Chúng tôi không bàn luận nhiều đến các
nhóm thuốc gây phản ứng có hại ghi nhận được
do tỷ lệ chỉ chiếm một phần nhỏ và đều là các
loại thuốc đã được cảnh báo trên y văn như
nhóm kháng sinh cephalosporin, nhóm kháng
viêm non-steroid, thuốc điều trị bệnh gout đặc
biệt là allopurinol, kháng động kinh, kháng
lao(2,3,4,5). Tuy nhiên đây là năm đầu tiên chúng tôi
nhận điều trị bệnh nhân có phản ứng đối với
thuốc cản quang, mặc dù số lượng chỉ là 4 ca
nhưng cũng đã được ghi nhận và báo cáo cho
trung tâm DI và ADR và đã được cảnh giác trên
tạp chí của trung tâm .
Vấn đề cần quan tâm nhất không chỉ đối với
thầy thuốc mà còn đối với những người làm
công tác quản lý là tỷ lệ bệnh nhân không cung
cấp được tên thuốc đã uống sau khi xảy ra phản
ứng có hại chiếm tỷ lệ tới 71,3%. Đa số bệnh
nhân không nhớ hay không biết tên thuốc (tự
mua ở nhà thuốc, bác sỹ không kê đơn), bệnh
nhân được chuyển từ tuyến dưới nhưng không
ghi tên thuốc trong giấy tờ chuyển viện và kể cả
sử dụng rất nhiều loại thuốc trong quá trình
bệnh. Tất cả những điều này dự đoán nguy cơ
bệnh nhân bị phản ứng có hại khi sử dụng lại
thuốc đã dùng. Điểm yếu của nghiên cứu là
không thu thập được thông tin tiền sử phản ứng
thuốc trước đó của bệnh nhân. Đây là những vấn
đề tồn tại cần khắc phục trong công tác kê đơn,
bán thuốc và hành nghề y dược tư nhân, cũng
như thực hiện các quy chế chuyên môn trong
điều trị tại bệnh viện và kể cả công tác tuyên
truyền giáo dục sức khỏe cho người dân.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 125 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phản ứng có hại của thuốc - Những nguy cơ tiềm ẩn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 330
PHẢN ỨNG CÓ HẠI CỦA THUỐC - NHỮNG NGUY CƠ TIỀM ẨN
Nguyễn Ngọc Sang*, Hoàng Lan Phương*, Trần Quang Bính*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phản ứng có hại của thuốc (Adverse Drug Reactions - ADRs) là một trong những yếu tố quan
trọng nhất để đánh giá sự an toàn của một loại thuốc. Trên thực tế nhiều phản ứng có hại nghiêm trọng của thuốc
chỉ được phát hiện sau một thời gian dài thuốc được đưa vào sử dụng, mặc dù đã trải qua nhiều thử nghiệm lâm
sàng nghiêm ngặt.
Mục tiêu: Tìm hiểu nguyên nhân, mức độ nghiêm trọng, các yếu tố tăng nặng và tỷ lệ tử vong trên những
bệnh nhân xảy ra phản ứng có hại của thuốc.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu 215 bệnh nhân nhập khoa Bệnh Nhiệt Đới bệnh viện Chợ
Rẫy từ 01/01/2012 đến 31/12/2012 xảy ra phản ứng có hại của thuốc.
Kết quả: Trên 215 bệnh nhân, trong đó do nhóm thuốc kháng viêm 7,9%, kháng sinh 7,4%, Allopurinol
7,0%, thuốc điều trị động kinh 2,8%, thuốc kháng lao và nhóm thuốc cản quang cùng là 1,8%, không xác định rõ
nhóm thuốc 71,3 %. Mức độ nghiêm trọng của phản ứng từ đe dọa tính mạng 10,7% đến phải nhập viện hay kéo
dài thời gian nằm viện gồm hội chứng Stevens Johnson và Lyell 34,0% và các phản ứng có hại khác là 55,3%. Tử
vong 4 ca (1,9%) đều do nhiễm trùng huyết, biến chứng choáng nhiễm trùng xảy ra sau khi bị hội chứng Stevens
Johnson.
Kết luận: Tất cả các loại thuốc sử dụng ngay cả khi đúng chỉ định của thầy thuốc đều có thể gây phản ứng có
hại hay các biến cố bất lợi. Chỉ sử dụng thuốc khi thật cần thiết, có toa thuốc hay nhãn mác thuốc để nhận dạng
loại thuốc gây phản ứng. Thận trọng khi chỉ định và phối hợp thuốc sẽ làm giảm nguy cơ xuất hiện các phản ứng
có hại, qua đó làm giảm tỷ lệ tử vong.
Từ khóa: Phản ứng có hại của thuốc, các biến cố bất lợi của thuốc, sốc phản vệ, hội chứng Stevens Johnson,
hội chứng Lyell
ABSTRACT
ADVERSE DRUG REACTIONS - THE POTENTIAL RISKS
Nguyen Ngoc Sang, Hoang Lan Phuong, Tran Quang Binh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 330-334
Background: Adverse drug reactions (ADRs) is one of the most important factors to evaluate the safety of a
drug. Many adverse drug reactions are not discovered through limited pre-marketing clinical trials; instead, they
are only seen in long term, post-marketing surveillance of drug usage.
Aim of study: To be aware of causes, severity, elevated factors and mortality of patients who occurred
ADRs.
Methods: Retrospective study in 215 patients who occurred ADRs in Tropical Diseases department, Cho
Ray Hospital from 01/01/2012 to 31/12/2012.
Result: 215 patients occurred ADRs, including the antiinflammatory drugs 7.9%, antibiotics 7.4%,
Allopurinol 7.0%, anticonvulsants 2.8%, antituberculous drugs and contrast medium drugs the same 1.8%, not
* Khoa Bệnh Nhiệt Đới – BV Chợ Rẫy.
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Trần Quang Bính, ĐT: 0903841479, Email: binhtq.tranquangbinh@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 331
clearly defined group of drugs 71.3% The severity of the reaction: life-threatening accounted for 10.7%,
hospitalization or prolongation of hospitalization such as Stevens Johnson syndrome or Lyell 34.0% and other
adverse reactions 55.3%. Death in 4 cases (1.9%) were due to sepsis occurred after Stevens Johnson syndrome.
Conclusion: All drug can cause adverse reactions or adverse events. Only use when absolutely necessary
drugs, or prescription drug labels to identify drugs that cause reactions. Careful when prescribing and
combination therapy will reduce the risk of adverse reactions, thereby reducing mortality.
Key words: ADRs: Adverse Drug Reactions, ADEs: Adverse Drug Events, anaphylactic shock, Stevens
Johnson syndrome, Lyell syndrome.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phản ứng có hại của thuốc được định nghĩa
là phản ứng rõ ràng có hại, không mong muốn
do kết quả của can thiệp liên quan đến sử dụng
sản phẩm thuốc. Phản ứng này dự đoán mối
nguy hiểm cho nhà quản lý trong tương lai và
cảnh báo can thiệp hay điều trị đặc hiệu hay thay
đổi liều dùng hay rút bỏ sản phẩm(1).
Trong thực hành lâm sàng, thầy thuốc khi kê
toa cho bệnh nhân luôn phải chú ý đến cả mặt
hiệu quả điều trị và phản ứng có hại của thuốc.
Nguyên tắc hàng đầu là không gây hại cho
người bệnh (first do no harm). Tuy nhiên, phản
ứng có hại của thuốc vẫn xảy ra hàng ngày với
số lượng người bị ảnh hưởng ngày càng gia
tăng. Điều này, ngoài việc có thể đe dọa tính
mạng của người bệnh còn gây những hệ quả
kèm theo như: tác động tâm lý xã hội, chi phí
chăm sóc, thời gian điều trị kéo dài...
Khoa Bệnh Nhiệt Đới - Bệnh viện Chợ Rẫy
tổng kết đánh giá trong nghiên cứu này nhằm
cung cấp thêm thông tin về các phản ứng có hại
của thuốc và những hệ quả liên quan, giúp thầy
thuốc có thái độ thận trọng hơn trong việc kê toa
và giúp các nhà quản lý trong việc đưa ra các
cảnh báo về phản ứng có hại của thuốc cho các
đối tượng liên quan.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hồi cứu lựa chọn từ 01/01/2012
đến 31/12/2012 những bệnh nhân xảy ra phản
ứng có hại của thuốc thể hiện trên chẩn đoán ra
viện: “Hội chứng Stevens Johnson”, “Hội chứng
Lyell”, “Sốc phản vệ hay Phản ứng phản vệ do
dị ứng thuốc”, “Dị ứng thuốc”. Mức độ nghiêm
trọng của phản ứng được phân loại theo quy
định của trung tâm Quốc gia DI và ADR khu
vực phía Nam: tử vong, đe dọa tính mạng, nhập
viện/kéo dài thời gian nằm viện, dị tật thai nhi,
không nghiêm trọng.
Các biến số thu thập trong nghiên cứu
gồm tuổi, giới, địa chỉ, nghề nghiệp, chẩn
đoán ra viện, các thuốc có liên quan, tình trạng
xuất viện. Số liệu được Tổ Thống kê – Phòng
Kế hoạch Tổng hợp Bệnh viện Chợ Rẫy cung
cấp trên file excel.
KẾT QUẢ
Trong năm 2012 có 215 bệnh nhân xảy ra
phản ứng có hại của thuốc. Tuổi trung bình
47.5 (± 18,6). Tỷ lệ nam: nữ gần tương đương
(1,1:1). Bệnh được chuyển đến từ 30 tỉnh thành
phía Nam, trong đó thành phố Hồ Chí Minh
chiếm 22,5%.
Mức độ của phản ứng: đe dọa tính mạng -
choáng phản vệ hay phản ứng phản vệ: 23 ca
(10,7%), nhập viện/kéo dài thời gian nằm viện:
hội chứng Stevens Johnson hay hội chứng Lyell
73 ca (34%) và phản ứng có hại khác nhưng cần
thiết nhập viện 119 ca (55,3%). Không tìm thấy
liên quan về độ tuổi trung bình và mức độ xảy ra
các phản ứng có hại của thuốc.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 332
Phân loại nhóm thuốc xảy ra phản ứng có
hại (bảng 1).
Bảng 1: Phân loại nhóm thuốc gây phản ứng có hại
của thuốc
Nhóm thuốc Tỷ lệ %
Kháng viêm (celecoxib, aspirin, diclofenac) 7,9
Kháng sinh * 7,4
Allopurinol 7,0
Kháng động kinh (dihydan, tegretol, depakin) 2,8
Kháng lao 1,8
Cản quang 1,8
Không rõ loại (bao gồm cả đông và tân dược) 71,3
*Kháng sinh: Cephalexin (4), Amoxicillin (2), Cefuroxim
(2), Cefixime (1), Cefaclor (1), Cefpodoxim (1), Tetracyclin
(1), Spiramycin (1), Ofloxacin (1), Vancomycin (1),
Azithromycin (1).
Số trong ngoặc là số trường hợp xuất hiện phản ứng có hại
của thuốc.
Phần lớn người bệnh không biết về thuốc đã
uống (71,3%). Số người bệnh biết tên thuốc đã
uống trong choáng phản vệ hay phản ứng phản
vệ 39,1% (9/23), hội chứng Stevens Johnson /
Lyell 15% (11/73), phản ứng có hại khác 35,2%
(42/119).
Thời gian điều trị trung bình 6,8 ngày (±5,4, 1
– 37 ngày), trong đó nhóm bệnh nhân có chẩn
đoán hội chứng Stevens Johnson và hội chứng
Lyell có thời gian điều trị trung bình 10,6 ngày
(trung vị 10 ngày) so với nhóm còn lại là 4,8 ngày
(trung vị 4 ngày).
Bệnh nhân tử vong 4 trường hợp (1,9%) đều
có chẩn đoán Hội chứng Stevens Johnson biến
chứng nhiễm trùng huyết, choáng nhiễm trùng.
Không có bệnh nhân nào tử vong do choáng
phản vệ hay phản ứng phản vệ.
BÀN LUẬN
Thuốc được kê toa cho bệnh nhân với mục
đích duy nhất là chữa bệnh. Tuy nhiên thuốc
cũng là nguyên nhân làm bệnh nhân phải nhập
viện, từ mức độ chỉ là phản ứng dị ứng da dạng
sẩn đỏ kèm ngứa cho đến đe dọa đến tính mạng
trong sốc phản vệ.
Lượng người bệnh phải nhập viện điều trị
do phản ứng có hại của thuốc tăng dần qua từng
năm. Số liệu thống kê trong 9 năm của khoa
Bệnh Nhiệt Đới cho thấy, không chỉ gia tăng về
số lượng bệnh, mà còn về mức độ nguy hiểm.
Phân loại ở mức độ nghiêm trọng chiếm tới 40-
45% trong số bệnh nhân nhập viện vì phản ứng
có hại của thuốc cho riêng hai năm 2011 và 2012
(Bảng 2).
Bảng 2: Số bệnh nhân xảy ra phản ứng có hại của
thuốc từ năm 2004- 2012.
Năm
Tổng số
bệnh nhân
ADR
Mức độ nghiêm trọng
Tử vong* Đe dọa tính
mạng
Nằm viện
kéo dài
2004 70 2 11 0
2005 109 7 14 0
2006 140 3 34 7
2007 152 3 48 6
2008 160 6 56 11
2009 167 5 71 3
2010 159 5 51 8
2011 222 10 77 6
2012 215 23 73 4
*Tử vong do nhiễm trùng huyết, choáng nhiễm trùng, hậu
quả của bội nhiễm da.
Tổng kết của chúng tôi phân loại các mức
độ phản ứng có hại theo Trung tâm DI và
ADR khu vực phía Nam: phản ứng có hại đe
dọa tính mạng và cần nhập viện/kéo dài thời
gian nằm viện chiếm tỷ lệ gần 45% (chỉ tính
những ca choáng phản vệ hay phản ứng phản
vệ, hội chứng Stevens Johnson và hội chứng
Lyell) có thể do bệnh viện Chợ Rẫy là địa
điểm tiếp nhận bệnh tuyến cuối. Tỷ lệ này cao
hơn trong báo cáo của Trung tâm Quốc gia về
Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại
của thuốc từ 2006 - 2008: các phản ứng mức độ
nhẹ và hồi phục không để lại di chứng chiếm
hơn 80%, phản ứng đe dọa tính mạng là 0,7%
và để lại di chứng là 1%(2).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 333
Tỷ lệ tử vong 1,9% không trực tiếp do phản
ứng có hại của thuốc mà đều là hậu quả dẫn đến
từ hội chứng Stevens Johnson. Bệnh nhân tử
vong trong bệnh cảnh nhiễm trùng huyết,
choáng nhiễm trùng. Tuy nhiên, nếu chỉ tính
trên bệnh nhân bị hội chứng Stevens Johnson thì
tỷ lệ này là 5,5% (4/73). Tỷ lệ này thấp hơn so với
báo cáo của tác giả Maja Mockenhaupt: tử vong
trong hội chứng Stevens Johnson là 10%, hội
chứng Lyell là 30%(4).
Choáng phản vệ và phản ứng dạng phản vệ
có tỷ lệ khá cao nhưng không nghi nhận có
trường hợp tử vong tại bệnh viện. Đây có thể
xem như thành công trong công tác tập huấn,
hướng dẫn thực hiện phác đồ cấp cứu choáng
phản vệ được Bộ Y tế ban hành kèm theo kiểm
tra định kỳ của bệnh viện. Mặc dầu vậy chúng
tôi chưa loại trừ khả năng những ca choáng
phản vệ nặng đã không kịp cấp cứu trước khi
đến bệnh viện.
Chúng tôi không bàn luận nhiều đến các
nhóm thuốc gây phản ứng có hại ghi nhận được
do tỷ lệ chỉ chiếm một phần nhỏ và đều là các
loại thuốc đã được cảnh báo trên y văn như
nhóm kháng sinh cephalosporin, nhóm kháng
viêm non-steroid, thuốc điều trị bệnh gout đặc
biệt là allopurinol, kháng động kinh, kháng
lao(2,3,4,5). Tuy nhiên đây là năm đầu tiên chúng tôi
nhận điều trị bệnh nhân có phản ứng đối với
thuốc cản quang, mặc dù số lượng chỉ là 4 ca
nhưng cũng đã được ghi nhận và báo cáo cho
trung tâm DI và ADR và đã được cảnh giác trên
tạp chí của trung tâm .
Vấn đề cần quan tâm nhất không chỉ đối với
thầy thuốc mà còn đối với những người làm
công tác quản lý là tỷ lệ bệnh nhân không cung
cấp được tên thuốc đã uống sau khi xảy ra phản
ứng có hại chiếm tỷ lệ tới 71,3%. Đa số bệnh
nhân không nhớ hay không biết tên thuốc (tự
mua ở nhà thuốc, bác sỹ không kê đơn), bệnh
nhân được chuyển từ tuyến dưới nhưng không
ghi tên thuốc trong giấy tờ chuyển viện và kể cả
sử dụng rất nhiều loại thuốc trong quá trình
bệnh. Tất cả những điều này dự đoán nguy cơ
bệnh nhân bị phản ứng có hại khi sử dụng lại
thuốc đã dùng. Điểm yếu của nghiên cứu là
không thu thập được thông tin tiền sử phản ứng
thuốc trước đó của bệnh nhân. Đây là những vấn
đề tồn tại cần khắc phục trong công tác kê đơn,
bán thuốc và hành nghề y dược tư nhân, cũng
như thực hiện các quy chế chuyên môn trong
điều trị tại bệnh viện và kể cả công tác tuyên
truyền giáo dục sức khỏe cho người dân.
KẾT LUẬN
Phản ứng có hại của thuốc là mặt trái của
điều trị thuốc dù không mong muốn vẫn xảy ra
trong thực hành lâm sàng hàng ngày. Thái độ
cảnh giác của người thầy thuốc là rất quan trọng,
không chỉ nhận dạng đúng các loại phản ứng có
hại của thuốc để có thái độ xử trí kịp thời mà còn
cần chủ động phòng ngừa để hạn chế đến mức
thấp nhất tác hại gây ra do thuốc. Để làm được
điều này người thầy thuốc cần trang bị cho mình
đầy đủ kiến thức về thuốc, luôn tuân thủ nguyên
tắc kê đơn. Thuốc chỉ được kê đơn khi cần thiết,
cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ đối với người
bệnh. Ðiều này đặc biệt quan trọng khi kê đơn
cho người mang thai, người cho con bú, người
cao tuổi, người có bệnh thận, bệnh gan hoặc có
cơ địa dị ứng. Một đơn thuốc phải thể hiện được
các yêu cầu: hiệu quả chữa bệnh cao, an toàn
trong dùng thuốc, tiết kiệm chi phí và phù hợp
với bệnh nhân(7).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 334
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Edwards IR, Aronson JK. Lancet.(2000). Adverse drug reactions:
definitions, diagnosis, and management; Lancet, 356(9237):1255-9.
2. Lê Thị Phương Thảo, Võ Thị Thu Thủy, Hoàng Thanh Mai,
Trần Thu Thủy, Nguyễn Hoàng Oanh. (2012). Phân tích thực
trạng báo cáo phản ứng có hại (ADR) của thuốc tại các cơ sở ở Việt
Nam trong giai đoạn từ 2006-2008. Tạp chí y học thực hành.
3. Mockenhaupt M. (2011). The current understanding of Stevens–
Johnson syndrome and toxic epidermal necrolysis; Expert Rev.
Clin. Immunol. 7(6), 803–815
4. Mockenhaupt M. (2012).. Allopurinol is the most frequent cause of
Stevens–Johnson syndrome and toxic epidermal necrolysis; Expert
Rev. Dermatol. 7(3), 213–215
5. Solensky R, Khan DA (2010); Drug Allergy: An Updated Practice
Parameter; Annals Of Allergy, Asthma & Immunology, 15
(273) e1 – e78.
6. Wen-Yang Lin, He-Yi Li, Jhih-Wei Du, Wen-Yu Fen, Chiao-
Feng Lo and Von-Wun Soo. (2012). iADRs: towards online
adverse drug reaction analysis. SpringerPlus 2012, 1:72.
7. WHO. (1994) Guide to Good Prescribing: A practical manual,
WHO/DAP/94.11
Ngày nhận bài: 11/02/2013
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 16/08/2013
Ngày bài báo được đăng: 30/05/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_ung_co_hai_cua_thuoc_nhung_nguy_co_tiem_an.pdf