Việc thiết kế dầm chịu cắt của EC2, ACI 318-08 và
TCVN : 2012 đều dựa trên nhiều kết quả phân tích và
thí nghiệm. Chúng dựa trên tiêu chí về sự hình thành
vết nứt xiên do lực cắt và mô men gây ra. Giá trị góc
nghiêng của vết nứt này được quy định khác nhau
trong các tiêu chuẩn. Với ACI, góc nghiêng  của vết
nứt xiên được giả thiết thiên về an toàn với giá trị gần
bằng 450, tức là hình chiếu của tiết diện nghiêng lên
phương nằm ngang bằng chiều cao làm việc của dầm
d. Với EC2, giá trị góc nghiêng này được thay đổi từ
220 cho đến 450, phụ thuộc vào điều kiện khác nhau
của dầm. Việc giả thiết góc nghiêng của vết nứt hay
còn gọi là góc nghiêng của phần bê tông chịu nén
trong hai tiêu chuẩn trên liên quan mật thiết tới việc
xác định nội lực trong các thành phần của dầm khi
chịu đồng thời uốn và cắt. Đối với tiêu chuẩn TCVN,
việc giả thiết góc nghiêng này tương đương với việc
xác định chiều dài của hình chiếu tiết diện nghiêng
nguy hiểm nhất c0. Sự khác biệt cơ bản giữa TCVN
với hai tiêu chuẩn trên là góc nghiêng  trong TCVN
được xác định thông qua việc cực tiểu hóa hàm khả
năng chịu cắt của dầm trên các tiết diện nghiêng khác
nhau, còn hai tiêu chuẩn còn lại thì thông qua thí
nghiệm để đề xuất giá trị góc nghiêng này. Khi tính
toán kiểm tra hoặc thiết kế cấu kiện chịu uốn-cắt, ba
tiêu chuẩn đều chia chúng thành hai trường hơp: dầm
BTCT có và không có cốt thép đai chịu cắt.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 10 trang
10 trang | 
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 1132 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích và thiết kế dầm bê tông cốt thép chịu uốn trên tiết diện nghiêng theo aci 318, eurocode 2 và tcvn 5574 : 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUY CHUẨN – TIÊU CHUẨN 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2014 63
PHÂN TÍCH VÀ THIẾT KẾ DẦM BÊ TÔNG CỐT THÉP CHỊU UỐN TRÊN 
TIẾT DIỆN NGHIÊNG THEO ACI 318, EUROCODE 2 VÀ TCVN 5574:2012 
TS. PHÙNG NGỌC DŨNG 
Đại học Kiến trúc Tp. Hồ Chí Minh 
ThS. LÊ THỊ THANH HÀ 
Đại học Kiến trúc Hà Nội 
Tóm tắt: Ứng xử cắt của dầm bê tông cốt thép 
(BTCT) với vết nứt hình thành trên tiết diện nghiêng là 
hiện tượng phức tạp. Việc thiết kế dầm chịu lực cắt 
trong các tiêu chuẩn đều dựa nhiều trên kết quả 
nghiên cứu thực nghiệm. Với mục đích trình bày một 
cách rõ ràng hơn về ứng xử cắt dầm BTCT cho sinh 
viên, kỹ sư, nhà thiết kế, nhiều nghiên cứu cơ bản về 
ứng xử của dầm BTCT đã được tổng kết. Bài báo này 
sẽ giới thiệu một trong số các tổng kết đó: so sánh 
cách thiết kế cốt thép đai theo 3 tiêu chuẩn 5574, ACI 
và EC2. 
1. Giới thiệu 
Trong bài báo này, dựa trên sự tổng kết nghiên 
cứu của nhiều tác giả, ứng xử của dầm BTCT chịu 
uốn và cắt sẽ được giới thiệu, sau đó một số vấn đề 
thiết kế cơ bản cho dầm BTCT có và không có cốt 
thép đai thẳng đứng theo ba tiêu chuẩn 5574, ACI và 
EC2 sẽ được tổng kết. Sự giống nhau và khác nhau 
về cách thiết kế cốt thép đai của ba tiêu chuẩn này 
cũng sẽ được trình bày. Các ví dụ và yêu cầu về cấu 
tạo sẽ được trình bày ở bài báo tiếp theo. 
2. Sự làm việc của dầm BTCT chịu uốn và cắt 
2.1 Sự làm việc của dầm đàn hồi đồng chất đẳng 
hướng chịu uốn và cắt 
Sự làm việc của dầm đàn hồi đồng chất đẳng 
hướng chịu uốn và cắt đã được trình bày kỹ trong 
nhiều tài liệu [1,5,6,7]. Để giải thích sự làm việc của 
dầm làm bằng BTCT, vật liệu không đồng chất và 
đẳng hướng, ứng xử của dầm đơn giản bằng vật liệu 
đồng chất, đẳng hướng có khả năng chịu kéo, nén và 
cắt đều lớn, chịu tải trọng phân bố đều (hình 1), sẽ 
được trình bày. Nếu vật liệu là đàn hồi, ứng suất tiếp 
và pháp tại bất kỳ điểm nào trên một tiết diện ngang 
(có lực cắt khác không) có thể được xác định từ hai 
công thức của sức bền vật liệu [1]: 
w
VQv
Ib
(1) 
và 
Myf
I
(2) 
trong đó:  và f là giá trị ứng suất tiếp và ứng suất 
pháp tại điểm đó; V và M là lực cắt và môment uốn tại 
tiết diện đang xét; Q và I là môment tĩnh và mômen 
quán tính của tiết diện; y là khoảng cách từ trục trung 
hòa tới điểm đang xét ứng suất; bw là bề rộng của tiết 
diện. Phân bố ứng suất pháp, f, do mô men uốn là 
tuyến tính, còn ứng suất tiếp  có dạng bậc hai. Tại vị 
trí tiết diện đi qua hai phân tố 1 và 2 như trên hình 1, 
giá trị M và V đều khá lớn. Phân tố 1 tại vị trí trục 
trung hòa sẽ chịu cắt thuần túy, như thể hiện ở hình 
1b, với giá trị là lớn nhất so với các vị trí khác trên 
cùng tiết diện đó và bằng 3/2 av. Với av là ứng suất 
tiếp trung bình, có giá trị bằng lực cắt chia cho diện 
tích tiết diện ngang vav = V/bwh, trong đó bw và h là là 
chiều rộng và chiều cao của tiết diện. Ứng suất chính 
của phân tố này sẽ có góc nghiêng 450 như ở hình 
1c, gồm chỉ 1 ứng suất kéo và 1 ứng suất nén. Phân 
tố 2 sẽ chịu cả hai ứng suất pháp và tiếp do M và Q, 
như hình 1d. Phương ứng suất chính của phân tố này 
sẽ nghiêng một góc  so với trục hoành, như thể hiện 
ở hình 1d. Giá trị của ứng suất chính này sẽ xác định 
theo phương trình (3) và góc nghiêng xác định bởi 
phương trình (4): 
2
2
2 4
f ft 
 
   
 
 (3) 
2tan(2 )
f
  (4) 
Vì  và f thay đổi dọc theo dầm và theo chiều cao 
của tiết diện kể từ trục trung hòa, góc nghiêng cũng 
như độ lớn của ứng suất chính t cũng thay đổi. hình 
1f thể hiện quỹ đạo của các ứng suất chính này cho 
dầm đơn giản chịu tải trọng phân bố đều. Có thể thấy 
phương các ứng suất chính tiếp tuyến với quỹ đạo 
của chúng. Tại các thớ ngoài cùng của tiết diện giữa 
nhịp, lực cắt bằng không, ứng suất chính có phương 
trùng với trục hoành. 
QUY CHUẨN - TIÊU CHUẨN 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2014 64
Hình 1. Hình dạng ứng suất chính và hình chiếu ứng suất 
trong dầm chữ nhật đồng chất chịu uốn cắt [1, 5, 6] 
2.2 Dầm bê tông cốt thép không có cốt ngang chịu cắt 
Ứng xử của dầm đàn hồi đồng chất có thể áp 
dụng cho dầm bê tông không có cốt thép. Khi tải trọng 
được tăng lên, vết nứt kéo sẽ hình thành tại vị trí có 
ứng suất kéo lớn nhất và làm dầm sụp đổ nhanh 
chóng. Nếu cốt thép chịu kéo được bố trí trong dầm, 
ứng xử của nó sẽ khác biệt so với dầm không có cốt 
thép chịu kéo. Mặc dù các vết nứt kéo hình thành 
trong bê tông, cường độ kéo uốn yêu cầu được chịu 
bởi cốt thép dọc, và dầm có thể chịu được các tải 
trọng lớn hơn. Lực cắt tăng tỷ lệ với tải trọng và các 
ứng suất kéo xiên với giá trị lớn sẽ xuất hiện tại các 
vùng có lực cắt lớn. Cốt thép dọc chịu kéo được tính 
toán và bố trí sao cho nó hiệu quả trong việc chống lại 
lực kéo gần mặt chịu kéo. Nó không làm tăng khả 
năng chịu kéo của bê tông chống lại ứng suất kéo 
xiên xuất hiện ở đâu đó, gây ra bởi chỉ lực cắt hoặc 
bởi sự kết hợp giữa lực cắt và mô men uốn. Khi các 
ứng suất này đạt đủ lớn làm các vết nứt kéo xiên mở 
rộng theo hướng vuông góc với ứng suất kéo cục bộ, 
đó là các vết nứt xiên, khác với các vết nứt uốn thẳng 
góc. 
Tiêu chí hình thành vết nứt xiên: 
Phương trình (3) cho thấy ứng suất kéo xiên t thể 
hiện ảnh hưởng kết hợp giữa ứng suất pháp f và ứng 
suất tiếp . Những ứng suất này phụ thuộc vào giá trị 
của M và V. Tại các vị trí tiết diện có lực cắt V lớn và 
mô men uốn M nhỏ, vết nứt do uốn nhỏ. Nếu xuất 
hiện vết nứt này thì nó sẽ xảy ra trước khi hình thành 
vết nứt xiên do cắt. Ứng suất tiếp trung bình trước khi 
hình thành vết nứt là: 
w
Vv
b d
(5) 
Với d là chiều cao làm việc của tiết diện. Sự phân 
bố chính xác của ứng suất tiếp trên toàn bộ mặt cắt 
tiếp diện là không biết, không thể sử dụng phương 
trình (1) để xác định vì nó không kể đến sự có mặt 
của cốt thép và bê tông không phải là vật liệu đồng 
chất đàn hồi. Nếu các ứng suất do uốn nhỏ, các ứng 
suất kéo xiên, như trong hình 1b, c, nghiêng một góc 
450 và bằng ứng suất tiếp với giá trị lớn nhất tại trục 
trung hòa. Do đó các vết nứt xiên thường hình thành 
hầu hết tại hoặc gần trục trung hòa và lan truyền từ vị 
trí đó, như trên hình 2a. Vết nứt do cắt thuần túy tại 
thân dầm (web-shear crack) có thể xuất hiện khi ứng 
suất kéo xiên từ trục trung hòa bằng với khả năng 
chịu kéo của bê tông. Thông qua thí nghiệm người ta 
xác định được rằng trong các vùng với V lớn và M 
nhỏ, các vết nứt xiên do kéo hình thành với một giá trị 
ứng suất tiếp trung bình hay danh nghĩa bằng [6]: 
'
w/( ) 0,29cr cr cv V b d f  (6) 
với fc’ là cường độ chịu nén đặc trưng của bê 
tông; Vcr là giá trị lực cắt gây ra vết nứt xiên. Nói 
chung, vết nứt này thường ít, chủ yếu xảy ra tại các vị 
trí gần gối tựa của dầm cao với bề rộng thân dầm nhỏ 
hoặc tại vị trí mô men đổi dấu trong dầm liên tục. Ứng 
xử của dầm trở nên khác đi khi tiết diện chịu mô men 
uốn và lực cắt đều khá lớn. Tại các vị trí như vậy, 
trong một dầm mà cốt thép dọc được bố trí hợp lý, 
các vết nứt do lực kéo khi uốn hình thành đầu tiên. 
Chiều rộng và chiều sâu của chúng được khống chế 
bởi cốt thép dọc. Tuy nhiên, khi ứng suất xiên do kéo 
tại phần bên trên của các vết nứt này vượt quá cường 
độ chịu kéo của bê tông, vết nứt cong theo phương 
đường xiên và tiếp tục phát triển về độ lớn cũng như 
bề rộng (hình 2b). Các vết nứt này gọi là vết nứt do 
cắt khi uốn (flexure-shear crack) và thông dụng hơn 
so với vết nứt do cắt thuần túy. Rõ ràng, tại thời điểm 
mà vết nứt xiên do kéo hình thành, ứng suất tiếp 
trung bình sẽ lớn hơn giá trị cho trong phương trình 
(5) vì vết nứt do kéo sẵn có làm giảm diện tích của 
vùng bê tông chưa bị nứt (vùng này dùng để chống lại 
lực cắt) tới một giá trị nhỏ hơn diện tích chưa bị nứt 
“bwd” dùng trong phương trình (5). Các thí nghiệm [6] 
cho thấy với sự có mặt của mô men uốn khá lớn, ứng 
suất tiếp danh định mà tại đó ứng suất gây ra vết nứt 
xiên do kéo hình thành và phát triển, trong đa số các 
trường hợp, được xác định khá an toàn bằng: 
'0,16crcr c
Vv f
bd
 
(7) 
QUY CHUẨN – TIÊU CHUẨN 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2014 65
Hình 2. Vết nứt kéo xiên trong dầm BTCT [6] 
Hình 3. Cân bằng lực tại vết nứt kéo xiên trong dầm BTCT 
không có cốt đai chịu cắt [6] 
Như vậy, ứng suất tiếp tạo ra các vết nứt xiên phụ 
thuộc vào tỷ số giữa lực cắt và mô men uốn hay chính 
xác hơn là vào tỷ số /f tại vị trí gần với đỉnh của vết 
nứt do uốn. Giá trị ứng suất tiếp trung bình phụ thuộc 
vào chiều sâu của vết nứt do uốn nên nó có thể xác 
định bởi  = k1(V/bd), trong k1 là hệ số phụ thuộc vào 
chiều sâu của việc thâm nhập của vết nứt uốn [5, 6, 
7]. Mặt khác, ứng suất pháp do mô men uốn có thể 
xác định theo f = k2 (M/bd2), trong đó k2 cũng phụ 
thuộc vào hình dạng vết nứt [5, 6, 7]. Do đó, tỷ số 
1
2
kv Vd
f k M
 sẽ ảnh hưởng đến tải trọng mà dưới tác 
dụng của nó vết nứt do uốn sẽ phát triển thành vết 
nứt do uốn-cắt, đại lượng k1/k2 sẽ được xác định 
bằng thực nghiệm. Phương trình (6) và (7) dùng để 
xác định ứng suất gây ra vết nứt xiên trong trường 
hợp giá trị rất lớn và rất nhỏ của Vd/M. Với các giá trị 
khác của V và M, ứng suất gây ra vết nứt xiên sẽ nằm 
trong khoảng hai giá trị trên. Nhiều thí nghiệm đã 
được thực hiện để xác định mối quan hệ giữa ứng 
suất gây ra vết nứt xiên và giá trị M, V. Ứng suất tiếp 
danh định mà tại đó các vết nứt xiên do uốn-cắt phát 
triển có thể xác định từ: 
' '0,16 17 0,29crcr c c
V Vdv f f
bd M
   
(8) 
 trong đó =As/bd với As là diện tích tiết diện cốt 
thép chịu kéo. 
Ứng xử của dầm BTCT bị nứt xiên: 
Nếu cốt thép dọc được thiết kế hợp lý thì vết nứt 
thẳng góc do uốn là vô hại đối với sự làm việc của 
dầm. Vì dầm BTCT trong trường hợp này không có 
cốt thép đai chịu cắt nên các vết nứt xiên do lực cắt 
gây ra sẽ quyết định đến ứng xử của dầm hơn là vết 
nứt thẳng góc do uốn. Thông qua thực nghiệm [6], 
ứng xử của dạng dầm này có hai dạng như sau: 
Dạng 1: Vết nứt xiên khi bắt đầu hình thành lan 
truyền ngay lập tức khi tải trọng ngoài tăng lên một 
lượng nhỏ, từ vùng cốt thép chịu kéo đến mặt trên 
của vùng bê tông chịu nén và làm dầm phá hoại. Quá 
trình này thường đột ngột và không có cảnh báo nào 
trước đó và xảy ra chủ yếu ở các dầm có chiều cao 
tiết diện khá thấp (ví dụ như sàn hay dầm có tỷ số 
nhịp/chiều cao tiết diện  8). Vì không có cốt thép đai 
chịu cắt nên các dầm dạng này rất dễ bị phá hoại giòn 
nếu có một tác động đột ngột nào đó. Vì vậy, trong 
thực tế người ta thường bố trí cốt thép chịu cắt tối 
thiểu cho dầm kể cả khi việc tính toán không cần đến 
chúng. Các cốt thép đai này sẽ hạn chế việc tăng vết 
nứt xiên và tăng độ dẻo cho dầm, từ đó có thể xuất 
hiện các cảnh báo trước khi dầm bị phá hoại. Trong 
một số trường hợp, như bản sàn, khi ứng suất tiếp 
thực tế nhỏ hơn rất nhiều so với ứng suất gây nứt cr 
ở phương trình (8) thì người ta có thể bỏ qua cốt thép 
chịu cắt. 
Dạng 2: Vết nứt xiên khi hình thành sẽ lan truyền 
về phía vùng nén và đến mặt phía dưới của vùng bê 
tông chịu nén thì dừng lại. Trong trường hợp này 
không có sự phá hoại đột ngột nào xảy ra và tải trọng 
phá hoại có thể lớn hơn nhiều lần so với tại trong gây 
ra vết nứt đầu tiên. Ứng xử này gặp nhiều ở các dầm 
có chiều cao tiết diện lớn, với tỷ số chiều dài 
nhịp/chiều cao tiết diện nhỏ. Đây là loại dầm thường 
gặp trong thực tế. hình 3 thể hiện một đoạn dầm chịu 
tải trọng bất kỳ, trong đó một vết nứt xiên đã hình 
thành. Phần bên trái vết nứt của đoạn dầm này, tải 
trọng tác động lên nó có chiều hướng lên với giá trị 
Vext = Rl – P1. Khi vết nứt được hình thành, không có 
lực kéo nào vuông góc với vết nứt có thể được truyền 
qua nó, tuy nhiên, nếu vết nứt này hẹp nó có thể 
truyền lực dọc theo bề mặt của nó thông qua mối liên 
kết giữa các vật liệu trên bề mặt gồ ghề. Lực liên kết 
QUY CHUẨN - TIÊU CHUẨN 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2014 66
Vi, có thể được chia thành hai thành phần Vix và Viy 
như hình 3a, thường được xác định thông qua thí 
nghiệm, có giá trị bằng khoảng 1/3 giá trị tổng lực cắt 
[5, 6]. Các nội lực đứng khác tại vết nứt là lực tại vùng 
bê tông chịu nén chưa bị nứt Vcz và lực ngang qua cốt 
thép chịu kéo Vd, còn gọi là lực chốt. Theo điều kiện 
cân bằng, tổng nội lực, Vint = Vcz + Vd + Viy, sẽ bằng 
với ngoại lực tác dụng, do vậy phần bê tông chịu nén 
sẽ chịu một lượng lực cắt là: 
extcz d iyV V V V   (9).Trong các dầm mà chỉ có cốt 
thép dọc chịu kéo, khả năng chịu cắt của cốt thép 
dọc, Vd, thường nhỏ vì lực Vd này phụ thuộc vào 
chiều dày của lớp bê tông bảo vệ cốt thép dọc, dùng 
để ngăn cản chuyển vị đứng của nó. Lớp bê tông bảo 
vệ này thường nhỏ, do đó, lực Vd trong trường hợp 
này cũng nhỏ. Thực ra lực Vd này tạo ra trong bê tông 
bảo vệ và bê tông ở phía trên cốt thép dọc một áp lực 
kéo đứng, như ở hình 3b. Do những ứng suất này, 
các vết nứt xiên thường có xu hướng lan truyền dọc 
theo cốt thép dọc chịu kéo. Điều này làm giảm Vd và 
làm cho vết nứt xiên mở rộng, do đó, lực liên kết Viy 
cũng bị giảm đi và thường dẫn đến phá hoại đột ngột 
cho dầm. Xét mô men xung quanh điểm a như ở hình 
3a, là điểm cắt giữa C và Vcz; mô men ngoại lực Mext,a 
tác dụng tại a và có giá trị bằng Mext,a = Rlxa – P1(xa – 
x1) cho trường hợp tải trọng trên hình 3a; mô men nội 
lực bằng Mint,a = Tbz + Vdp – Vim. Ở đây, p là hình 
chiếu ngang của vết nứt xiên và m là cánh tay đòn mô 
men của lực Vi đối với điểm a. Việc sử dụng ký hiệu 
lực kéo trong cốt thép là Tb thay cho T để nhấn mạnh 
rằng lực trong cốt thép này tác dụng tại điểm b, không 
phải tại a. Cân bằng môment nội và ngoại lực Mint,a = 
Mext,a ta có lực kéo dọc trục trong cốt thép tại điểm b 
là: 
 ext,a d ib
M V p V m
T
z
 
(10) 
Nếu vết nứt xiên phát triển thì các lực Vd và Vi nhỏ 
đi nhiều, nên lực kéo trong cốt thép tại điểm b có thể 
xác định gần đúng theo: 
ext,a
b
M
T
z
(11) 
Sự phân bố ứng suất và nội lực sau khi xuất hiện 
vết nứt xiên có thể tóm tắt như sau: 
- Tại tiết diện thẳng đứng qua điểm a, ứng suất 
tiếp trung bình trước khi xuất hiện vết nứt là Vext/bwd. 
Sau khi hình thành vết nứt, lực cắt được chống lại bởi 
sự kết hợp của lực chốt Vd, lực liên kết Vi và khả năng 
chịu cắt trên vùng tiết diện nhỏ hơn mà bê tông chưa 
bị nứt. Vì ứng suất kéo dọc theo cốt thép (hình 3b) 
làm vết nứt mở rộng nên giá trị Vd và Vi giảm đi, và 
điều này làm tăng lực cắt và ứng suất tiếp trên phần 
bê tông còn lại chưa bị nứt. 
- Vết nứt xiên mô tả ở trên thường xuất hiện phía 
trên trục trung hòa và cắt ngang qua một vài phần của 
vùng nén trước khi nó bị dừng lại bởi ứng suất nén. 
Như vậy, lực nén C cũng tác dụng lên một diện tích 
nhỏ hơn phần diện tích trước khi xuất hiện vết nứt, do 
đó, việc hình thành vết nứt xiên cũng làm tăng ứng 
suất nén trong phần bê tông chưa bị nứt. 
- Trước khi hình thành vết nứt xiên, lực kéo trong 
cốt thép tại điểm b được gây ra và tỷ lệ thuận với giá 
trị mô men uốn chính tại tiết diện đi qua b. Vì có sự 
hình thành vết nứt xiên, từ phương trình (11) ta thấy 
lực kéo tại điểm b tăng thêm và tỷ lệ thuận với mô 
men tại tiết diện đi qua điểm a. Vì mô men tại tiết diện 
qua điểm a thường lớn hơn tại tiết diện qua điểm b 
nên rõ ràng rằng việc hình thành vết nứt xiên làm tăng 
đột ngột ứng suất kéo trong cốt thép tại b. 
- Nếu cả hai vật liệu đều có khả năng tiếp nhận 
các ứng suất tăng lên này, cân bằng sẽ tự thiết lập 
sau khi có sự phân phối lại nội lực và tải trọng lớn 
hơn có thể tác dụng lên dầm trước khi nó bị phá hoại. 
Sự phá hoại có thể xảy ra theo một số tình huống 
khác nhau. Nếu cốt thép tại tiết diện b được thiết kế 
chỉ đủ tại tiết diện đó thì việc tăng lực kéo tại b do 
hình thành vết nứt xiên sẽ gây ra sự chảy dẻo tại cốt 
thép ở b do mô men lớn hơn ở a tác dụng, như mô tả 
ở trên, vì vậy gây ra sự phá hoại của dầm nếu cốt 
thép bị kéo đứt. Nếu dầm được thiết kế hợp lý để 
tránh xảy ra vấn đề này thì thông thường bê tông tại 
đỉnh vết nứt sẽ phá hoại do bị ép vỡ. Bê tông ở vùng 
này chịu đồng thời ứng suất do nén và do cắt và ứng 
suất kết hợp này thường gây ra sự phá hoại sớm hơn 
là một trong hai ứng suất này tác dụng riêng rẽ. Cuối 
cùng, nếu có sự tách dọc cốt thép chịu kéo, nó sẽ làm 
giảm lực dính kết giữa cốt thép và bê tông tới một 
mức mà cốt thép sẽ bị kéo tuột khỏi bê tông. Điều này 
cũng có thể gây ra sự phá hoại của dầm hoặc nó 
đồng thời với việc bê tông bị ép vỡ. 
2.3 Sự làm việc của dầm bê tông cốt thép có cốt thép 
đai thẳng đứng chịu cắt 
Sự có mặt của cốt thép đai không có ảnh hưởng 
đáng kể nào trước khi hình thành các vết nứt xiên. 
Sau khi vết nứt xiên hình thành, cốt thép đai làm tăng 
QUY CHUẨN – TIÊU CHUẨN 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2014 67
khả năng chịu cắt của dầm BTCT theo bốn cách khác 
nhau [5,6,7]: 
- Một phần của lực cắt được chống lại thông qua 
các thanh thép đi ngang qua một vết nứt cụ thể. Cơ 
chế của khả năng chịu cắt tăng thêm này được thể 
hiện kỹ hơn như dưới đây; 
- Sự có mặt của các thanh thép này hạn chế sự 
phát triển của các vết nứt xiên và làm giảm sự thâm 
nhập của nó vào vùng nén. Điều này tạo ra nhiều bê 
tông chưa bị nứt hơn tại đầu vết nứt cho việc chống 
lại ứng suất kết hợp của ứng suất kéo và nén; 
- Cốt thép đai cũng làm cho các vết nứt khó mở 
rộng hơn và như vậy hai mặt của một vết nứt vẫn tiếp 
xúc với nhau. Điều này làm tăng lên đáng kể giá trị 
lực liên kết Vi; 
- Cốt thép dọc thường được bố trí ở góc của cốt 
thép đai, do vậy cốt thép đai sẽ kéo cốt thép dọc liên 
kết chặt với vùng bê tông hạn chế phía trong. Điều 
này cũng hạn chế phần nào việc tách của bê tông dọc 
theo cốt thép dọc chịu kéo và do đó làm tăng khả 
năng chịu cắt của lực chốt cốt thép dọc. 
Như vậy, sự phá hoại do lực cắt sẽ xảy ra khi cốt 
thép đai bắt đầu chảy dẻo. Điều này không chỉ làm 
giảm khả năng chịu lực của chính cốt thép đai mà nó 
cũng làm cho các vết nứt mở rộng hơn và làm giảm 
khả năng chịu lực cắt. 
Vì cốt thép đai không hiệu quả trong các dầm 
không nứt nên độ lớn của lực cắt hoặc ứng suất tiếp 
mà gây ra nứt là giống như dầm không có cốt thép đai 
và có thể xác định gần đúng theo công thức (8). Các 
lực tác dụng lên một phần dầm có cốt thép đai đứng 
giữa vết nứt và gối tựa được thể hiện ở hình 5. 
Chúng gần giống như ở hình 3, chỉ khác ở chỗ mỗi 
cốt thép đai cắt qua vết nứt tạo ra một lực Avfv trong 
phần dầm đang xét. Ở đây Av là diện tích tiết diện 
ngang của toàn bộ các nhánh đai của một cốt thép đai 
và fv là ứng suất kéo trong cốt thép đai. Cân bằng 
theo phương thẳng đứng: Vext = Vcz + Vd + Viy + 
Vs(12); trong đó Vs = nAvfv là lực thẳng đứng trong các 
cốt thép đai, n là số lượng cốt thép đai cắt qua vết 
nứt. Nếu s là khoảng cách giữa các cốt thép đai và p 
là hình chiếu của vết nứt nghiêng thì n = p/s. 
Sự phân bố gần đúng của bốn thành phần lực cắt 
nội lực (vế phải của phương trình (12) với sự tăng 
dần của lực cắt bên ngoài Vext được thể hiện theo sơ 
đồ như hình 4. Có thể thấy, sau khi hình thành vết nứt 
xiên, phần lực cắt Vs = nAvfv chịu bởi các cốt thép đai 
tăng tuyến tính với việc tải trọng tăng, các thành phần 
Vcz + Viy + Vd gần như là không đổi. Khi các cốt thép 
đai chảy dẻo, sự đóng góp của chúng là không đổi tại 
giá trị chảy dẻo Vs = nAvfyt, trong đó fyt là cường độ 
chảy dẻo của cốt thép đai. Tuy nhiên do có sự mở 
rộng của vết nứt xiên và việc tách cốt thép dọc khỏi 
bê tông nên Viy và Vd giảm đi rất nhanh. Điều làm cho 
vùng bê tông chịu nén sẽ chịu ứng suất lớn do lực cắt 
và uốn và dầm sẽ dễ dàng phá hoại. Trong khi khả 
năng chịu lực cắt tổng cộng của cốt thép đai đã biết, 
độ lớn riêng lẻ của ba thành phần còn lại trong công 
thức (12) là chưa biết. Rất ít các thí nghiệm và nghiên 
cứu lý thuyết cho đến ngày hôm nay có thể xác định 
giá trị của ba thành phần này [5,6,7]. Người ta thường 
được giả sử một cách an toàn rằng trước khi dầm có 
cốt thép đai phá hoại tổng của ba thành phần này 
bằng lực cắt gây nứt bê tông Vcr, xác định theo 
phương trình (8). Tổng này thường được coi một 
cách gần đúng là đóng góp của bê tông tới khả năng 
chịu cắt tổng cộng và được diễn tả bằng Vc. Do đó Vc 
= Vcr và Vc = Vcz + Viy + Vd (12). 
Hình 4. Sự phân bố của các lực cắt nội lực trong dầm với 
cốt đai đứng [6] 
Hình 5. Cân bằng lực tại vết nứt kéo xiên trong dầm BTCT 
có cốt đai đứng chịu cắt [6] 
Số lượng cốt thép đai n với khoảng cách s phụ 
thuộc vào chiều dài hình chiếu p của vết nứt xiên. 
Chiều dài này phụ thuộc vào góc nghiêng của vết nứt 
xiên. Nó có thể được giả sử bằng chiều cao làm việc 
QUY CHUẨN - TIÊU CHUẨN 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2014 68
của dầm, d [6] ; vì vậy n=d/s, có nghĩa là góc nghiêng 
của vết nứt nhỏ hơn 450. Như vậy, tại trạng thái giới 
hạn về cường độ, khi Vext = Vn, phương trình (12) và 
(12) cho ta cường độ chịu cắt danh định của dầm 
vA yt
n c
f d
V V
s
  (13); trong đó Vc được lấy bằng lực 
gây nứt do cắt của dầm chịu uốn và cắt, theo công 
thức: 
' '0,16 17 0,29crcr c c
V Vdv f f
bd M
   
(14) 
3. Các cách tiếp cận để thiết kế cốt thép đai chịu 
cắt cho dầm chịu uốn theo ACI 318, EC2 và TCVN 
Việc thiết kế dầm chịu cắt của EC2, ACI 318-08 và 
TCVN : 2012 đều dựa trên nhiều kết quả phân tích và 
thí nghiệm. Chúng dựa trên tiêu chí về sự hình thành 
vết nứt xiên do lực cắt và mô men gây ra. Giá trị góc 
nghiêng của vết nứt này được quy định khác nhau 
trong các tiêu chuẩn. Với ACI, góc nghiêng  của vết 
nứt xiên được giả thiết thiên về an toàn với giá trị gần 
bằng 450, tức là hình chiếu của tiết diện nghiêng lên 
phương nằm ngang bằng chiều cao làm việc của dầm 
d. Với EC2, giá trị góc nghiêng này được thay đổi từ 
220 cho đến 450, phụ thuộc vào điều kiện khác nhau 
của dầm. Việc giả thiết góc nghiêng của vết nứt hay 
còn gọi là góc nghiêng của phần bê tông chịu nén 
trong hai tiêu chuẩn trên liên quan mật thiết tới việc 
xác định nội lực trong các thành phần của dầm khi 
chịu đồng thời uốn và cắt. Đối với tiêu chuẩn TCVN, 
việc giả thiết góc nghiêng này tương đương với việc 
xác định chiều dài của hình chiếu tiết diện nghiêng 
nguy hiểm nhất c0. Sự khác biệt cơ bản giữa TCVN 
với hai tiêu chuẩn trên là góc nghiêng  trong TCVN 
được xác định thông qua việc cực tiểu hóa hàm khả 
năng chịu cắt của dầm trên các tiết diện nghiêng khác 
nhau, còn hai tiêu chuẩn còn lại thì thông qua thí 
nghiệm để đề xuất giá trị góc nghiêng này. Khi tính 
toán kiểm tra hoặc thiết kế cấu kiện chịu uốn-cắt, ba 
tiêu chuẩn đều chia chúng thành hai trường hơp: dầm 
BTCT có và không có cốt thép đai chịu cắt. 
3.1 Dầm BTCT không có cốt thép đai chịu cắt 
Khả năng chịu cắt của dầm phụ thuộc hoàn toàn 
khả năng chịu cắt của bê tông vùng nén, vào lực cắt 
liên kết giữa hai mặt của vết nứt và vào lực chốt của 
cốt thép dọc như đã trình bày ở các phần ở trên. Đối 
với ACI và EC2, thì tổng cộng của ba thành phần trên 
được quy đổi thành khả năng chịu cắt của bê tông Vc 
(ACI) và VRd,c (EC2). Giá trị này được xác định theo 
công thức (16) và (17). 
ACI (đơn vị theo psi, kip, in): ' ' 'w w w0,16 17 0,17 0,29uc c c c
u
V dV f b d f b d f b d
M
 
    
 
 (15) 
EC2 (đơn vị theo MPa, N, mm):      1/3 3/ 2 1/ 2, w 1 w0,18/ 100 0,035Rd c c ck ckV b d k f b d k f         (16) 
trong đó: fc’ hay fck là cường độ chịu nén đặc 
trưng của bê tông; d là chiều cao làm việc của tiết 
diện, bw là chiều rộng nhỏ nhất của dầm;  =1 = 
As1/(bwd)  0,02 là hàm lượng của cốt thép chịu kéo; 
As1 là diện tích tiết diện ngang của cốt thép chịu kéo; 
Mu và Vu là mô men uốn và lực cắt tác dụng tại tiết 
diện đang xét; 
2001 2,0k
d
 
    
 
là hệ số thực 
nghiệm; c là hệ số an toàn của vật liệu bê tông 
thường lấy bằng 1,5. 
Điều kiện kiểm tra hoặc thiết kế khả năng chịu cắt 
cho tiết diện theo ACI và EC2 là: 
ACI (đơn vị theo psi, kip, in): u cV V (17) 
EC2 (đơn vị theo MPa, N, mm): ,Ed Rd cV V (18) 
trong đó  là hệ số giảm độ bền, lấy bằng 0.85; 
Vu, VEd là lực cắt tác dụng tại tiết diện đang xét. 
Đối với TCVN, các thành phần tạo nên khả năng 
chịu cắt của bê tông không được trình bày cụ thể 
trong tiêu chuẩn, công thức kiểm tra khả năng chịu 
cắt trên tiết diện nghiêng nguy hiểm nhất là: 
đơn vị theo MPa, N, mm: 
  24 01b n btR bhQ
c
 
 với    
2
4 0
3 0
1
1 b n btb n bt
R bh
R bh
c
 
 
  (19) 
trong đó: b4 = 1 cho bê tông nặng; n = 0 đối với 
dầm; b3 = 0,6 đối với bê tông nặng; Q là lực cắt tác 
dụng tại tiết diện đó; Rbt là cường độ chịu kéo tính 
toán của bê tông; b là chiều rộng và h0 là chiều cao 
làm việc. 
Từ các công thức (16) đến (20), ta nhận thấy rằng 
có những sự khác biệt nhất định giữa các tiêu chuẩn 
về việc tính toán kiểm tra khả năng chịu cắt của dầm 
BTCT không có cốt thép đai. 
- Theo ACI và EC2, khả năng chịu cắt của bê tông 
phụ thuộc vào ba thành phần (1) khả năng chịu cắt 
của bê tông vùng nén; (2) lực dính kết giữa các vật 
liệu giữa hai mặt của vết nứt và (3) khả năng chịu cắt 
của cốt thép dọc hay còn gọi là lực chốt. Trong khi đó, 
các thành phần tạo nên khả năng chịu cắt của bê tông 
không được trình bày kỹ trong TCVN. 
- Theo ACI và EC2, khả năng chịu cắt của bê tông 
tỷ lệ với căn bậc hai hoặc bậc ba cường độ chịu nén 
QUY CHUẨN – TIÊU CHUẨN 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2014 69
đặc trưng của bê tông, trong khi đó theo TCVN, giá trị 
này tỷ lệ với cường độ chịu kéo tính toán của bê tông 
(bằng cường độ chịu kéo đặc trưng chia cho hệ số an 
toàn của vật liệu). Hệ số an toàn của vật liệu được 
đưa vào hệ số an toàn tổng thể trong ACI (thông qua 
 ở công thức (18)), còn trong EC2 hệ số an toàn này 
được đưa vào ngay từ khi tính cường độ chịu cắt của 
bê tông (thông qua c ở công thức (17)). 
- Cả ACI và EC2 đều tính đến ảnh hưởng của cốt 
thép dọc đến khả năng chịu cắt của bê tông thông 
qua hệ số k và hàm lượng cốt thép dọc trong các 
công thức (16) hoặc (17). Trong khi đó, TCVN không 
đề cập đến vấn đề này. 
- ACI cho phép tính đến sự kết hợp giữa mô men 
và lực cắt Mu và Vu khi xác định khả năng chịu cắt của 
bê tông (công thức (16), trong khi đó EC2 và TCVN 
không đề cập đến tương tác này. Tuy nhiên, ACI cũng 
đưa ra giới hạn dưới cho khả năng chịu cắt của bê 
tông mà không tính đến giá trị Mu và Vu (giá trị xấp xỉ 
theo công thức (16)). 
3.2.Dầm BTCT có cốt thép đai thẳng đứng chịu cắt 
Khác biệt lớn nhất giữa các tiêu chuẩn khi tính 
toán cốt thép đai cho dầm là ACI và TCVN dựa trên 
các công thức thực nghiệm, trong khi đó, EC2 dựa 
trên cả các công thức thực nghiệm và mô hình tính 
toán lý thuyết giàn tương đương với góc nghiêng của 
vết nứt thay đổi để xác định nội lực trong các thành 
phần chịu lực cắt. 
3.2.1. Theo ACI 
Góc nghiêng của vết nứt do cắt gây ra trong dầm 
nghiêng với trục dầm khoảng 450, thực chất ACI lấy 
một cách gần đúng rằng hình chiếu của vết nứt gây ra 
trong dầm do cắt lên trục hoành bằng với chiều cao 
làm việc của tiết diện. Thực nghiệm cho thấy rằng, giả 
thiết này là rất thiên về an toàn trong hầu hết các 
trường hợp dầm Bernoulli [5,6]. Dầm thiết kế chịu cắt 
phải thỏa mãn điều kiện: u nV V (20), với Vn là khả 
năng chịu cắt của tiết diện cần tính cốt thép đai, Vn = 
Vc + Vs, tức là bằng khả năng chịu cắt của bê tông và 
cốt thép đai cộng lại; Vu là tổng lực cắt tính toán tại 
tiết diện đang xét. Với giả thiết vết nứt gần 450 như 
trên và chỉ xét cốt thép đai thẳng góc với trục dầm, 
điều kiện cường độ (20) được viết lại như sau: 
 v yu c
A f d
V V
s
  (21) 
Khả năng chịu cắt của bê tông Vc vẫn được tính 
toán như ở công thức (16) với điều kiện hạn chế là 
Vud  Mu, để đảm bảo rằng vết nứt xiên sẽ được hình 
thành, và ' 0,7cf MPa , để thể hiện khả năng chịu 
cắt tối đa của bê tông chỉ đạt đến 8 MPa trong mọi 
trường hợp. 
Ngoài ra để đảm bảo rằng bê tông không bị ép vỡ 
trên dải nghiêng theo vết nứt, ứng suất cắt trung bình 
trên tiết diện phải thỏa mãn '
w
0,07u c
V f
b d
   (22). 
Nếu điều kiện (22) không được thỏa mãn, chúng 
ta phải tăng kích thước tiết diện hoặc tăng cường độ 
chịu nén đặc trưng của bê tông. Việc thiết kế chịu cắt 
theo ACI khá đơn giản, thông thường chúng ta sẽ tính 
khả năng chịu cắt của bê tông, giả thiết đường kính 
cốt thép đai theo cốt thép dọc trong dầm rồi từ đó xác 
định khoảng cách cốt thép đai phụ thuộc vào giá trị 
lực cắt tính toán theo phương trình (22). 
3.2.2.Theo TCVN 5574:2012 
Điều kiện kiểm tra đầu tiên khi thiết kế cốt thép đai 
cho dầm BTCT chịu cắt là kiểm tra khả năng chịu lực 
trên dải nghiêng giữa các vết nứt: 
w1 1 00,3 b bQ R bh  (23); trong đó w1 = 1 + 5w  1,3 
với  = Es/Eb, w = Asw/(bs); b1 = 1 – 0,1Rb cho bê 
tông nặng, Rb là cường độ chịu nén tính toán của bê 
tông, theo MPa; h0 là chiều cao làm việc của tiết diện. 
Nếu điều kiện (23) không được đảm bảo, chúng ta 
phải tăng kích thước tiết diện hoặc tăng cấp độ bền 
của bê tông chịu nén. Điều kiện kiểm tra cường độ đối 
với dầm chịu cắt là wb sQ Q Q  (24). Qb là khả năng 
chịu cắt của bê tông, xác định theo công thức: 
   
2
2 0
3 0
1
1b f n btb b f n bt
R bh
Q R bh
c
  
  
 
    (25) 
trong đó: b2 = 2 với bê tông nặng; f là hệ số xét 
đến ảnh hưởng của cánh chịu nén trong tiết diện chữ 
T và chữ I, nó bằng 0 với tiết diện chữ nhật; n = 0 đối 
với dầm vì lực dọc nhỏ; Rbt là cường độ chịu kéo tính 
toán của bê tông. w ww s
s s
s
R AQ c là khả năng chịu cắt 
của các cốt thép đai mà mặt cắt nghiêng của vết nứt 
cắt qua, với Rsw mà cường độ chịu cắt tính toán của 
cốt thép đai và Asw là diện tích tiết diện ngang của 1 
đai. Tiêu chuẩn TCVN không đề cập tới góc nghiêng 
của vết nứt này mà dựa trên việc cực tiểu hóa vế phải 
của phương trình (24), để từ đó đi tìm tiết diện 
QUY CHUẨN – TIÊU CHUẨN 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2014 70
nghiêng nguy hiểm nhất c0. Dễ dàng nhận được 
  22 0
0
w w
1b n f bt
s s
R bh s
c
R A
   
 từ việc xác định 
dQsw/dc = 0. Do đó khả năng chịu cắt tối thiểu của cốt 
thép đai trên tiết diện nghiêng nguy hiểm nhất là: 
w w
w 0s
s s
s
R AQ c (26) 
Thay giá trị Qsw từ phương trình 
(26), giá trị c0 đã tìm được ở trên và các hệ số cho bê 
tông nặng, công thức kiểm tra hoặc thiết kế cốt thép 
đai sẽ trở thành: 
 2 w w08 s
s s
bt
A RQ R h b (27) [11]. Phương trình (27) 
dùng để thiết kế cốt thép đai chịu lực cắt. 
3.2.3. Theo EC2 
Với cách tiếp cận hoàn toàn khác, EC2 dựa trên 
mô hình giàn ảo với phương pháp góc nghiêng của 
phần bê tông chịu nén thay đổi để thiết kế cốt thép đai 
chịu cắt cho dầm BTCT. Để xác định các phương 
trình tính toán, tác động của một dầm BTCT khi chịu 
cắt được đại diện bởi một hệ giàn ảo tương đương 
như trên hình 6. Bê tông tác dụng như thanh chịu nén 
ở đỉnh và các thanh chịu nén xiên nghiêng một góc  
so với trục hoành. Thanh ở đáy giàn ảo là cốt thép 
kéo nằm ngang và các thanh cốt thép đai sẽ tạo thành 
các thành phần thẳng đứng chịu kéo của giàn. 
Hình 6. Sự phân bố của các lực cắt nội lực trong dầm với cốt đai đứng [7] 
Cần nhấn mạnh rằng, mô hình giàn ảo thể hiện 
ứng xử chịu cắt tất cả các lực cắt sẽ được chịu bởi 
các cốt thép đai thẳng đứng mà không có sự tham gia 
của bê tông. Góc nghiêng  tăng với độ lớn của lực 
cắt lớn nhất trong dầm và vì vậy với các lực nén trong 
các thanh giàn xiên. EC2 quy định rằng góc nghiêng 
này thay đổi từ 220 đến 450. Trong hầu hết các trường 
hợp chịu tải trọng phân bố đều thì góc nghiêng này là 
220 nhưng đối với các tải trọng tập trung lớn nó có thể 
lớn hớn để chống lại việc ép vỡ bê tông của thành 
phần xiên này. Việc phân tích nội lực theo mô hình 
giàn này sẽ được thực hiện theo cách thức sau: 
- Giả thiết cường độ chịu nén của thanh giàn xiên 
bê tông và góc nghiêng  của nó; 
- Tính toán cốt thép chịu cắt yêu cầu Asw/s cho 
các thanh giàn thẳng đứng; 
- Tính toán cốt thép chịu kéo phụ thêm Asl cho 
thanh giàn ở phía dưới. 
 a. Dải bê tông chịu nén và góc nghiêng  
Lực cắt tác dụng lên tiết diện phải được hạn chế 
sao cho các ứng suất nén quá lớn không xảy ra trong 
thanh giàn chịu nén dẫn đến sự phá hoại của bê tông 
chịu nén. Vì vậy lực cắt thiết kế lớn nhất VRd,max được 
hạn chế bởi cường độ chịu nén của thanh giàn xiên 
và thành phần đứng của nó trong mô hình giàn trên. 
Dựa vào hình 6, diện tích tiết diện ngang hiệu quả của 
bê tông tác dụng như một thanh giàn xiên chịu nén 
được xác định bởi bwzcos và ứng suất chịu nén 
thiết kế của bê tông fcd = fck / c = fck /1.5. Ta có: 
Cường độ tối đa của thanh dang chịu nén = Ứng suất 
thiết kế lớn nhất  diện tích tiết diện ngang = (fck /1,5) 
 (bwzcos) và thành phần đứng của nó = [(fck /1,5) 
 (bwzcos)]  sin. 
Vậy  
 
w
, ax w os sin /1,5= 1,5 cot tan
ck
Rd m ck
f b zV f b zc  
 
Theo EC2 [8], phương trình này được thay đổi bởi việc thêm vào hệ số 1 kể để cường độ bê tông bị giảm 
xuống khi nứt do cắt, nên
 
w 1
, ax = 1,5 cot tan
ck
Rd m
f b zV 
 
. Với 1 = 0,6 (1 – fck/250) và thay thế z = 0,9d ta có: 
QUY CHUẨN – TIÊU CHUẨN 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2014 71
 
 
w
, ax
0,36 1 / 250
=
cot tan
ck ck
Rd m
b d f f
V
 
 (28) 
Để đảm bảo thanh giàn xiên chịu nén không bị ép 
vỡ, ta cần kiểm tra điều kiện VEd  VRd,max (29), với VEd 
là giá trị lực cắt ngoại lực tại tiết diện cần tính cốt thép 
đai. Điều kiện này cần phải kiểm tra cho giá trị lực cắt 
lớn nhất trên suốt chiều dài dầm, thông thường tại vị 
trí mép gối tựa, VEf, nên VEf  VRd,max. 
Như đã đề cập ở trên, EC2 quy định góc nghiêng 
 thay đổi từ 220 đến 450. 
- Với  = 220 (thường phù hợp với tải trọng phân 
bố đều): 
Từ phương trình (29) ta có: 
 , ax(22) w=0,124b 1 / 250Rd m ck ckV d f f (30) 
Nếu VRd,max(22)  VEf thì một giá trị lớn hơn của  
nên được lựa chọn sao cho dải bê tông chịu nén xiên 
có giá trị thành phần đứng cân bằng với VEd. 
- Với  = 450 (giá trị lớn nhất của  cho phép bởi 
EC2): 
Từ phương trình (29) ta có: 
 , ax(45) w=0,18b 1 / 250Rd m ck ckV d f f (32). Đây là giá trị 
cận trên của cường độ thanh giàn xiên chịu nén trong 
mô hình giàn tương đương. Nếu VRd,max(22)  VEf thì ta 
phải tăng kích thước tiết diện hoặc tăng cường độ 
chịu nén đặc trưng của bê tông. 
- Với  nằm giữa 220 và 450: 
Giá trị cần thiết của  có thể xác định từ việc cân bằng VRd,max = VEd và việc xác định  từ phương trình 
(28) như sau: 
 
 
w
, ax
0,36 1 / 250
=
cot tan
ck ck
Ed Rd m
b d f f
V V
 
. Vì 
 
 1 sin os =0.5sin 2
cot tan
c  
 
nên ta có 
được: 
 
1 0
w
0,5sin 45
0,18 1 / 250
Ed
ck ck
V
b d f f
 
    
  
hay 1 0
, ax(45)
0,5sin 45Ed
Rd m
V
V
 
  
  
  
 (31) 
 b. Cốt thép đai thẳng đứng 
Như đã đề cập, tất cả lực cắt sẽ được kháng lại bởi các cốt thép đai mà không có sự đóng góp nào từ khả 
năng chịu cắt của bản thân bê tông. Sử dụng các phương pháp của mặt cắt ta có thể thấy tại mặt cắt X-X như 
trên hình 6, nội lực trong các cốt thép đai đứng (Vwd) phải cân bằng với lực tác dụng (VEd), tức là: 
w w
wd wd w yk w0,871.15
yk s yk s
Ed y s s
s
f A f A
V V f A f A
     
Nếu tất cả các cốt thép đai được đặt với một khoảng cách s, số lượng đai trên đoạn chiều dài đi qua khe 
nứt zcot là (zcot)/s ; do đó lực cắt trong mỗi cốt thép đai sẽ bị giảm một cách tương ứng và được xác định 
bởi wd yk w
cot0,87Ed s
zV V f A
s
  . Nếu thay thế z = 0.9 d, ta rút ra được: w
s 0,78 cot
s Ed
yk
A V
df 
 (32) 
Phương trình (34) dùng để bố trí cốt thép đai và 
sẽ phụ thuộc vào giá trị góc nghiêng  sử dụng trong 
quá trình tính toán. Đối với hầu hết các trường hợp 
với các tải trọng phân bố đều góc nghiêng  sẽ bằng 
220 và cot = 2,5. Nếu không thì giá trị  sẽ được xác 
định từ phương trình (33). Phương trình (34) có thể 
được sắp xếp lại để xác định khả năng chịu lực của 
cốt thép đai VRd,s đối với một hình dạng cốt thép đai 
nhất định Asw/s. 
Ta có w, 0,78 cots
s
Rd s yk
AV df  (33) 
Thông thường, việc thiết kế cốt thép đai thường 
được thực hiện theo phương pháp thử và sai, có 
nghĩa là chúng ta lựa chọn hình dạng cốt thép đai, 
khoảng cách rồi đi xác định khả năng chịu lực cắt là 
giá trị nhỏ hơn trong hai phương trình (29) và (35) sau 
đó so sánh với giá trị VEd. 
 c. Lực dọc tác dụng phụ thêm trong cốt thép chịu uốn 
Khi sử dụng phương pháp giàn ảo để tính toán 
cốt thép đai, ta phải kể thêm một lực dọc tác dụng lên 
cốt thép chịu kéo gây ra bởi VEd. Lực kéo dọc Ftd 
được gây ra bởi các thành phần ngang để cân bằng 
với lực nén trong thanh giàn nén nghiêng. Giải lại các 
lực ngang trong mặt cắt Y-Y như trên hình 6, thành 
phần lực dọc trong thanh giàn chịu nén là: Lực dọc = 
(VEd/sin)  cos = VEd cot. Nếu giả sử rằng, một 
nửa lực này được chịu bởi cốt thép trong vùng kéo 
QUY CHUẨN – TIÊU CHUẨN 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2014 72
của dầm và được xác định theo: Ftd = 0,5 VEd cot 
(34). 
Để chịu được lực dọc phụ thêm này, tại bất kỳ tiết 
diện nào, ta cần phải cung cấp thêm một lượng cốt 
thép dọc bổ sung cho cốt thép dọc được thiết kế chịu 
uốn thông thường. Trong thực tế, việc tăng chiều dài 
cắt thép của cốt thép dọc chịu kéo phía dưới thường 
đảm bảo điều kiện yêu cầu nêu ở trên. 
3.2.4. Nhận xét 
Sự khác nhau giữa việc thiết kế cốt thép đai thẳng 
đứng trong các tiêu chuẩn có thể được tổng hợp như 
sau: 
- ACI và TCVN chủ yếu dựa trên sự làm việc thực 
nghiệm để hình thành công thức tính toán cốt thép 
đai. Cả hai tiêu chuẩn này đều kể đến sự đóng góp 
của bê tông vào khả năng chịu cắt tổng thể của dầm. 
Trong khi đó EC2 dựa trên cả thực nghiệm lẫn mô 
hình giàn ảo dùng để xác định nội lực trong các thành 
phần của dầm. EC2 không kể đến sự đóng góp của 
bê tông tới khả năng chịu cắt tổng thể của dầm khi có 
cốt thép đai; 
- Tương tự như trường hợp dầm bê tông cốt thép 
không có cốt thép đai, việc thiết kế cốt thép đai của 
ACI dựa trên thực nghiệm với vết nứt nghiêng với trục 
hoành một góc khoảng 450; TCVN thì dựa trên tiết 
diện nghiêng nguy hiểm nhất, thông qua mô hình đại 
số; EC2 dựa trên thực nghiệm và mô hình giàn ảo 
đơn giản với góc nghiêng thay đổi từ 220 đến 450, phụ 
thuộc vào tải trọng và dạng liên kết của dầm; 
- Khi thiết kế cốt thép đai TCVN không kể đến sự 
tương tác giữa mô men uốn và lực cắt và sự có mặt 
của cốt thép dọc; ACI và EC2 thì kể đến nó khi tính 
toán khả năng chịu lực cắt của bê tông; 
- Với các công thức lập được, việc tính toán cốt 
thép đai của cả ba tiêu chuẩn đều khá giống nhau, 
hoặc dựa trên phương pháp thử và sai hoặc dựa trên 
việc giả thiết đường kính cốt thép đai, số nhánh của 
nó rồi đi tính toán khoảng cách cần thiết để nó chịu đủ 
lực cắt ngoại lực trên tiết diện nghiêng; 
- Với việc sử dụng mô hình giàn ảo, EC2 cho 
chúng ta hiểu rõ hơn nguyên nhân tại sao cần kéo dài 
cốt thép dọc chịu kéo ở phía dưới của cấu kiện, với 
mục đích là đảm bảo khả năng chịu lực phụ thêm 
trong cốt thép dọc chịu kéo do lực cắt gây ra. 
4. Kết luận 
Trong bài báo này, ứng xử của dầm BTCT chịu 
uốn và cắt đã được trình bày dựa trên tổng hợp một 
số tài liệu đã xuất bản. Bên cạnh đó, việc thiết kế cắt 
cho dầm BTCT theo ba tiêu chuẩn TCVN, ACI và EC2 
cũng đã được giới thiệu. Thông qua ứng xử của dầm 
BTCT khi chịu uốn, cắt và việc so sánh ba tiêu chuẩn 
này chúng ta có thể rút ra một số kết luận sau: 
Dầm BTCT có thể bị phá hoại trên tiết diện 
nghiêng do sự kết hợp giữa uốn và cắt. Vết nứt xiên 
có góc nghiêng thay đổi, tùy thuộc vào loại tải trọng 
tác dụng và vào liên kết của dầm. Ứng xử của dầm 
phụ thuộc vào khả năng chịu nén trên tiết diện 
nghiêng và vào khả năng chịu cắt của dầm trên tiết 
diện nghiêng đó, bao gồm bốn thành phần chính (1) 
khả năng chịu cắt của vùng bê tông chưa bị nứt (Vcz); 
(2) khả năng chịu cắt do liên kết các thành phần cấp 
phối giữa hai mặt của vết nứt (Viy); (3) khả năng chịu 
cắt của cốt thép dọc (Vd); (4) khả năng chịu cắt của 
cốt thép đai (VRd,s). 
Tiêu chuẩn EC2 bỏ qua sự đóng góp của bê tông 
cho khả năng chịu cắt của dầm nhưng góc nghiêng 
của vết nứt thay đổi tùy thuộc vào tải trọng. Ngược 
lại, ACI và TCVN có kể đến sự đóng góp của bê tông 
khi chịu cắt nhưng góc nghiêng của vết nứt cố định. 
Việc áp dụng ACI là dễ dàng nhất vì các điều 
khoản tính toán rõ ràng và đơn giản. EC2 là tiêu 
chuẩn thể hiện rõ nhất sự làm việc của dầm khi chịu 
uốn và cắt. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. LÊ NGỌC HỒNG, “Sức bền vật liệu”, Nhà xuất bản 
khoa học kỹ thuật, 2006. 
2. TCVN 5574:2012, “Kết cấu bê tông và bê tông cố thép 
– Tiêu chuẩn thiết kế”, Nhà xuất bản Xây dựng, 2012. 
3. ACI 318 – 08, “Building Code Requirements for 
Structural concrete (ACI 318 – 08) and Commentary”, 
American Concrete Institute, 2008. 
4. Eurocode 2, EN1992-1-1, “Design of concrete structures – 
Part 1-1: General rules and rules for buildings”, 2004. 
5. R. PARK and T. PAULAY, “Reinforced Concrete 
Structures”, A Wiley-Interscience Publication, John Wiley 
and Sons, NewYork, London, Sydney and Toronto, 1974. 
6. ATHUR H. NILSON, DAVID DARWIN, CHARLES 
W.DOLAN, “Design of Concrete Structures”, Mc Graw 
Hill Higher Education, 14th edition, 2010. 
7. R. S. NARAYANAN and A. BEEBY, “Designer’s Guide to 
EN1992-1-1 and EN1992-1-2 Eurocode 2: Design of 
concrete structures. General rules and rules for buildings and 
structural fire design” Thomas Telford Publication, 2005. 
8. PHAN QUANG MINH, NGÔ THẾ PHONG, NGUYỄN 
ĐÌNH CỐNG, “Kết cấu bê tông cốt thép – Phần Cấu 
kiện cơ bản”, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, 2006. 
Ngày nhận bài sửa: 2/9/2014. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 phungngocdung_3_2014_3051.pdf phungngocdung_3_2014_3051.pdf