I.Khái quát chung
1. Khái niệm
2. Đặc điểm của chính sách tiền tệ
3. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ
3.1. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ
3.2. Tạo việc làm, giảm thất nghiệp
3.3. Tăng trưởng kinh tế
4. Các công cụ của chính sách tiền tệ
4.1. Công cụ tái cấp vốn (Ưu điểm,nhược điểm )
4.2. Công cụ dự trữ bắt buộc
4.3. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
4.4. Công cụ hạn mức tín dụng
4.5. Công cụ lãi suất
4.6. Công cụ tỷ giá
II. Chính sách tiền tệ Việt nam trong thời gian qua
1.Giai đoạn từ năm 1986-2008
1.1.Tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-2008
1.2.Chính sách tiền tệ Việt Nam giai đoạn 1986-2008
1.3. Thực trạng thực hiện chính sách tiền tệ giai đoạn 1986-2008
2. Chính sách tiền tệ giai đoạn 2008-2009
2.1. Tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 2008-2009
2.2. Chính sách tiền tệ giai đoạn 2008-2009
2.4. Hạn chế của chính sách tiền tệ năm 2008-2009
III. Chính sách tiền tệ Việt Nam 6 tháng đầu năm và định hướng cho 6 tháng cuối năm
1. Chính sách tiền tệ Việt Nam 6 tháng đầu năm 2010
1.1. Tình hình kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2010
1.2. Chính sách tiền tệ 6 tháng đầu năm 2010
2.Dự báo tình hình kinh tế Việt Nam và định hướng chính sách tiền tệ 6 tháng cuối năm 2010
2.1. Dự báo tình hình kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm 2010
2.2. Định hướng chính sách tiền tệ Việt Nam 6 tháng cuối năm 2010
20 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1607 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích và đánh giá việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian qua, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gian qua
Giảng viên: Mai Lê Thanh Trúc
Nhóm sinh viên thực hiện:
1.Lê Phạm Ngọc Hoàng Nguyên
2.Phan Thị Thanh Hồng
3.Võ Thị Tuyết Trinh
4.Nguyễn Thị Diệu Quỳnh
5.Tô Thị Thu Trang
6.Trương Thị ThuậnLỜI GIỚI THIỆU
Trên thế giới hiện nay chính sách tiền tệ ngày càng tỏ rõ vai trò quan trọng của mình trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Một chính sách tiền tệ hoàn hảo sẽ giúp cho mỗi quốc gia theo đuổi các mục tiêu kinh tế vĩ mô như ổn định tiền tệ, tạo công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế... một cách có hiệu quả hơn. Mặt khác việc điều hành chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia không chỉ ảnh hưởng tới quốc gia đó mà còn ảnh hưởng theo cơ chế lan truyền tới thị trường tiền tệ thế giới. Việc điều hành và thực thi chính sách tiền tệ là một vấn đề quan trọng trong xây dựng phát triển và hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách của mỗi nước.
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kỳ quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát… Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định.
Đối với nước ta, ngay từ khi chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, Đảng và Nhà nước đã nhận thức được vai trò của chính sách tiền tệ trong phát triển kinh tế. Vì vậy ngay từ những ngày đầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chú trọng trong việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ sao cho phù hợp với nền kinh tế. Việt Nam đã thu được những kết quả đáng khích lệ như đẩy lùi lạm phát, tạo công ăn việc làm, nâng cao mức sống của người dân... góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của đất nước.
Tuy vậy nền kinh tế thị trường luôn biến động nên các mục tiêu của chính sách tiền tề cũng phải luôn biến đổi theo cho phù hợp với các giai đoạn phát triển của đất nước. Việc xây dựng một chính sách tiền tệ linh hoạt là cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Nhưng trên thực tế chính sách tiền tệ của nước ta sau một thời gian dài thực thi vẫn còn bộc lộ nhiều thiếu sót và hạn chế. Và việc đánh giá lại các chính sách tiền tệ qua từng thời kỳ sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan để tìm ra những thiếu sót và hạn chế đó để khắc phục và xây dựng hoàn thiện chính sách tiền tệ, từ đó giúp nền kinh tế ngày càng phát triển hơn.I.Khái quát chung
Khái niệm
Chính sách tiền tệ là tổng hòa những phương thức mà Ngân hàng trung ương sử dụng nhằm tác động đến lượng tiền cung ứng nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước trong một thời kỳ nhất định.
Có 2 cách thực hiện chính sách tiền tệ là:
+ Chính sách tiền tệ thắt chặt: giảm lượng tiền cung ứng, hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế. Trường hợp này, chính sách tiền tệ nhằm chống lạm phát.
+ Chính sách tiền tệ mở rộng: nhằm tăng lượng tiền cung ứng, khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm. Trong trường hợp này, chính sách tiền tệ nhằm chống suy thoái kinh tế, chống thất nghiệp.
Đặc điểm của chính sách tiền tệ
ò Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống các chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của Chính phủ, nó là tổng hoà các phương thức mà Ngân hàng Trung ương thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước.
òChính sách tiền tệ hay chính sách lưu thông tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của Chính phủ hay Ngân hàng Trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt như: kiềm chế lạm phát; duy trì ổn định tỷ giá hối đoái; đạt được tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các công cụ như nghiệp vụ thị trường mở; quy định các mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối…
òChính sách tiền tệ, một mặt là cung cấp đủ phương tiện thanh toán cho nền kinh tế (lượng tiền cung ứng), mặt khác phải giữ ổn định giá trị đồng bản tệ. Để thực hiện được điều đó, thông thường trên thế giới, việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ được giao cho Ngân hàng Trung ương.
Các mục tiêu của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản, chủ yếu nhất của Ngân hàng Trung ương. Có thể coi chính sách tiền tệ là linh hồn, xuyên suốt trong mọi hoạt động của Ngân hàng Trung ương. Các hoạt động khác của Ngân hàng Trung ương đều nhằm thực thi chính sách tiền tệ đạt được các mục tiêu của nó.
Chính sách tiền tệ cũng như mọi chính sách kinh tế vĩ mô khác đều có mục tiêu riêng của nó, đó là mục tiêu: ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định hệ thống tài chính, thị trường ngoại hối, tăng trưởng kinh tế...
Mỗi quốc gia đều có chính sách tiền tệ riêng, phù hợp với nền kinh tế đặc thù của mình. Nhưng các chính sách tiền tệ đều hướng vào những mục tiêu chủ yếu giống nhau. Tuy nhiên tuỳ từng giai đoạn khác nhau và tuỳ điều kiện thực tế của nền kinh tế để lựa chọn mục tiêu trọng tâm.
Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ
Các nhà kinh tế học cho rằng, lạm phát là căn bệnh kinh niên của nền sản xuất hàng hoá, đặc biệt là nên sản xuất hàng hoá phát triển ở mức độ cao (nền kinh tế thị trường).
Tuỳ theo quan điểm và góc độ nghiên cứu của mình, các nhà kinh tế học đã đưa ra những khái niệm riêng về lạm phát. Tuy nhiên, nhìn chung có thể hiểu: lạm phát là sự gia tăng giá cả trung bình của hàng hoá theo thời gian.
Lạm phát tác động đến nền kinh tế - xã hội theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực.
Khi lạm phát gia tăng, nó tác động đến mọi mặt của nền kinh tế - xã hội, làm sai lệch các chỉ tiêu kinh tế, làm phân phối lại thu nhập; kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hoá, bất động sản, vàng… gây tình trạng khan hiếm hàng hoá giả tạo; giảm sức mua thực tế của dân chúng về hàng hoá tiêu dùng. Do đó, đời sống của người lao động sẽ khó khăn hơn; gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng vì ngân hàng sẽ không thu hút được các nguồn tiền nhàn rỗi cho hoạt động của mình.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác hại mà lạm phát gây ra cho nền kinh tế, trong chừng mực nào đó, với một tỷ lệ lạm phát vừa phải, lạm phát lại là yếu tố để kích thích kinh tế tăng trưởng. Khi đó lạm phát trở thành công cụ điều tiết. Các nhà kinh tế học còn gọi đó là liều thuốc bổ cho tăng trưởng kinh tế. Do vậy, cần chấp nhận sự tồn tại của lạm phát trong nền kinh tế để có những quyết sách kiềm chế chứ không phải là triệt tiêu nó. Vấn đề quan trọng là cần phải kiểm soát được lạm phát, ổn định tiền tệ, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, đảm bảo đời sống cho người lao động… Trách nhiệm này thuộc về chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
3.2. Tạo việc làm, giảm thất nghiệp
Như chúng ta đã biết, ngày nay thất nghiệp là nỗi quan tâm của mọi quốc gia trên thế giới. Việc giảm tỷ lệ thất nghiệp còn đồng nghĩa với việc giữ gìn an ninh trật tự trong xã hội. Nhưng vấn đề đặt ra phải làm sao xác định được một tỷ lệ thất nghiệp cho phù hợp? Theo các nhà kinh tế, chúng ta phải duy trì tỷ lệ thất nghiêp bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Do vậy trong xã hội luôn có người thất nghiệp tự nhiên, tạo ra cơ hội tìm việc làm tốt hơn.
Việc làm cho người lao động cũng là một trong các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Chúng ta cũng đã biết rằng nơi nào sức lao động là hàng hoá thì thất nghiệp là một căn bệnh kinh niên. Để đạt được mục tiêu này, chính sách tiền tệ hướng vào việc khuyến khích đầu tư → gia tăng sản xuất, việc làm sẽ tăng lên; mặt khác, khi các hoạt động kinh tế được mở rộng, sẽ có tác dụng chống suy thoái, nhất là suy thoái chu kỳ, để đạt được mức tăng trưởng ổn định.
Nhìn tổng quát, giữa các mục tiêu vĩ mô: lạm phát, tăng trưởng kinh tế và việc làm có mâu thuẫn đối nghịch nhau, đó là:
Khi kiềm chế được lạm phát thì có nguy cơ tăng trưởng kinh tế giảm, dễ dẫn đến suy thoái và thất nghiệp.
Ngược lại, khi mở rộng đầu tư, khắc phục suy thoái kinh tế, tạo việc làm và khuyến khích tăng trưởng kinh tế thì lại khó kiềm chế được lạm phát.
Rõ ràng công ăn việc làm cao là điều ai cũng mong muốn. Thông qua chính sách tiền tệ có thể tác động đến công ăn việc làm, tức đến tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế. Nếu chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương nhằm mở rộng cung ứng tiền tệ thì tạo điều kiện mở rộng đầu tư sản xuất, các doanh nghiệp và nền kinh tế cần nhiều lao động hơn, công ăn việc làm cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp. Ngược lại, cung ứng tiền tệ giảm xuống sẽ thu hẹp các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp và Nhà nước cần ít lao động hơn, công ăn việc làm giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng.
Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu công ăn việc làm cao không đồng nghĩa với tỷ lệ thất nghiệp bằng không, mà ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Bởi lẽ, trong thực tế có một số người thất nghiệp là có lợi cho nền kinh tế. Đó là khi người lao động quyết định đi tìm một công việc khác tốt hơn, phù hợp hơn, thì người lao động đó bị thất nghiệp trong thời gian đang tìm việc làm. Hoặc một số người lao động tự nguyện rời bỏ công việc của mình để theo đuổi các hoạt động khác như học tập, du lịch… và khi họ quyết định gia nhập trở lại thị trường lao động, họ phải mất một thời gian để tìm đúng công việc mà họ mong muốn. Mặt khác, thông thường để có một tỷ lệ công ăn việc làm cao thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát gia tăng nhất định nào đó. Hai mục tiêu này luôn triệt tiêu nhau trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ.
3.3. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu vĩ mô của bất kỳ một quốc gia nào. Tuy nhiên thực hiện mục tiêu này không có nghĩa là chỉ khuyến kích tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện việc kìm hãm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nếu nền kinh tế phát triển quá nóng. Điều này có nghĩa là mỗi quốc gia phải xác định một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế dự kiến phù hợp với điều kiện nội tại của nền kinh tế nước đó. Trên cơ sở đó, căn cứ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế hiện tại là thấp hay cao để sự điều tiết của chính sách tiền tệ sẽ hướng vào khuyến kích hay kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Trường hợp cần khuyến kích tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng Trung ương sẽ thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng nhằm tăng khối lượng tiền tệ → lãi suất giảm xuống, do vậy sẽ kích thích đầu tư, mở rộng sản xuất, tăng tổng sản phẩm quốc nội. Mặt khác, tăng khối lượng tiền tệ sẽ làm tăng tổng cầu, sức mua hàng hoá trên thị tăng lên, hàng hoá tồn đọng của các doanh nghiệp tiêu thụ được, là tiền đề cho các doanh nghiệp gia tăng sản xuất dẫn đến tổng sản phẩm quốc nội tăng. Nếu mức gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội cao hơn nhịp độ gia tăng dân số thì nền kinh tế sẽ thật sự có tăng trưởng.
Trường hợp cần kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng Trung ương sẽ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ. Khi đó, khối lượng tiền tệ trong lưu thông giảm xuống → lãi suất có xu hướng tăng lên, đồng vốn đầu tư đắt lên → đầu tư giảm, dẫn đến tổng sản phẩm quốc nội giảm xuống. Mặt khác khi giảm khối lượng tiền tệ, sẽ làm giảm tổng cầu, sức mau sẽ giảm, làm tăng hàng hóa tồn đọng của các doanh nghiệp, do đó các doanh nghiệp không có cơ sở để mở rộng sản xuất, vì vậy tổng sản phẩm quốc nội giảm.
Việc gia tăng khối lượng tiền tệ cho nền kinh tế trong thời kỳ đầu thường được các quốc gia sử dụng công cụ hạn mức tín dụng. Nhưng khi nền kinh tế thị trường vận động một cách thuần thục thì việc cung ứng tiền chủ yếu được thực hiện thông qua các công cụ: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất, tỷ giá…
Các nhà kinh tế đã thừa nhận rằng, nền kinh tế thị trường luôn có những thăng trầm, biến động mang tính chu kỳ của nó: Từ tăng trưởng kinh tế quá mức, đến kinh tế phát triển quá nóng dễ dẫn đến lạm phát cao; từ lạm phát cao dễ rơi vào trạng thái ngưng trệ rồi suy thoái kinh tế; một khối lượng tiền tệ cung ứng tăng thêm để cứu vãn tình thế có thể chuyển nền kinh tế sang giai đoạn phục hưng, rồi từ phục hưng lại có khả năng chuyển qua giai đoạn tăng trưởng mạnh…
Vấn đề đặt ra là đối với từng giai đoạn cụ thể, chính sách tiền tệ phải tìm giải pháp để vừa có thể đạt được mục tiêu trọng tâm, vừa dung hoà được các mục tiêu trên.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu, có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau không tách rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên một cách hài hoà thì Ngân hàng Trung ương trong khi thực hiện chính sách tiền tệ cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
Các công cụ của chính sách tiền tệ
Trên cơ sở dự án chính sách tiền tệ đã được phê chuẩn và điều kiện thực tiễn của nền kinh tế, Ngân hàng Trung ương sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để điều tiết lượng tiền cung ứng. Nghĩa là, Ngân hàng Trung ương sẽ thực hiện việc đưa tiền vào lưu thông là thiếu hụt hay dư thừa. Các công cụ mà Ngân hàng Trung ương thường sử dụng là: Tái cấp vốn; Dự trữ bắt buộc; Nghiệp vụ thị trường mở; Hạn mức tín dụng; Lãi suất và Tỷ giá.
4.1. Công cụ tái cấp vốn
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các tổ chức tín dụng. Khi cấp một khoản tín dụng cho tổ chức tín dụng, một mặt, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các tổ chức tín dụng tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực thanh toán cho họ.
Tuỳ từng quốc gia mà công cụ này được áp dụng dưới các hình thức khác nhau. Đối với các nước có nền kinh tế thì trường phát triển, tái cấp vốn được thực hiện dưới hình thức tái chiết khấu. Vì vậy đối với các quốc gia này, công cụ này được gọi là tái chiết khấu. Tại nhiều quốc gia khác, hoạt động tái cấp vốn của Ngân hàng Trung ương đối với các tổ chức tín dụng được thực hiện không chỉ được thực hiện dưới hình thức tái chiết khấu mà còn dưới nhiều hình thức khác nữa, như: Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có gía ngắn hạn khác; Cho vay dưới hình thức cầm cố, thế chấp các chứng từ có giá ngắn hạn; Cho vay trong thanh toán bù trừ; Cho vay theo hình thức chỉ định; Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng.
ìƯu điểm:
Qua công cụ tái cấp vốn, Ngân hàng Trung ương là người cho vay cuối cùng, kiểm tra chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được khống chế để kìm chế lạm phát hoặc kính thích tăng trưởng kinh tế. Đối với các tổ chức tín dụng, với tư cách là người đi vay để cho vay, khi vốn khả dụng bị đe doạ thì Ngân hàng Trung ương là chỗ dựa, là cứu tinh của họ. Bởi vì, với số tiền Ngân hàng Trung ương cung ứng, họ có khả năng điều tiết được vốn khả dụng, phục hồi khả năng sẵn sàng thanh toán.
ìNhược điểm:
Ngân hàng Trung ương không thể nắm chắc được kết quả của sự điều tiết. Trong trường hợp này, quyền lực của Ngân hàng Trung ương và tổ chức tín dụng là ngang nhau. Ngân hàng Trung ương có quyền cho vay và để khuyến khích vay, họ hạ lãi suất tái cấp vốn xuống. Nhưng tổ chức tín dụng lại có quyền quyết định vay hoặc không vay và nếu tổ chức tín dụng không vay thì mục đích điều tiết của công cụ tái cấp vốn không thực hiện được.
4.2. Công cụ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô hiệu hoá trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay) của các tổ chức tín dụng. Nếu khả năng thanh toán quá lớn (tổ chức tín dụng đang dư thừa tiền) thì việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm quy mô tín dụng từ đó giảm khối lượng tiền tệ. Ngược lại, nếu khả năng thanh toán thấp thì giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tăng khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng (bành trướng khối tiền tệ)
ìƯu điểm:
Tác động đầy quyền lực đến lượng tiền cung ứng.
Tạo nên mối quan hệ máy móc giữa tạo tiền do tổ chức tín dụng thực hiện và nhu cầu tái cấp vốn tại Ngân hàng Trung ương.
Tăng cường quyền lực cho Ngân hàng Trung ương vì tuỳ theo mục đích của chính sách tiền tệ và tuỳ theo mức vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Trung ương có quyền điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc và các tổ chức tín dụng có trách nhiệm thực hiện.
Tôn trọng sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng vì nó áp dụng không phân biệt mọi tổ chức tín dụng trong toàn hệ thống tài chính.
Đảm bảo khả năng thanh toán cho tổ chức tín dụng, giúp tổ chức tín dụng tránh được rủi ro do mất khả năng thanh toán.
ìNhược điểm:
Mặc dù có thể đạt những thay đổi trong cung ứng tiền tệ bằng những thay
đổi nhỏ trong dự trữ bắt buộc nhưng lại khá tốn kém về phí quản lý.
Việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một tổ chức tín dụng có dự trữ vượt mức thấp.
Việc không ngừng thay đổi dự trữ bắt buộc cũng gây ra tình trạng kém ổn định cho các tổ chức tín dụng và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của những tổ chức tín dụng đó khó khăn hơn.
4.3. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua, bán giấy tờ có giá chủ yếu là ngắn hạn (Tín phiếu Kho bạc, Tín phiếu Ngân hàng Trung ương, Chứng chỉ tiền gửi…) trên thị trường tiền tệ, điều hoà cung – cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các tổ chức tín dụng, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ, cụ thể :
- Bằng cách bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, Ngân hàng Trung ương có thể thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát.
- Ngược lại, khi Ngân hàng Trung ương mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng khối lượng tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng thanh khoản của các tổ chức tín dụng.
Công cụ thị trường mở đã được các nước có nền kinh tế tiên tiến như Anh, Mỹ và Thuỵ Sĩ áp dụng từ những năm đầu của thế kỷ XX. Cho đến nay nó đã trở thành công cụ quan trọng bậc nhất để điều hoà lưu thông tiền tệ.
ìƯu điểm:
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở đã thể hiện tính ưu việt của nó so với các công cụ khác của chính sách tiền tệ :
- Ngân hàng Trung ương có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ từ đó tác động trực tiếp vào khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng.
- Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào. Mong muốn mức thay đổi của dự trữ hoặc cơ số tiền tệ dẫu lớn hay nhỏ thế nào, Ngân hàng Trung ương cũng có thể thực hiện được bằng cách mua, bán một khối lượng lớn, nhỏ chứng khoán.
- Ngân hàng Trung ương dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một quyết định sai về việc sử dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Thí dụ, nếu Ngân hàng Trung ương thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nó mua quá nhiều giấy tờ có giá trên thị trường mở thì nó có thể sửa chữa ngay bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở.
- Việc thực hiện có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính. Khi muốn thay đổi cơ số tiền tệ hoặc dự trữ, Ngân hàng Trung ương có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch.
ìNhược điểm:
Ngân hàng Trung ương có thể không đạt được mục tiêu đã đề ra do nghiệp vụ thị trường mở chỉ thực sự hữu hiệu khi nền kinh tế đã phát triển rất cao, cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt đã phát triển.
4.4. Công cụ hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng được sử dụng để khống chế tổng dự nợ tín dụng, qua đó khống chế tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Do vậy có chế tác động của nó mang tính áp đặt đối với hệ thống tài chính.
Qua sử dụng hạn mức tín dụng, Ngân hàng Trung ương nhằm điều chỉnh khả năng tạo tiền của các tổ chức tín dụng phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Tránh tình trạng tổng khối lượng tiền tăng quá mức trong lưu thông, Ngân hàng Trung ương quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng tổ chức tín dụng. Trong phần lớn các trường hợp những hạn mức riêng được xác định căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ so với tổng mức cho vay của hệ thống tài chính, tổ chức tín dụng chỉ được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạn mức tín dụng quy định. Lúc này, Ngân hàng Trung ương phải theo dõi hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, nếu tổ chức tín dụng cho vay vượt quá hạn mức tín dụng quy định sẽ bị xử phạt.
ìƯu điểm:
Hạn mức tín dụng là một công cụ trực tiếp điều tiết lượng tiền trong lưu thông. Bằng việc quy định hạn mức tín dụng, Ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát khá chặt chẽ tổng lượng tiền cung ứng. Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng cao. Khi đó, nó được Ngân hàng Trung ương sử dụng nếu các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu quả.
ìNhược điểm:
Bên cạnh các ưu điểm, kiểm soát trực tiếp hạn mức tín dụng đối với nền
kinh tế có một số bất lợi sau :
- Hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất tăng lên, bởi vì cung về vốn bị giới hạn không thỏa mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.
- Hạn mức tín dụng có xu hướng làm giảm cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng. Bởi vì, một khi đã cho vay hết hạn mức tín dụng thì tổ chức tín dụng đó không còn muốn huy động vốn nữa, nếu huy động thêm sẽ gây đọng vốn và thiệt hại cho tổ chức tín dụng.
- Hạn mức tín dụng có thể làm sai lệch cơ cấu đầu tư của các tổ chức tín dụng, ảnh hưởng đến cơ cấu nền kinh tế.
- Khi thị trường tiền tệ hoạt động chưa có hiệu quả thì hạn mức tín dụng có thể làm cho các khoản tín dụng được cấp ra nhỏ hơn so với tổng hạn mức tín dụng đã được xác định từ trước. Bởi những tổ chức tín dụng có khả năng huy động nhiều vốn thì việc cho vay ra đã bị hạn chế trong khi các tổ chức tín dụng không có khả năng huy động vốn sẽ cho vay ít hơn so với hạn mức đã được phân bổ. Điều này nguy hiểm hơn là sẽ làm phát sinh các tổ chức tài chính mới thực hiện nghiệp vụ tín dụng ngoài phạm vi kiểm soát của Ngân hàng Trung ương. Kết quả cuối cùng là làm cho chính sách tiền tệ dựa trên hạn mức tín dụng mất đi hiệu lực của nó bởi một số lượng tín dụng ngày càng thoát khởi hạn mức đó.
4.5. Công cụ lãi suất
Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc điều khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế. Sở dĩ nói rằng lãi suất là công cụ gián tiếp, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Nhưng sự tăng, giảm lãi suất có thể kính thích sản xuất hoặc kìm hãm sản xuất. Vì vậy, nó là một công cụ rất lợi hại, có sức phản công ghê gớm. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương, chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng từng thời kỳ nhất định.
Khi sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương (nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng) đề có tác động đến lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong đó, đặc biệt là lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Trung ương tác động mạnh đến lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Song khi các công cụ trên đây hoạt động chưa có hiệu quả, thì Ngân hàng Trung ương có thể trực tiếp quy định khung lãi suất hoặc trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Để tránh rủi ro, bảo vệ quyền lợi của các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Trung ương thường quy định mức lãi suất “sàn” tối đa cho tiền gửi và lải suất “trần” tối thiểu cho tiền vay. Nếu nhằm bảo đảm quyền lợi cho khách hàng của tổ chức tín dụng, thì Ngân hàng Trung ương thường quy định ngược lạị: mức lãi suất tối thiểu cho tiền gửi và mức tối đa cho tiền vay. Ngân hàng Trung ương muốn kiểm soát được lãi suất, bời vì lãi suất có tác động mạnh đến tiết kiệm và đầu tư, qua đó tác động vào tăng trưởng kinh tế và giá cả.
Tuy nhiên, kiểm soát lãi suất của các tổ chức tín dụng sẽ triệt tiêu cạnh tranh trong quá trình hoạt động của nó. Hiện nay, các nước phát triển đã và đang chuyển sang qúa trình tự do hoá lãi suất.
ìƯu điểm:
Biện pháp này có ưu điểm là giúp các tổ chức tín dụng lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho vay, loại bỏ các dự án kém hiệu quả.
ìNhược điểm:
Tuy nhiên quy định khung lãi suất tiền gửi hay quy định lãi suất trần và sàn làm cho tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm, các tổ chức tín dụng bị động trong kinh doanh, hạn chế đầu tư.
Trong bối cảnh đó đòi hỏi phải có sự linh động hơn trong việc sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ và đòi hỏi có sự sáng tạo về công cụ tiền tệ để hoàn thành các mục tiêu kinh tế.
4.6. Công cụ tỷ giá
Tỷ giá là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung – cầu ngoại hối. Đến lượt mình, tỷ giá là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung – cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
Chế độ tỷ giá là cách thức một đất nước quản lý đồng tiền của mình liên quan đến các đồng tiền nước ngoài và quản lý thị trường ngoại hối.
Chế độ tỷ giá ở mỗi nước và mỗi thời kỳ có thể khác nhau, song về cơ bản là chế độ tỷ giá “thả nổi” theo đó thị trường quy định những biến động của tỷ giá, hoặc ngược lại hoàn toàn là chế độ tỷ giá “cố định” theo đó nhà nước sẽ can thiệp để tỷ giá giữa đồng tiền của nước mình với đồng tiền các nước khác không đổi, hoặc là một chế độ nằm giữa hai giải pháp gốc đó.
Chế độ tỷ giá “thả nối có điều tiết” là một chế độ tỷ giá nằm giữa hai chế độ thả nổi và cố định. Mặc dù lý thuyết nói chế độ tỷ giá thả nổi tốt hơn, nhưng trong thực tế không có một đồng tiền nào được thả nổi hoàn toàn, vì nó quá bất ổn định. Tuy chế độ tỷ giá cố định tạo ra sự ổn định, song việc thực hiện các biện pháp chính sách nhằm giữ cho tỷ giá cố định tương đối khó khăn và tốn kém, và trên hết là chế độ này làm cho chính sách tiền tệ trở nên vô hiệu lực. Chính vì thế, chỉ một số ít đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá cố định. Hầu hết các đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi, nhưng Chính phủ sẽ can thiệp để tỷ giá không hoàn toàn phản ứng theo thị trường.
II. Chính sách tiền tệ Việt nam trong thời gian qua
1.Giai đoạn từ năm 1986-2008
1.1.Tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-2008
Vào những năm đầu thời kỳ đổi mới (1986 - 1990), nền kinh tế Việt Nam chưa thực sự hội nhập với nền kinh tế thế thế giới. Nền kinh tế chậm phát triển, đang phải vật lộn với lạm phát phi mã với tỷ lệ lạm phát lên tới 774,7%.
Thêm vào đó, sự đổ vỡ hàng loạt quỹ tín dụng nhân dân đã làm giảm lòng tin của dân chúng vào hệ thống tài chính và giá trị của Việt Nam đồng.
Tháng 7 năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực Đông Nam á đã làm cho một loạt đồng tiền của các nước trong khu vực giảm giá mạnh so với đồng USD và VND. Điều đó cũng có nghĩa là, VND đã bị đánh giá cao hơn nữa, trong bối cảnh các nước trong khu vực là bạn hàng chủ yếu và quan trọng của Việt Nam, đã làm cho xuất khẩu của Việt Nam giảm sút nhanh chóng.
1.2.Chính sách tiền tệ Việt Nam giai đoạn 1986-2008
Từ năm 1990, Ngân hàng Nhà nước đã cải cách mạnh mẽ việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ. Đã xác định được khối lượng tiền cung ứng hàng năm phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát. Đồng thời Ngân hàng Nhà nước đã lựa chọn sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn, chủ động điều hành linh hoạt lượng tiền cung ứng được Chính phủ phê duyệt hàng năm. Do vậy đã cung ứng đủ phương tiện thanh toán đảm bảo sản xuất - lưu thông không bị ách tắc, kinh tế tăng trưởng, đẩy lùi lạm phát phi mã. Đặc biệt từ năm 1993, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện quản lý, điều hành hiệu quả lượng tiền cung ứng, sử dụng linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và kiểm soát lạm phát ở mức một con số.
Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia, kế hoạch cung ứng lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm trình Chính phủ để Chính phủ trình Quốc hội. Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền quyết định và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Trên cơ sở dự án chính sách tiền tệ đã được phê chuẩn bởi Quốc hội, Chính phủ tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, quyết định lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm, mục đích sử dụng số tiền này và định kỳ báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Việt Nam đã mạnh dạn nâng lãi suất tiền gửi ngân hàng nên mức siêu cao để thu hút lượng tiền cung ứng về ngân hàng, đồng thời từng bước thả nổi tỷ giá hối đoái (VNĐ/USD) nhằm tạo lập quan hệ như vậy chỉ là tức thời.
Đòi hỏi Việt Nam phải có những biện pháp khác tích cực hơn nữa để sử dụng chính sách tiền tệ là vấn đề sử dụng và thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước. Từ đó để hỗ trợ đầu tư, phát triển kinh tế ... Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải thực thi chính sách tiền tệ sao cho đảm bảo các nguồn tích luỹ, tiết kiệm nguồn vốn nhàn rỗi khác trong nền kinh tế được khai thác, huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn. Chiến lược huy động vốn được phát động mạnh mẽ liên tục trong suốt thời kỳ 1993 -1997. Phương châm là hạn chế, giảm thiểu dần cung ứng tiền cơ bản qua kênh tín dụng, buộc các tổ chức tín dụng phải đi vay để cho vay làm tốt vai trò trung gian tài chính của nền kinh tế. Các hình thức huy động vốn cũng được đa dạng hoá, có cơ cấu hợp lý nhằm đáp ứng yêu cầu đầu tư trung và dài hạn. Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng chính thức khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ khác trên thế giới như IMF, WB, ADB... Qua đó tranh thủ được sự giúp đỡ về mặt tổ chức, điều hành... của các tổ chức này.
Tháng 6 năm 1995, Ngân hàng Nhà nước chính thức tổ chức bán đấu giá tín phiếu kho bạc tạo nên công cụ huy động vốn mới trên thị trường tiền tệ, góp phần lành mạnh hoá ngân sách.
Ngân hàng Nhà nước còn mở rộng đối tượng cho vay sang nhiều thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế làm cho nền kinh tế có sự phát triển đồng đều
Bên cạnh việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế thông qua con đường tín dụng, hàng năm Ngân hàng Nhà nước còn phải bổ sung phần tiền cung ứng khi chuyển đổi ngoại tệ ròng kết dư nhằm phục vụ mục tiêu ổn định sức mua đối với đồng tiền Việt Nam.
Tháng 10 năm 1997, NHNN đã quyết định mở rộng biên độ giao dịch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá giao dịch tại các thị trường liên ngân hàng từ (+) (-) 5% lên (+) (-)10%
Từ năm 1999, NHNN chấm dứt công bố tỷ giá chính thức, mà chỉ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng, đồng thời biên độ giao dịch dao động cũng giảm xuống chỉ còn (+) (-) 0,1%
Ngân hàng Nhà nước đã từng bước tăng dần tỷ trọng tái cấp vốn theo hình thức thế chấp các chứng từ có giá trị, đồng thời, tỷ trọng tái cấp vốn theo mục tiêu chỉ định ngày càng giảm.
Tóm lại, chính sách tiền tệ với những đổi mới, hoàn thiện các công cụ của nó đã tác động tích cực tới quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua. Chính sách tài chính và chính sách tiền tệ đã duy trì sự ổn định và tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, vượt qua sự ảnh hưởng tiêu cực của những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, tạo cơ sở vững chắc cho Việt Nam mở cửa và hội nhập vào cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới an toàn và hiệu quả
1.3. Thực trạng thực hiện chính sách tiền tệ giai đoạn 1986-2008
Trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, chính sách tiền tệ của một quốc gia, nhất là quốc gia đang phát triển khó có thể tách khỏi xu hướng chính sách tiền tệ của các nước lớn.
Từ năm 1991 đến nay, cùng với công cuộc đổi mới ngân hàng, hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ cũng được hình thành và phát triển. Trong điều kiện thị trường tiền tệ và thị trường tài chính chưa phát triển, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện kiểm soát tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ trực tiếp kết hợp với các công cụ gián tiếp và từng bước đổi mới chuyền từ sử dụng công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp phù hợp với thống lệ quốc tế và xu hướng phát triển của nền kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ thì việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay chưa hẳn là hoàn thiện. Vẫn còn nhiều bất cập khi điều hành chính sách tiền tệ mà Ngân hàng Nhà nước và các Bộ hữu quan cần phải tập trung giải quyết.
Kể từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì quá trình thực hiện chính sách tiền tệ cũng được xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh tế của nó và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau:
Cách xác định lượng tiền cung ứng: nếu như trong thời kỳ kế hoạch hoá tâp trung chúng ta chỉ quan niệm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm tiền mặt và mức cung là bao nhiêu, ở thời kỳ nyo là do Chính phủ phê duyệt thì ngày nay việc quan niệm về lượng tiền cung ứng để thay đổi bên cạnh lượng tiền mặt (C) còn tính đến khả năng tạo tiền (D) của các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác. Bên cạnh đó lượng tiền cung ứng hàng năm phải dựa trên cơ sở: tỷ lệ lạm phát ước tính, tốc độ tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch, vòng quay tiền tệ…
Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ không đông cứng, đóng băng như thời kỳ kế hoạch hóa tập trung (lãi suất cố định nhiều năm… )
Cơ chế điều hành: năm 1988, hệ thống ngân hàng đã được phân thành hai cấp Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại. Trong đó, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng - ngân hàng; trực thuộc Chính phủ. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có quyền chủ động hơn và chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang đi đúng hướng. Lãi suất đã được thay đổi linh hoạt và kịp thời. Lãi suất của dự trữ bắt buộc cũng được thay đổi linh hoạt. Tính thanh khoản của thị trường cũng được tăng lên thông qua việc Ngân hàng Nhà nước mua lại trái phiếu đã phát hành.
Sự “chênh” giữa cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối đã cản trở rất nhiều đến sự vận hành thông suốt và việc mở rộng lĩnh vực ngoại thương một cách ổn định. Ngân hàng Nhà nước cần phải xem lại việc quản lý hệ thống tiền tệ hiện nay để duy trì tính thông suốt trong các giao dịch hàng ngày.
2. Chính sách tiền tệ giai đoạn 2008-2009
2.1. Tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 2008-2009
Giai đoạn 2008-2009 là một giai đoạn kinh tế đen tối của thế giới với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xuất phát từ Mỹ và nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới và Việt Nam cũng không thể nào tránh khỏi sự ảnh hưởng.
- Tăng trưởng kinh tế chậm lại hai quý liên tiếp (quý IV/2008 tăng 5,5%, quý I/2009 tăng 3,1%); lạm phát tuy ở mức thấp nhưng có xu hướng tăng do tác động của các chính sách kích thích kinh tế.
Hình 4: Diễn biễn tăng trưởng kinh tế hàng quý trong năm 2008-2009
Nguồn: Tổng Cục thống kê
- Giá dầu mỏ và các mặt hàng xuất khẩu giảm, kéo theo thâm hụt ngân sách tăng lên (năm 2009 dự kiến dưới 7%); kim ngạch xuất khẩu giảm (7 tháng đầu năm 2009 giảm 13,4%); giải ngân vốn FDI, ODA và thu hút kiều hối đều giảm so với cùng kỳ năm 2008, cùng với việc thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất 4%/năm đã gây áp lực đáng kể lên thị trường ngoại hối và tỷ giá.
- Khi xảy ra khủng hoảng tài chính, hệ thống ngân hàng có nguy cơ gặp rủi ro về tiền gửi ở nước ngoài, phải rút trước hạn để chuyển về gửi ở trong nước hoặc chuyển sang các ngân hàng có uy tín khác, đã làm giảm thu lãi; huy động vốn từ nước ngoài giảm, chi phí vay vốn tăng lên; nợ xấu tăng hơn so với cuối năm 2008.
2.2. Chính sách tiền tệ giai đoạn 2008-2009
Để ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và lạm phát tăng cao, Ngân hàng nhà nước đã có những điều chỉnh chủ động trong chính sách tiền tệ:
E Điều chỉnh giảm các mức lãi suất chủ đạo (lãi suất cơ bản giảm từ 13%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 14%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 12%/năm xuống 5%/năm); giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND từ 11% xuống 3%; điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và hoán đổi ngoại tệ để hỗ trợ thanh khoản cho NHTM; điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ 10%/năm xuống 1,2%/năm;
EĐiều hành linh hoạt tỷ giá USD/VND (điều chỉnh tăng tỷ giá giao dịch USD/VND bình quân thị trường liên ngân hàng, tăng biên độ tỷ giá giữa VND với USD từ +3% lên +5% đối với giao dịch mua bán của các NHTM); can thiệp mua bán ngoại tệ và thực hiện các biện pháp chống đầu cơ ngoại tệ;
EGiám sát chặt chẽ việc thực hiện các tỷ lệ bảo đảm an toàn, hoạt động kinh doanh, chất lượng tín dụng, giảm lãi suất cho vay và cơ cấu lại thời hạn trả nợ của NHTM
2.3. Kết quả
Kết quả đạt được là tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng ở mức thích hợp (năm 2008, tổng phương tiện thanh toán tăng 20%, tín dụng tăng 23,58%; 7 tháng đầu năm 2009, hai chỉ tiêu này tăng 20,22% và 22,61%); lãi suất thị trường trở về thời kỳ ổn định, tỷ giá VND so với USD tăng 2,12%, hệ thống TCTD hoạt động an toàn.
Hình 5: Diễn biến lãi suất huy động, cho vay bằng VND và lạm phát từ 2008-2009
Hình 6: Diến biến tỷ giá VND/USD từ 2007-2009
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
- Dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đến cuối tháng 7/2009 là 403.448 tỷ đồng; trong đó, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất của NHTM và công ty tài chính là 389.327 tỷ đồng, Ngân hàng Phát triển Việt Nam là 6.960 tỷ đồng, Ngân hàng CSXH là 7.161 tỷ đồng. Cơ cấu dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất của NHTM và công ty tài chính: (1) Dư nợ cho vay ngắn hạn là 358.391 tỷ đồng (chiếm 92,1%), cho vay trung và dài hạn là 30.182 tỷ đồng (chiếm 7,75%); (2) Dư nợ của nhóm NHTM nhà nước và Quỹ Tín dụng nhân dân trung ương chiếm 69,9%; nhóm NHTM cổ phần chiếm 23,9%; nhóm ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài chiếm 4,9%, công ty tài chính chiếm 1,3%; (3) Dư nợ của ngành thương nghiệp chiếm 32,01%; công nghiệp chế biến chiếm 32,5%; nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 11,9%; xây dựng chiếm 9,36%…; (4) Dư nợ cho vay của các doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm 66,95%; các doanh nghiệp nhà nước chiếm 15,64%; hợp tác xã và hộ gia đình chiếm 17,41%.
Hình 7: Dư nợ HTLS phân theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Cơ chế hỗ trợ lãi suất đã có tác động tích cực nhiều mặt về kinh tế – xã hội:
Một là, cơ chế hỗ trợ lãi suất được triển khai kịp thời, nhanh chóng, đúng đối tượng và có tính giám sát cao của các cơ quan hữu quan và đối tượng thụ hưởng; vì thế, đã sớm tạo lòng tin, sự đồng thuận và động lực cho doanh nghiệp và người dân thực hiện các giải pháp kích thích kinh tế của Chính phủ;
Hai là, cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, hộ sản xuất mà nòng cốt là hệ thống ngân hàng, đã triển khai cơ chế hỗ trợ lãi suất, khá thông suốt, phù hợp với quy định của pháp luật;
Ba là, đồng thời với việc thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất, chính sách tiền tệ được thực thi nới lỏng một cách thận trọng, tạo điều kiện cho các NHTM duy trì lãi suất kinh doanh ở mức hợp lý, tăng vốn huy động từ nền kinh tế để cho vay với lãi suất thấp (4-6%/năm sau khi được hỗ trợ lãi suất) làm cho tăng trưởng tín dụng 7 tháng đầu năm ở mức cao (22,61%), góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế;
Bốn là, theo báo cáo khảo sát của các địa phương và Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, việc thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất đã đạt được mục tiêu là tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hộ sản xuất giảm chi phí vay vốn khoảng 30 – 40%, giảm giá thành từ 2,5 – 6%, duy trì và mở rộng sản xuất – kinh doanh, tạo được việc làm cho người lao động, có 91% doanh nghiệp nhỏ và vừa duy trì, phát triển sản xuất – kinh doanh.
Năm là, mặt bằng lãi suất thị trường tương đối ổn định, các NHTM huy động vốn từ thị trường để cho vay hỗ trợ lãi suất, NHNN không phát hành thêm tiền ra lưu thông; thông qua thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất đã kiểm chứng được sự tác động và khả năng thực thi chính sách có hiệu quả của hệ thống ngân hàng
2.4. Hạn chế của chính sách tiền tệ năm 2008-2009
Điểm hạn chế của chính sách tiền tệ trong năm 2008-2009 là ở thị trường ngoại hối. Theo hệ thống tỷ giá hối đoái ít biến động hiện nay, nhiều lúc, khoảng cách giữ tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá hối đoái trên thị trường phi chính thức đã dao động và bị nới rộng ra. Sự “chênh” giữa cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối đã cản trở rất nhiều đến sự vận hành thông suốt và việc mở rộng lĩnh vực ngoại thương một cách ổn định. Ngân hàng Nhà nước cần phải xem lại việc quản lý hệ thống tiền tệ hiện nay để duy trì tính thông suốt trong các giao dịch hàng ngày.Bên cạnh những vấn đề liên quan trực tiếp đến thị trường tài chính, một điểm yếu khác của Việt Nam là hiệu quả đầu tư, kết quả là giá thành tăng cao. Một trong những lý do dẫn đến tình trạng lạm phát ở Việt Nam cao hơn những nước láng giềng có lẽ là năng lực sản xuất thấp trong so sánh với nhu cầu trong nước và hiệu quả đầu tư thấp.
III. Chính sách tiền tệ Việt Nam 6 tháng đầu năm và định hướng cho 6 tháng cuối năm
1. Chính sách tiền tệ Việt Nam 6 tháng đầu năm 2010
1.1. Tình hình kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2010
Sau quý I/2010, xu hướng khả quan được thể hiện là: GDP tăng 5,83% so cùng kỳ 2009 (quý I/2009 so 2008 chỉ có 3,1%, quý 2/2009 so với năm 2008 là 4,42% ), thị trường ngoại hối và lãi suất vẫn cơ bản ổn định, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước có USD đã bán cho NHTM theo cam kết, nguồn cung USD khá dồi dào do tốc độ giải ngân các dự án FDI, ODA tăng khá. Riêng FDI giải ngân được 2,5 tỷ USD, tăng 13,6% so với 2,15 tỷ USD tại quí I/2009. Nhiều chính sách mới đã được ban hành như: giới hạn mục tiêu tăng trưởng GDP theo kịch bản thận trọng ở mức 6,5% , kìm giữ tốc độ tăng tín dụng không quá 25%/năm, kìm giữ lạm phát ở mức dưới 7%, điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, tăng cường kiểm soát đô la hóa…
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những dấu hiệu bất ổn, thể hiện: lạm phát khó kìm giữ được dưới 10% (biểu hiện: CPI quý 1 lần lượt là: tháng 1: 1,36%, tháng 2: 1,96%, tháng 3: 0,75%, 3 tháng: 4,12% và 9,46% so với cùng kỳ 2009); tăng giá nhiều mặt hàng độc quyền của Nhà nước: xăng, dầu, điện, vận tải, vật liệu xây dựng…; các nhân tố về vốn: năm 2009, tốc độ tăng tín dụng lớn hơn tốc độ tăng GDP, lượng đầu tư rất lớn từ các “gói” kích thích kinh tế năm 2009…dẫn đến hệ số ICOR lên trên 8 đồng đầu tư cho một đồng tăng trưởng, trong đó, trên 7 đồng tín dụng/đồng GDP; tốc độ tín dụng quý 1/2010 chỉ có 3,34% so với 8,4% quý 1/2009, vì lãi suất quá cao (trong đó tín dụng VND chỉ tăng khoảng 1%).
1.2. Chính sách tiền tệ 6 tháng đầu năm 2010
Trong 6 tháng đầu năm, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện các biện pháp chính sách tiền tệ tập trung vào việc thiết lập một mặt bằng lãi suất mới, ổn định theo xu hướng giảm dần để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, NHNN kiểm soát chất lượng cũng như tốc độ tăng trưởng tín dụng gắn với tăng trưởng nguồn vốn; từng bước hạn chế những mất cân đối kỳ hạn vốn đã tồn tại từ lâu trong hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam. Đặc biệt, tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ được kiểm soát chặt chẽ gắn với tăng trưởng nguồn vốn ngoại để đảm bảo thanh khoản, góp phần đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu hàng hóa thiết yếu, qua đó giảm áp lực lên tỷ giá.Mặt khác, để ổn định thị trường ngoại hối, tăng cung ngoại tệ cho các NHTM và hạn chế việc găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp, NHNN đã sử dụng công cụ tiền tệ gián tiếp, khuyến khích các doanh nghiệp bán ngoại tệ cho ngân hàng. Cụ thể, cơ quan này đã thực hiện hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, hạ lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp và nâng tỷ giá danh nghĩa lên thêm 3,36%. Cùng lúc, NHNN chỉ đạo các tổ chức tín dụng tích cực mua lại ngoại tệ của một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Đồng thời, NHNN bán ngoại tệ ở mức hợp lý để hỗ trợ ngoại tệ nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất. Ngoài ra, cơ quan này cũng tiến hành đóng cửa sàn vàng, góp phần quan trọng ổn định tỷ giá cũng như ổn định thị trường ngoại hối.Những thành tựu kinh tế đạt được trong 6 tháng đầu năm (tăng trưởng kinh tế đạt mức 6,1-6,2%, cao hơn mức tăng của quí I, chỉ số giá tiêu dùng được kiểm soát ở mức thấp, tương đối ổn định từ tháng 4 đến nay, FDI thực hiện tăng 10%...), cùng với các diễn biến tiền tệ đã dần đi vào ổn định (nguồn vốn trên thị trường cơ bản là thông suốt, thanh khoản của các ngân hàng được bảo đảm, tỷ giá tương đối ổn định, các NHTM đủ nguồn ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu mua ngoại tệ của doanh nghiệp), là những điều kiện thuận lợi cho việc thực thi CSTT những tháng cuối năm.
2.Dự báo tình hình kinh tế Việt Nam và định hướng chính sách tiền tệ 6 tháng cuối năm 2010
2.1. Dự báo tình hình kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm 2010
Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, kinh tế thế giới 6 tháng cuối năm 2010 tiếp tục xu hướng phục hồi. Trong báo cáo gần đây nhất, IMF đã nâng mức dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2010 lên mức 4,6% - cao nhất từ năm 2007 (các dự báo trước đó là 3,9% - 4,2%); các quốc gia mới nổi bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ sẽ dẫn đầu trong sự phục hồi của kinh tế thế giới. Tuy nhiên, tốc độ phục hồi của kinh tế thế giới sẽ không đồng đều giữa các khu vực và các lĩnh vực kinh tế. Kinh tế thế giới vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức tiềm ẩn như tỷ lệ nợ công cao chưa từng có, thâm hụt ngân sách, nguy cơ lạm phát, giá nguyên liệu có xu hướng tăng cao, rủi ro bong bóng giá tài sản và tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao kỷ lục ở nhiều nước; đồng thời, việc chính phủ nhiều nước thực hiện thắt chặt chi tiêu nhằm giảm thâm hụt ngân sách sẽ gây ra những cản trở nhất định cho quá trình phục hồi kinh tế thế giới.
Bối cảnh kinh tế thế giới nêu trên sẽ tạo ra những áp lực đối với việc ổn định kinh tế vĩ mô trong nước, đặc biệt là việc kiểm soát lạm phát và cải thiện tình trạng nhập siêu, nhưng đồng thời cũng tạo những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế nước ta nhờ sự cải thiện của các dòng vốn đầu tư nước ngoài và xuất khẩu tiếp tục được đẩy mạnh, cùng với sự phát triển của thị trường nội địa, sẽ tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP. Kinh tế trong nước dự kiến sẽ tiếp tục đà phục hồi trong 6 tháng cuối năm 2010, khả năng đạt mức tăng trưởng như mục tiêu Quốc hội đặt ra (6,5%) cho cả năm 2010. Các tổ chức tài chính quốc tế dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2010 ở mức 6,5% (WB dự báo 6,5%; ADB 6,5%; IMF 6,5%). Lạm phát Việt Nam năm 2010 theo mục tiêu của Quốc hội và Chính phủ ở mức 7% - 8%, IMF dự báo ở mức 12,5%, ADB dự báo 10%.
2.2. Định hướng chính sách tiền tệ Việt Nam 6 tháng cuối năm 2010
Thứ nhất, điều hành lượng tiền cung ứng theo kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thông qua các công cụ chính sách tiền tệ, đảm bảo tổng phương tiện thanh toán và tín dụng cả năm 2010 tăng khoảng 20-25%.
Thứ hai, điều tiết mặt bằng lãi suất thị trường theo hướng giảm dần thông qua các biện pháp: tăng lượng tiền cung ứng; ổn định các mức lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất hoán đổi ngoại tệ; tăng thêm khối lượng vốn giao dịch qua nghiệp vụ thị trường mở với kỳ hạn và lãi suất hợp lý; tiếp tục cho vay tái cấp vốn để hỗ trợ các ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng đối với nông nghiệp và nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa; phối hợp với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam thúc đẩy các ngân hàng thương mại thực hiện đồng thuận về lãi suất huy động và cho vay theo hướng giảm, phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ.
Thứ ba,điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối theo hướng ổn định, phù hợp với các cân đối vĩ mô.
Thứ tư, tổ chức triển khai Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng tập trung cho vay chi phí sản xuất, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa; kiểm soát chặt chẽ vốn cho vay lĩnh vực phi sản xuất.
Thứ năm, tiếp tục thực hiện các giải pháp đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng. Giám sát chặt chẽ và xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh trong việc chỉ đạo các tổ chức tín dụng có mức vốn điều lệ dưới 3.000 tỷ đồng tăng đủ vốn điều lệ theo quy định vào thời điểm 31/12/2010.
Thứ sau, tiếp tục nâng cao chất lượng công tác tổng hợp, phân tích thông tin kinh tế vĩ mô, dự báo sát tình hình kinh tế, tiền tệ trong nước và thế giới để phục vụ có hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động tiền tệ, ngân hàng; phối hợp với các bộ, ngành để nâng cao chất lượng lập, phân tích và dự báo cán cân thanh toán quốc tế.
Thứ bảy, tiếp tục triển khai các đề án thành phần thuộc Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010. Xây dựng và hoàn thiện Đề án chi tiết đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2011-2015.
Thứ tám, nâng cao chất lượng, tần suất của công tác truyền thông về điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đảm bảo cho các thông tin này đến với người dân và doanh nghiệp một cách thường xuyên, kịp thời, đầy đủ và chính xác.
Thứ chín, tích cực triển khai công tác cải cách hành chính với trọng tâm là hoàn thành giai đoạn 2, giai đoạn 3 của Đề án đơn giản hoá thủ tục hành chính theo chỉ đạo của Chính phủ.
Như vậy, chính sách tiền tệ, đặc biệt là các công cụ của nó có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Việc sử dụng các công cụ đó như thế nào sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của nền kinh tế ở từng thời điểm cụ thể.
Nền kinh tế của nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức của khi mở cửa và hội nhập. Một chính sách tiền tệ cứng nhắc là kém hiệu quả sẽ không đảm bảo cho nó tránh được những ảnh hưởng mạnh mẽ từ thị trường bên ngoài. Để bắt kịp xu thế của thời đại, chúng ta cần có những điều chỉnh và bổ sung thích hợp trong chính sách tiền tệ theo hướng chủ động phù hợp với hoàn cảnh trong nước, trên cơ sở tham khảo những mô hình của nước ngoài, từ đó định hướng tốt cho sự phát triển của nền kinh tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHINH SACH TIEN TE - N2.doc