Số tương đối (%)
1
Hàng bao
238.500
272.557
34.057
14,23
91,96
114,28
2
Hàng xá
203.500
427.957
224.457
110,30
106,10
210,30
3
Container
178.000
198.206
20.206
11,35
112,36
111,35
4
Gỗ
150.000
137.496
-12.504
-8,34
89,59
91,66
5
Hàng bó, hàng kiện
33.000
217.683
184.683
559,65
74,45
659,65
6
Hàng khác
47.000
52.053
5.053
10,75
86,73
110,75
Tổng cộng
850.000
1.305.952
455.952
53,64
97,08
153,64
Sản lượng loại hàng bao năm 2007 đạt 114,23 % vượt 14,23 % so với kế hoạch đã đề ra, số tuyệt đối là vượt 34.057 tấn.
Sản lượng loại hàng xá năm 2007 đạt 210,3 % vượt 110,3 % so với kế hoạch đã đề ra, số tuyệt đối là vượt 224.457 tấn
Sản lượng loại hàng container năm 2007 đạt 111,35 % vượt 11,35 % so với kế hoạch đã đề ra, số tuyệt đối là vượt 20.206 tấn.
Sản lượng loại hàng bó, hàng kiện năm 2007 tăng đáng kể đạt 659,65 % tăng 559,65 %, số tuyệt đối là vượt 184.683 tấn.
Sản lượng của các loại hàng khác năm 2007 đạt 110,75 % vượt 10,75 % so với kế hoạch đã đề ra, số tuyệt đối là vượt 5.053 tấn.
Số tương đối nhiệm vụ kế hoạch đề ra cho năm 2007 tương đối thấp đa số các loại hàng trong kế hoạch như hàng bao, hàng gỗ, hàng bó, hàng kiện, hàng khác năm 2007 đưa ra đều thấp hơn sản lượng thực hiện năm 2006, chỉ có hàng xá và hàng container theo kế hoạch đã đề ra cho năm 2007 là tăng lên so với sản lượng thực hiện năm 2006.
Nhìn chung, năm 2007 Cảng Cần Thơ đã không những hoàn thành kế hoạch đã đề ra theo loại hàng mà còn vượt mức kế hoạch sản lượng đã đề ra, vượt cao so với kế hoạch đặc biệt là loại hàng bó, hàng kiện vựơt 559,65 %. Nguyên nhân là do sản lượng gỗ tràm xuất khẩu năm 2007 là loại hàng mới mà Cảng Cần Thơ đã khai thác được, nên sản lượng tràm xuất khẩu Cảng Cần Thơ không đưa ra trong kế hoạch thực hiện. Như vậy cho thấy sự cố gắng nỗ lực của Cảng Cần Thơ trong việc tìm nguồn hàng và khách hàng mới cho cảng.
4.4. Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ theo mặt hàng
4.4.1. Ý nghĩa và mục đích
4.4.1.1. Ý nghĩa
Mặt hàng là sự đóng góp của từng loại sản phẩm vào tổng sản lượng của Cảng Cần Thơ. Phân tích sự biến động, thay đổi sản lượng của từng mặt hàng riêng biệt cho phép ta đánh giá một cách cụ thể hơn, chính xác hơn, xác định nguyên nhân tăng giảm rõ ràng hơn.
Từng mặt hàng khác nhau sẽ có phương án bảo quản, dự trữ và vận chuyển khác nhau.
Mỗi mặt hàng có những đặc điểm, tính chất riêng biệt, theo mùa vụ như lương thực,…. Một số mặt hàng theo những chiều hàng nhất định như lương thực theo chiều hàng là xuất ngoại, xuất nội; còn clinker thì theo chiều nhập ngoại, nhập nội.
4.4.1.2. Mục đích
Đánh giá sự biến động của từng mặt hàng từ đó tìm ra nguyên nhân của sự biến động đó và đưa ra biện pháp để khắc phục.
Bảng 15: BẢNG BÁO CÁO TÌNH HÌNH THỰC HIỆN SẢN LƯỢNG THEO MẶT HÀNG CỦA CẢNG CẦN THƠ NĂM 2005-2007
Đơn vị tính: Tấn
S
T
T
Mặt hàng
Thực hiện
năm 2005
Thực hiện
năm 2006
Thực hiện
năm 2007
1
Lương thực
105.802
72.437
112.377
2
Xi măng
81.842
134.444
112.036
3
Than đá
130.852
84.544
77.837
4
Gỗ tràm xuất khẩu
-
-
130.000
5
Thạch cao
53.502
59.262
62.111
6
Phân bón
13.938
21.350
-
7
Gỗ
56.927
169.018
286.350
8
Container
159.238
158.422
198.206
9
Đưòng
16.231
3.418
-
10
Sắt thép
28.113
34.848
61.502
11
Bột mì
7.853
5.974
7.428
12
Clinker
144.445
47.997
39.271
13
Thức ăn gia súc
15.584
17.669
37.934
14
Đá, cát
21.670
24.835
271.386
15
Nhựa đường
16.441
13.096
12.359
16
Hàng khác
26.948
28.217
27.155
Tổng cộng
879.386
875.531
1.305.952
( Nguồn: Phòng kế họach và đầu tư)
4.4.2. Phân tích tình hình của từng chỉ tiêu mặt hàng.
Bảng 16: BẢNG ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN SẢN LƯỢNG THEO MẶT HÀNG CỦA CẢNG CẦN THƠ NĂM 2005 -2007.
S
T
T
Mặt hàng
Chênh lệch năm 2006 so với năm 2005
Chênh lệch năm 2007 so với năm 2006
Số tuyệt đối (tấn)
Số tương đối (%)
Số tuyệt đối (tấn)
Số tương đối (%)
1
Lương thực
-33.365
-31,54
39.940
55,14
2
Xi măng
52.602
64,27
-22.408
-16,67
3
Than đá
-46.308
-35,39
-6.707
-7,93
4
Gỗ tràm xuất khẩu
-
-
130.000
-
5
Thạch cao
5.760
10,77
2.849
4,81
6
Phân bón
7.412
53,18
-21.350
-100,00
7
Gỗ
112.091
196,90
117.332
69,42
8
Container
-816
-0,51
39.784
25,11
9
Đường
-12.813
-78,94
-3.418
-100,00
10
Sắt thép
6.735
23,96
26.654
76,49
11
Bột mì
-1.879
-23,93
1.454
24,34
12
Clinker
-96.448
-66,77
-8.726
-18,18
13
Thức ăn gia súc
2.085
13,38
20.265
114,69
14
Đá, cát
3.165
14,61
246.551
992,76
15
Nhựa đường
-3.345
-20,35
-737
-5,63
16
Hàng khác
1.269
4,71
-1.062
-3,76
Tổng cộng
-3.855
-0,44
430.421
49,16
Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa chiếm khoảng 90% sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Năm 2005, cả nước xuất khẩu khoảng 4,9 triệu tấn gạo (theo tổng cục thống kê) như vậy đồng bằng sông Cửu Long xuất khẩu khoảng 4,41 triệu tấn gạo trong đó sản lượng gạo qua Cảng Cần Thơ đạt 105.802 tấn chiếm khoảng 2,4 % trong tổng sản lượng gạo xuất khẩu của đồng bằng sông Cửu Long. Chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong khi Cảng Cần Thơ là cảng lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long.
Sản lượng lương thực năm 2006 đạt 68,46% giảm 31,54% so với năm 2005, số tuyệt đối giảm 33.365 tấn. Nguyên nhân là do sản lượng lương thực xuất ngoại và xuất nội đều giảm. Mặt khác do chia thị phần gạo với cảng lương thực Trà Nóc.
Sản lượng gạo của năm 2005, Việt Nam đã xuất khẩu được 4,9 triệu tấn gạo, nhưng vì để đảm bảo an ninh lương thực của quốc gia do bão lụt làm mất mùa các tỉnh miền bắc và miền trung. Mặt khác, năm 2006 sản lượng lương thực cả nứơc đạt khoảng 36,2 triệu tấn tăng khoảng 400.000 tấn so với năm 2005. Năm 2006 là năm được mùa đối với các tỉnh đồng bằng sông Hồng và miền trung, các tỉnh Tây Nguyên nhưng là năm khó khăn đối với các tỉnh miền nam do ảnh hưởng của rầy nâu, bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá. Sản lượng lúa năm 2006 của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đạt khoảng 18,45 triệu tấn, giảm gần 660.000 tấn so với năm 2005 (theo bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn), mà sản lượng lương thực của đồng bằng sông Cửu Long chiếm 90% sản lượng gạo xuất khẩu nên sản lượng gạo của đồng bằng sông Cửu Long giảm, từ những ảnh hưởng nêu trên đã làm ảnh hưởng giảm sản lượng gạo xuất khẩu của đồng bằng sông Cửu Long nên sản lượng lương thực thông qua cảng năm 2006 cũng giảm theo so với năm 2005.
Sản lượng lương thực năm 2007 đạt 155,14 % tăng 55,14 % so với sản lượng lương thực năm 2006, số tuyệt đối tăng 39.940 tấn. Nguyên nhân là do sản lượng lương thực xuất nội tăng tuy sản lượng lương thực xuất ngoại giảm nhưng sản lượng lương thực xuất nội tăng nhiều hơn nên sản lượng lương thực thông qua Cảng Cần Thơ năm 2007 tăng so với năm 2006.
Năm 2007 sản lượng gạo xuất khẩu cả nước đạt khoảng 4,37 triệu tấn (theo hiệp hội lương thực Việt Nam), đồng bằng sông Cửu Long chiếm khoảng 3,93 triệu tấn. sản lượng lương thực thông qua Cảng Cần Thơ đạt 112.377 tấn chiếm 3,11 % vẫn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng sản lượng xuất khẩu nhưng tỷ lệ này đã tăng lên so với năm 2005 và năm 2006. Sản lượng lương thực năm 2007 tăng lên là do nhà nước đã kiểm soát được tình hình dịch, sâu bệnh nên sản lượng lúa tăng lên. Tuy nhiên để đảm bảo an ninh lương thực trong năm 2008, sản lượng lương thức xuất khẩu ở nước ta có thể giảm so với năm 2007 dẫn đến sản lượng lương thực thông qua cảng trong năm 2008 cũng có thể giảm theo, vì đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất nước ta.
Sản lượng mặt hàng xi măng năm 2006 đạt 164,27 % tăng 64,27% so với sản lượng xi măng năm 2005, số tuyệt đối là tăng 52.602 tấn. Nguyên nhân là do sản lượng xi măng xuất nội và sản lượng xi măng nhập nội thông qua cảng Cần Thơ đều tăng trong năm 2006 so với sản lượng xi măng thông qua Cảng Cần Thơ năm 2005.
Sản lượng mặt hàng xi măng năm 2007 đạt 83,33 % giảm 16,67 %, số tuyệt đối giảm 22.408 tấn so với sản lượng mặt hàng xi măng thông qua Cảng Cần Thơ năm 2006. Nguyên nhân là do sản lượng hàng hóa xi măng xuất nội và nhập nội thông qua Cảng Cần Thơ đều giảm so với sản lượng hàng hoá xi măng thông qua Cảng Cần Thơ năm 2006.
Sản lượng của mặt hàng sắt thép, đá cát, tăng là do nhu cầu xây dựng tăng, Cảng Cần Thơ đã xây dựng chặt chẽ với các cảng khác trong khu vực. Do đó, nhiều lô hàng thuộc dạng siêu trường, siêu trọng phục vụ các công trình trọng điểm của vùng như cầu Cần Thơ, cụm khí điện đạm Cà Mau …. đều tập trung về Cảng Cần Thơ nên sản lượng sắt thép, đá cát thông qua Cảng Cần Thơ đều tăng qua các năm từ năm 2005 đến năm 2007.
Sản lượng mặt hàng gỗ năm 2006 đạt 296,9 %, tăng 196,9%, số tuyệt đối là tăng 112.091 tấn so với sản lượng gỗ thông qua Cảng Cần Thơ năm 2005.
Sản lượng mặt hàng gỗ năm 2007 đạt 169,42% tăng 69,42 %, số tuyệt đối là tăng 117.332 tấn so với sản lượng gỗ thông qua Cảng Cần Thơ năm 2006.
Sản lượng gỗ tràm xuất khẩu là mặt hàng mới mà Cảng Cần Thơ đã khai thác được.
Mặt hàng gỗ tăng qua các năm do sản lượng gỗ xuất khẩu tăng, sản lượng gỗ xuất khẩu chủ yếu sang Trung Quốc. Ngoài ra gỗ tràm xuất khẩu cũng tăng mạnh do cây tràm của đồng bằng sông Cửu Long đã tìm được nơi tiêu thụ, cây tràm thân nhẹ nên mớn nước vẫn thấp, dễ ra vào nên các doanh nghiệp Trung Quốc chọn Cảng Cần Thơ làm nơi thu mua cây tràm của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Sản lượng hàng hoá container năm 2006 đạt 99,49 % giảm 0,51 %, số tuyệt đối là giảm 816 tấn giảm nhẹ vào năm 2006 nhưng tăng lên vào năm 2007. Sản lượng hàng hóa container năm 2007 đạt 125,11%, tăng 25,11% số tuyệt đối là tăng 39.784 tấn so với sản lượng hàng container thông qua Cảng Cần Thơ năm 2006. Nguyên nhân có nhiều yếu tố khách quan tuy nhiên do Cảng Cần Thơ có vị trí chiến lược gần các khu công nghiệp Trà Nóc 1,2. Các công ty chế biến thuỷ hải sản đông lạnh phần lớn đều vận chuyển hàng hoá qua Cảng Cần Thơ để xuất khẩu.
Tuy nhiên do hạn chế về trọng tải của cầu Trà Nóc nên cũng làm giảm đáng kể sản lượng hàng container đến Cảng Cần Thơ. Mặc khác, cảng Mỹ Thới – An Giang đã mở tuyến container đi thành phố Hồ Chí Minh, đã chia sẽ gần 50 thị phần công tác xếp dỡ của Cảng Cần Thơ.
Mặt hàng clinker giảm qua các năm là do các công ty xi măng trong nước dần tự chế được clinker, tự cung cấp clinker để sản xuất xi măng nên lượng xi măng nhập khẩu giảm đáng kể.
Sản lượng mặt hàng than đá giảm đáng kể qua các năm 2005, năm 2006, năm 2007 là do sản lượng mặt hàng than đá xuất nội và nhập nội trong sản lượng than đá thông qua Cảng Cần Thơ qua các năm 2005, năm 2006, năm 2007 giảm.
Sản lượng các mặt hàng khác tăng giảm qua các năm, có ảnh hưởng đến việc thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ nhưng không đáng kể.
4.5. Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của cảng Cần Thơ theo thời gian
Bảng 17: BẢNG BÁO CÁO TÌNH HÌNH THỰC HIỆN SẢN LƯỢNG THEO THỜI GIAN CỦA CẢNG CẦN THƠ NĂM 2007.
Đơn vị tính: Tấn
Năm
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Quí I
230.356
200.564
212.729
Quí II
244.265
223.922
421.660
Quí III
203.493
224.731
348.476
Quí IV
201.263
226.314
323.087
Tổng cộng
879.368
875.531
1.305.952
( Nguồn: Phòng kế họach và đầu tư)
4.5.1. Phân tích tình hình sản lượng của Cảng Cần Thơ theo từng quý năm 2007.
Sản lượng hàng hoá năm 2007 quí I là sản lượng đạt thấp nhất, đến quí II sản lượng đạt cao nhất trong năm, đến quí III và quí IV thì sản lượng giảm dần nguyên nhân là do hoạt động cảng biển phụ thuộc nhiều vào thời tiết, mùa vụ của các laọi hàng hoá thông qua cảng, đặc biệt là phụ thuộc rất lớn vào dòng chảy, thuỷ triều của luồng vào cảng.
Nhìn chung sản lượng c
ủa Cảng Cần Thơ giảm vào năm 2006 so với năm 2005 nhưng tăng mạnh vào năm 2007. Nguyên nhân là do Cảng Cần Thơ đầu tư vào trang thiết bị hợp lý đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, có vị trí địa lý thuận lợi. Ngoài ra thương hiệu của cảng Cần Thơ ngày càng được khách hàng tin tưởng. Cảng Cần Thơ còn xây dựng một hệ thống khách hàng thân thiết, lâu dài bằng cách ký hợp đồng bốc xếp với đối tác trong thời gian 5 năm với điều kiện giá thành bốc xếp không đổi, được ưu tiên khi tàu cập cảng bù lại chủ hàng phải ứng tiền trước.
4.6. Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ theo phương án xếp dỡ
Bảng 18: BẢNG BÁO CÁO PHƯƠNG ÁN BỐC XẾP CỦA
CẢNG CẦN THƠ NĂM 2007
Đơn vị tính: Tấn
Phương án xếp dõ
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
1
Cẩu tàu
-
171.402
111.323
2
Cẩu cảng
-
693.508
1.184.701
3
Tàu tự bơm
-
10.621
9.928
Tổng cộng
-
879.386
875.531
1,305,952
4
Cầu
519.515
554.579
775.736
5
Phao
359.871
320.952
530.216
( Nguồn: Phòng kế họach và đầu tư)
Dựa vào phương án xếp dỡ ta thấy Cảng Cần Thơ chủ yếu dựa vào cẩu cảng, cẩu tàu cũng chiếm một phần nhưng nhỏ, hệ thống tàu tự bơm rất thấp. Hệ thống cầu phao cũng không có biến động nhiều. Nhìn chung, Cảng Cần Thơ đã nhìn thấy rõ phương án xếp dỡ chủ yếu của cảng nên đã đầu tư trang thiết bị khá đầy đủ cho hoạt động này.
Tóm lại, với trang thiết bị kỹ thuật hiện có Cảng Cần Thơ đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khác hàng, ngoài ra Cảng Cần Thơ còn hợp tác ký hợp đồng lâu dài với các khách hàng, hợp tác bốc xếp với cảng Cái Cui. tổ cẩu bờ và cẩu tàu của Cảng Cần Thơ đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Nhìn chung, thông qua quá trình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ ta nhận thấy Cảng Cần Thơ ngày càng hoạt động có hiệu quả, có các chính sách như khách hàng thân thiết vừa đảm bảo nguồn sản lượng cho Cảng Cần Thơ trong thời gian tới, vừa ứng được tiền trước để mua sắm trang thiết bị hiện tại phục vụ nhu cầu sản xuất, đáp ứng nhu cầu cao của khách hàng. Mặt khác Cảng Cần Thơ cũng thực thi chế độ thực hành tiết kiệm, tránh lãng phí, xây dựng kế hoạch thu chi cụ thể, đảm bảo chủ động trong các khoản thu chi, hạch toán kinh doanh có hiệu quả.
Cảng Cần Thơ năm ở vị trí tương đối thuận lợi trong việc lưu thông tuy nhiên do những điều kiện khách quan nên cảng Cần Thơ không thể hoạt động hết công suất của mình, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật để đáp ứng cho tàu có trọng tải lớn cập bến, nhưng do luồng cửa Định An bị bồi lắng nên tàu lớn không thể cập cảng được nhưng không vì vậy mà cảng Cần Thơ đứng im, cảng Cần Thơ đã chủ động tìm nguồn hàng mới, khách hàng mới đồng thời cũng xây dựng kế hoạch phát triển khi luồng Định An được khai thông hay kênh Quan Chánh Bố được thành lập, tạo luồng vào cho tàu có trọng tải lớn cập cảng .
Mặt khác cơ sở hạ tầng, giao thông chưa đủ để đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá của các công ty đến cảng nên cũng gây khó khăn cho hoạt động của cảng, làm giảm lượng hàng hoá đến cảng..
5.2. Kiến nghị
Đối với Nhà Nước
Nhà nước cần phải có sự quản lý chặt chẽ của hoạt động vận tải cũng như hoạt động cảng biển tạo nên một sự cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động của các cảng biển.
Nâng cấp và sữa chữa cơ sở hạ tầng giao thông hiện có (hiện tại là cầu Trà Nóc) để góp phần thu hút nguồn đầu tư của nước ngoài, hạ giá thành sản phẩm do chi phí vận chuyển thấp khi cơ sở hạ tầng đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Giao thông thuận lợi sẽ giảm giá thành sản phẩm, làm cho sản phẩm của chúng ta cạnh trạnh hơn trên thị trường trong nước với các hàng hoá nước ngoài nhậpvào, đồng thời cũng cạnh trạnh sản phẩm của mình trên thị trường thế giới.
Một vấn đề cấp thiết là nhà nước cần phải khai thông luồng vào các cảng biển ở đồng bằng sông Cửu Long bằng cách khai thông luồng Định An hay xẻ kênh Quan Chánh Bố nhưng mở kênh Quan Chánh Bố cần phải mất một khoảng thời gian. Hiện tại các cảng ở đồng bằng sông Cửu Long nói chung và Cảng Cần Thơ nói riêng không hoạt động hết công suất, một phần lớn là do công suất thiết kế cho tàu coá trọng tải lớn cập cảng nhưng do luồng vào cảng cạn nên tàu có trọng tải lớn không thể vào cảng. Điều này làm cho các cảng ở đồng bằng sông Cửu Long lãng phí một phần công suất thiết kế, còn các cảng như cảng Sài Gòn, cảng Vũng Tàu,… thì lại bị quá tải, mặt khác việc vận chuyển hàng hoá lên cảng Sài Gòn cũng làm cho hệ thống giao thông đường bộ lên thành phố Hồ Chí Minh bị quá tải. Làm tăng chi phí vận chuyển, tốn nhiều thời gian làm ảnh hưởng đến chất lượng hàng hoá, uy tín của các doanh nghiệp, làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá.
Đất nước chúng ta đang trong thời kỳ hội nhập nên cơ sở hạ tầng giao thông rất quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước vươn mình ra thế giới.
Sự quản lý chặt chẽ của Nhà Nước tạo nên một sự cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động của các cảng biển.
Giao thông thuận lợi sẽ giảm giá thành sản phẩm, làm cho sản phẩm của chúng ta cạnh trạnh hơn trên thị trường trong nước với các hàng hoá nước ngoài nhậpvào, đồng thời cũng cạnh trạnh sản phẩm của mình trên thị trường thế giới.
Kiến nghị đối với Cảng Cần Thơ
Cảng Cần Thơ cần phải tăng năng suất, cải tiến chất lượng hàng hoá phục vụ tốt hơn nữa
Sử dụng các biện pháp tiếp thị thực tế để giữ khách hàng hiện tại, nhưng cũng không ngừng tìm kiếm khách hàng mới.
Ra sức tìm kiếm nguồn hàng mới, đặc biệt là những nguồn hàng có khả năng khắc phục hạn chế sự bồi lắng luồng Định An
Liên kết với các cảng khác và các công ty xếp dỡ trong khu vực.
Tìm hiểu thông tin thị trường và xu hướng của thế giới và năng lực hiện có của cảng để đưa ra kế hoạch thực hiện cụ thể và thực tế hơn.
Tiến hành đa dạng hoá sản phẩm
Chủ động, tích cực lắng nghe, thường xuyên lấy ý kiến của khách hàng để phục vụ tốt hơn.
Để Cảng Cần Thơ hoạt động hết công suất đòi hỏi cán bộ công nhân viên phải nỗ lực. Mặt khác nên khai thông luồng Cửa Định An cho tàu nước ngoài có trọng tải lớn vào Cảng Cần Thơ vừ giảm áp lực cho cảng Sài Gòn, vừa tránh lãng phí các công trình, cơ sở hạ tầng đã đầu tư.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quantri39quantri34.tk.doc