Viêm gan siêu vi C: Có 2 nghiên cứu không ghi nhận được nguy cơ độc gan do INH với viêm gan
siêu vi C. Một nghiên cứu đoàn hệ tại Baltimore Maryland với 146 người nghiện chích ma tuý có
IDR(+) mà trong đó 95% bị nhiễm siêu vi viêm gan C và được điều trị lao sơ nhiễm với INH, lúc bắt
đầu trị các thông số về các men gan cao không quá 3 lần giới hạn trên của trị số bình thường và trong
đó 25% bị nhiễm HIV(+) và được làm xét nghiệm máu hàng tháng đã cho thấy có 32 bệnh nhân
(22%) có các trị số men gan tăng cao trên 5 lần giới hạn trên của trị số bình thường. Các kết quả xét
nghiệm máu không bình thường có liên quan đến việc uống rượu nhưng không liên quan với sắc tộc,
tuổi tác, viêm gan siêu vi B mạn tính hoặc nhiễm HIV(+). Cả tần suất viêm gan cũng như tần suất phải
ngưng trị với INH đều nằm trong giới hạn bình thường của một quần thể sống trong vùng có lưu hành
độ nhiễm HCV thấp (10 tới 22% và 0,1 – 10%). Một nghiên cứu thứ 2 tại Tây Ban Nha cho thấy chỉ
những người uống rượu nhiều và những người có nồng độ men gan cơ bản cao là có liên quan đến độc
gan do INH. Qua phân tích đơn biến của nghiên cứu cho thấy sự hiện diện của kháng thể HCV là có
liên quan đến phản ứng độc gan(3,5,13). 30% những người nhiễm viêm gan siêu vi C bị phản ứng độc
gan do thuốc lao so với 11% không bị nhiễm siêu vi C. Đồng nhiễm HIV HCV có nguy cơ bị phản
ứng cao hơn gấp 14 lần(5,13).
Các yếu tố khác làm gia tăng tần suất và độ nặng của phản ứng độc gan: Khi sử dụng cùng lúc với
các thuốc như Rifampicine, khi bị suy dinh dưỡng, khi đã bị phản ứng độc gan do INH lúc trước và
tiếp tục sử dụng INH khi đã có triệu chứng độc gan là có liên quan đến phản ứng độc gan do thuốc
INH(7). Nhiều nghiên cứu cho thấy uống rượu là một yếu tố tiên lượng độc gan do thuốc lao trong khi
2 nghiên cứu khác không ghi nhận sự khác biệt(13).
Mục C và D cho thấy tỷ lệ phản ứng độc gan và không bị phản ứng độc gan ở bệnh nhân
lao/HIV(+) có huyết thanh dương tính với kháng thể VGSV B, C khác nhau không có ý nghĩa thống210
kê p = 0,796; 31,25% (10/32) bệnh nhân nhiễm HIV(+) có huyết thanh dương tính với kháng thể
VGSV B, C có trị số men gan ALT > 45U/L (p = 0,017) và có liên quan đến tình trạng miễn dịch (p =
0,025) khi so sánh với bệnh nhân nhiễm HIV(+) mắc lao với trị số men gan > 45U/L chúng tôi ghi
nhận tỷ lệ đồng nhiễm VGSV B, C ở bệnh nhân lao/HIV(+) là 96,84% nhiều hơn so với 28,13% bệnh
nhân nhiễm HIV(+) đơn thuần (có liên quan đến độ tuổi p = 0,042 và theo tình trạng miễn dịch p =
0,015).
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 11 trang
11 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 357 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Phản ứng độc gan và số lượng men gan ALT ở bệnh nhân lao/HIV(+) điều trị lao, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 201
PHẢN ỨNG ĐỘC GAN VÀ SỐ LƯỢNG MEN GAN ALT 
Ở BỆNH NHÂN LAO/HIV(+) ĐIỀU TRỊ LAO 
Lê Văn Nhi* 
TÓM TẮT 
Mở ñầu: Tỷ lệ men gan có thể tăng từ 10 – 20% ở bệnh nhân lao/HIV(+) khi ñiều trị với thuốc kháng 
lao và những bệnh nhân AIDS này có nguy cơ phát triển phản ứng ñộc gan rất nhiều khi sử dụng các thuốc 
ñặc trị lao. 
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát mối liên quan giữa phản ứng ñộc gan và số lượng men gan ALT ở những 
bệnh nhân lao/HIV(+) ñược ñiều trị với các thuốc kháng lao. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang với ñối tượng là những bệnh nhân nhiễm 
HIV(+) bị mắc lao (mới) và không mắc lao. 
Kết quả: 25% (5/20) bệnh nhân lao/HIV(+) bị phản ứng ñộc gan có trị số men gan ≥ 45U/L; 10% (2/20) có 
ALT cao gấp 2 3 lần, 5% (1/20) ALT cao gấp 4 – 5 lần. Nôn và buồn nôn là các triệu chứng thường gặp ở bệnh 
nhân lao/HIV(+) ñang khi ñiều trị với thuốc lao (75% 15/20; p = 0,000). Nghiên cứu ghi nhận mối liên quan giữa 
tần suất ñộc gan và tuổi (p > 0,05), giới tính (p > 0,05), tình trạng huyết thanh dương tính với kháng thể viêm gan 
siêu vi B, C (VGSV B, C) (p > 0,05) và tình trạng miễn dịch – số lượng TCD4 (p = 0,053). 
Kết luận: Tỷ lệ bị phản ứng ñộc gan ở bệnh nhân lao/HIV(+) là 20%, 75% bị phản ứng ñộc gan có trị số 
men gan ALT < 45 U/L. Sốt, nôn và buồn nôn là các triệu chứng thường gặp khi ñiều trị lao và tỷ lệ tử vong 
tăng khi TCD4 45U/L. Tần suất ñộc gan không liên quan ñến tuổi tác, giới tính, cân nặng 
và tình trạng huyết thanh dương tính với kháng thể VGSV B, C nhưng có tương quan ñến tình trạng miễn 
dịch của bệnh nhân (p = 0,053). Tuy nhiên ở bệnh nhân lao/HIV(+) có HBsAg(+) và anti HCV(+) và số 
lượng TCD4 
45U/L thường gặp ở bệnh nhân lao/HIV(+) hơn so với bệnh nhân nhiễm HIV(+) ñơn thuần. Các xét nghiệm 
chức năng gan bình thường hay bất thường cũng không thể loại trừ một tình trạng tổn thương gan nặng, khi 
xét nghiệm chức năng gan bất thường có thể là dấu chỉ ñiểm ñầu tiên của tổn thương gan xuất hiện cần theo 
dõi chặt chẽ nên tiến hành các xét nghiệm chẩn ñoán ñặc hiệu tiếp theo. Trên hết, cần tuyên truyền giáo dục 
tốt ñối với bệnh nhân và người chăm sóc cách sử dụng các ñặc ñiểm lâm sàng và thông số sinh hoá ñể theo 
dõi phát hiện phản ứng ñộc gan. 
Từ khóa: ALT = alanine aminotransferase; AST = Aspartate aminotransferase; TB = Tuberculosis; HIV = 
Human Immunodeficiency virus. 
ABSTRACT 
THE DRUG INDUCED LIVER INJURY (DILI) AND THE LEVEL OF SERUM ALT 
DURING TB TREATMENT AMONG TB/HIV(+) PATIENTS 
Le Van Nhi, * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 Supplement of No 2- 2010: 201 - 211 
Introduction: During TB treatment, the level of ALT increase 10 to 20% in TB/HIV(+) patients and these 
patients have a higher risk of DILI. 
Objectives of study To evaluate the relationship between the level of serum transaminase ALT and the risk of 
DILI during TB treatment of TB/HIV(+) patient. 
Methods and material of study: Cross_sectional study in HIV(+) with and without new tuberculosis. 
Results: DILI occurred in 25% of TB/HIV(+) patients. The level of serum transaminase ALT is superior or 
equal to 45U/L; 10% of these patients (2/20) have the ALT > 2 – 3N; 5% (1/20) have the ALT > 4 – 5N. Nausea 
and vomissement are frequently observed in the TB/HIV(+) patients during TB treatment (75% 15/20, p = 0,000). 
The DILI has been analysed relation with age (p > 0,05) sex (p > 0,05), the presence of HbsAg(+), anti HCV(+) 
* Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 
Địa chỉ liên lạc: TS. Lê Văn Nhi ĐT: 0913916589 Email: Le_vannhi@yahoo.com 
 202
(p > 0,05) and the stage of immunodepression with TCD4 (p = 0,053). 
Conclusion: DILI in TB/HIV(+) occured in 20% of patients, 75% of them having a level of serum 
transaminase ALT < 45U/L. Fever, nausea nausea and vomissement are frequently observed during TB treatment 
and the fatality ratio increases when TCD4 45U/L There is no relationship between DILI with 
age, sex, weight, HBV, HCV but there is a relation with the stage of immunodepression (p = 0,053). But in 
TB/HIV(+) patients having been infected with HBV, HCV and with TCD4 < 50/mm3, the risk of DILI is high. The 
coinfection with HBV or HCV and the level of serum ALT > 45U/L are more frequently observed in TB/HIV(+) 
patients than to the HIV(+) without TB patients. The abnormal or normal liver function testing cannot predict a 
severe lesion of liver. But in abnormal liver function testing it can be a 1st marker of liver injury and more 
specialised liver function testing should be performed. Health education for patients and health staff is necessary. 
They should know the clinical signs and the value of these ALT level to predict the occurrence of DILI. 
Key words: ALT = alanine aminotransferase; AST = Aspartate aminotransferase; TB = Tuberculosis; HIV = 
Human Immunodeficiency virus. 
MỞ ĐẦU 
Gan giữ vai trò quan trọng trong chuyển hoá 
thuốc và giải ñộc, do ñó dễ bị tổn thương. Trong 
nhiều trường hợp, sự hiểu biết chính xác về chuyển 
hoá các thuốc lao và các yếu tố góp phần trong cơ chế 
ngộ ñộc gan là chưa ñầy ñủ, do các quần thể nghiên 
cứu có nhiều khác biệt về ñịnh nghĩa của ñộc gan, 
cách theo dõi và báo cáo. Tìm hiểu các tần suất ñộc 
gan, ñộ nặng ở những bệnh nhân lao ñồng nhiễm HIV 
hoặc HBV hay HCV là cần thiết. Còn rất ít số liệu liên 
quan ñến ñộc gan do thuốc ở bệnh nhân lao/HIV(+). 
Một hồi cứu ñiều trị lao/HIV(+) tại San Francisco từ 
năm 1991 ñến 1998 cho thấy 4,8% các trường hợp 
phải thay ñổi phác ñồ do viêm gan. Một nghiên cứu 
khác của Tây Âu về ñiều trị lao/HIV/AIDS từ năm 
1989 – 1994 mà ña số là ñối tượng nghiện chích ma 
tuý cho thấy 13 15% bệnh nhân có men gan tăng ít 
nhất 3 lần giới hạn trên của trị số bình thường trong 2 
tháng ñầu. Trong ñó 55% bị phản ứng ñộc gan là do 
INH. Một nghiên cứu ña trung tâm của Hoa Kỳ từ 
1993 – 1997 ở bệnh nhân lao/HIV(+) ñiều trị lao với 
INH. RIF, PZA cho thấy 4,4% có vấn ñề về gan; 36% 
số bệnh nhân là nghiện chích ma tuý với số trung bình 
TCD4 70µ/l. Một nghiên cứu khác về bệnh 
lao/HIV(+) từ 1989 – 2000 cho thấy 2% bệnh nhân có 
vàng da do thuốc lao. Trong các nghiên cứu trên, các 
ñịnh nghĩa về phản ứng ñộc gan và phương pháp 
nghiên cứu không thống nhất và ña số thiếu nhóm 
chứng HIV(-). Gia tăng trị số men gan hoặc viêm gan 
ñược ghi nhận là từ 4 ñến 27% ở các bệnh nhân và gia 
tăng bilirubine hoặc vàng da là từ 0% ñến 7%. Ảnh 
hưởng của HIV ñơn thuần trong ñộc gan khi ñiều trị 
lao là khó ñánh giá tuy nhiên thường là nhẹ(1,2,4,13,12,15). 
Nghiên cứu thực hiện nhằm khảo sát mối liên 
quan giữa phản ứng ñộc gan và số lượng men gan 
(ALT) ở những bệnh nhân lao/HIV(+) ñược ñiều trị 
với các thuốc kháng lao. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu cắt ngang với ñối tượng là những 
bệnh nhân nhiễm HIV(+) bị mắc lao (N1 = 100) và 
không mắc lao (N2 = 100) và tất cả bệnh nhân 
nhiễm HIV(+) bị mắc lao là những bệnh nhân lao 
mới (bệnh nhân chưa bao giờ ñiều trị lao hoặc ñã 
dùng thuốc lao nhưng dưới 1 tháng). Thực hiện 
nghiên cứu từ sau luận án Tiến sĩ, từ năm 2005 – 
2008(9). 
- Các mẫu bệnh phẩm máu (ñảm bảo nguyên 
tắc an toàn sinh học trong khi lấy máu) không ghi 
họ tên, chỉ ñánh mã số vào nhãn dán trên ống 
nghiệm, tiến hành thử nghiệm theo thể thức vào dữ 
liệu giấu tên và ñồng thuận hợp tác phù hợp. 
- Thực hiện các xét nghiệm chẩn ñoán trong 
nghiên cứu. 
* Chẩn ñoán huyết thanh HIV(+) bằng thử 
nghiệm Elisa với 2 sinh phẩm Genelavia/mix và 
Serodia và Western Blot (WB). (Tham vấn tự nguyện 
làm xét nghiệm). 
* Tiêu chuẩn chẩn ñoán lao theo khuyến cáo của 
Tổ Chức Y Tế Thế Giới và Chương Trình Chống Lao 
Quốc Gia. 
AFB(+): Có vi khuẩn kháng cồn toan trong 
ñàm qua soi kính hiển vi (sau khi nhuộm bằng kỹ 
thuật Ziehl Neelsen): Lao phổi AFB(+): Có ít nhất 
2 AFB(+) hoặc 1 AFB(+) và một phim X.quang 
phổi có tổn thương lao tiến triển; Lao phổi AFB(-): 
Có 6 mẫu ñàm AFB(-) khác nhau qua 2 lần khám 
cách nhau 2 tuần ñến 1 tháng và hai phim X.quang 
phổi có tổn thương lao tiến triển (chụp cách nhau 1 
tháng) và sau khi không ñáp ứng ñiều trị với kháng 
sinh phổ thông rộng hoặc xét nghiệm ñàm AFB(-) 
nhưng nuôi cấy ñàm dương tính; Lao ngoài phổi: 
Dựa vào các dữ kiện lâm sàng với sự hỗ trợ của 
X.quang, PCR hoặc cấy bệnh phẩm hoặc mô học, tế 
bào học của sinh thiết và của chọc hút bệnh phẩm 
xác ñịnh là lao. 
* Các kỹ thuật hỗ trợ ñể chẩn ñoán lao ở bệnh 
 203
nhân lao/HIV(+): • Nuôi cấy và ñịnh danh vi khuẩn 
lao trên môi trường Loewenstein Jensen (L.J) • Chẩn 
ñoán xác ñịnh lao ở các mẫu bệnh phẩm bằng kỹ thuật 
PCR (Polymerase Chain Reaction). • Sinh thiết hoặc 
chọc hút bằng kim nhỏ (FNA-Fine Needle Aspiration) 
ñể chẩn ñoán mô học và tế bào học. Giải phẫu bệnh lý 
(mô bệnh) ñể chẩn ñoán xác ñịnh các trường hợp lao 
ngoài phổi. • X.quang phổi thẳng và nghiêng. 
* Đếm số lượng tuyệt ñối TCD4/mm3 ở tất cả 
bệnh nhân lao/HIV(+) và không lao/HIV(+). 
* Huyết thanh chẩn ñoán tìm kháng thể viêm gan 
siêu vi B (HBsAg) và viêm gan siêu vi C (Anti HCV) 
với các sinh phẩm Serodia – VGSV. 
* Xét nghiệm chức năng gan AST (trị số bình 
thường < 35U/L), ALT (trị số bình thường < 45U/L), 
bilirubin toàn phần (< 17U mol/L): Trực tiếp (< 4,3U 
mol/L); gián tiếp (< 12,74U mol/L). 
* Chẩn ñoán phản ứng ñộc gan dựa vào triệu 
chứng lâm sàng buồn nôn, nôn ói, vàng da, vàng mắt, 
ñau vùng gan và rung gan (+) và xét nghiệm chứng 
năng gan ALT và bilirubine toàn phần theo chẩn ñoán 
phản ứng ñộc gan của WHO (TCYTTG). 
Bảng 1: Chẩn ñoán phản ứng ñộc gan theo WHO. 
Mức ñộ ALT Bilirubin toàn phần 
Độ 1 80 – 120 U/L 
Hoặc 2 – 3 lần trị số bình thường 
17 – 25Umol/L 
Hoặc 1.5 lần trị số bình thường 
Độ 2 121 – 249 U/L 
Hoặc 4 – 5 lần trị số bình thường 
26 – 23Umol/L 
Hoặc 1.6 2.5 lần trị số bình thường 
Độ 3 250 – 500 U/L 
Hoặc 6 – 10 lần trị số bình thường 
32.5 – 65Umol/L 
Hoặc 2.6 5 lần trị số bình thường 
Độ 4 > 500 U/L 
Hoặc > 10 lần trị số bình thường 
Hoặc > 250 U/L và có triệu chứng 
> 65Umol/L 
Hoặc > 5 lần trị số bình thường 
* Tất cả bệnh nhân lao mới/HIV(+) ñược ñiều trị 
lao với phác ñồ hoá trị liệu lao ngắn ngày 
2HRZE/6HE có kiểm sát trực tiếp (DOTS). 
* Xử trí với phản ứng ñộc gan: Ngưng ngay lập 
tức toàn bộ các thuốc kháng lao theo dõi sinh hoá 
chức năng gan và lâm sàng cho ñến khi các dấu hiệu 
rối loạn chức năng không còn, bệnh nhân ñược ñiều 
trị lại, ñầu tiên với liều lượng. 
Bảng 2 
Liều 
lượng 
INH 
mg/ ngày 
RIF 
mg/ ngày 
PZA 
mg/ ngày 
EMB 
mg/ ngày 
Theo dõi 
1 50 Chức năng gan và lâm sàng bình thường 
2 300 Chức năng gan và lâm sàng bình thường 
3 300 75 Chức năng gan và lâm sàng bình thường 
4 300 300 250 Chức năng gan và lâm sàng bình thường 
5 300 450 750 Chức năng gan và lâm sàng bình thường 
6 300 600 1000 400 Chức năng gan và lâm sàng bình thường 
7 Điều trị lao theo cân nặng bệnh nhân 
(giai ñoạn tấn công có thể kéo dài tùy thuộc khoảng thời gian 
ngưng thuốc kháng lao do phản ứng ñộc gan) 
Tiếp tục theo dõi bệnh nhân 
suốt quá trình ñiều trị 
- Số lượng tuyệt ñối TCD4, trọng lượng cơ thể và 
các xét nghiệm chức năng gan ALT, AST, bilirubine 
ñược thực hiện tại thời ñiểm chẩn ñoán thu dung ñiều 
trị lao và sau 2 tháng ñiều trị lao. 
* Tính toán thống kê: Sử dụng phần mềm thống 
kê Epi-Info và Stata/Se phiên bản 10.0 ñể xử lý số liệu 
và tính toán thống kê với mức ý nghĩa p < 0,05. 
KẾT QUẢ 
Qua nghiên cứu 100 bệnh nhân lao mới/HIV(+), 
chúng tôi ghi nhân 22/100 (22%) bệnh nhân 
lao/HIV(+) bị phản ứng ñộc gan (trong lúc ñiều trị) 
với thuốc kháng lao. Không có bệnh nhân nào bị phản 
ứng ñộc gan mà phải ngưng ñiều trị thuốc kháng lao 
hoặc trầm trọng cần nhập viện ñể ñược ñiều trị 
chuyên khoa. 2 bệnh nhân trong số 22 bệnh nhân 
lao/HIV(+) bị phản ứng ñộc gan bị tử vong trong lúc 
ñiều trị lao, bệnh nhân tử vong do tình trạng suy kiệt, 
tổn thương lao lan rộng 2 phổi và tình trạng suy giảm 
miễn dịch nặng, không liên quan ñến phản ứng ñộc 
 204
gan. 
Chỉ có 25% (5/20) bệnh nhân lao/HIV(+) bị phản 
ứng ñộc gan có trị số men gan > 45U/L và 75% 
(15/20) bị phản ứng ñộc gan có trị số men gan ≤ 
45U/L. 
A. So sánh trung bình và ñộ lệch chuẩn 
TCD4/mm3, AST, ALT ở bệnh nhân lao/HIV(+) và 
HIV(+) 
Bảng 3 
X ± SD Lao/HIV(+) 
(n = 100) 
HIV(+) 
(n = 100) 
P 
TCD4/mm3 85,23 ± 77,77 86,04 ± 
128,34 
0,9570 
AST 53,33 ± 39,60 45,86 ± 31,94 0,1436 
ALT 45,48 ±34,25 47,50 ±41,35 0,7072 
B. So sánh trung bình và ñộ lệch chuẩn TCD4/mm3, AST, ALT ở các nhóm bệnh nhân lao/HIV(+). 
Ghi chú: Trung bình, ñộ lệch chuẩn CD4, AST, 
ALT của bệnh nhân tử vong ≤ 2 tháng: CD4 = 35,1 
±34,14; AST = 70,9 ± 40,84; ALT = 54,65 ± 31,97. 
** 2 trường hợp tử vong nữ có phản ứng ñộc 
gan(1): CD4 = 80/mm3; AST = 18,8U/L; ALT = 
52,3U/L (2) CD4 = 28/mm3; AST = 51,3U/L, ALT = 
61,1U/L. 
*** Bệnh nhân lao/HIV(+) sống còn bị phản ứng 
ñộc gan có men gan ALT cao gấp 2 – 3 lần là 10% 
(2/20) và cao gấp 4 – 5 lần là 5% (1/20). 
(a): p = 0,6093; p = 0,1326; p = 0,6917 (lần lượt 
theo thứ tự từ trên xuống); (b): p = 0,9523; p = 
0,0799; p = 0,7147. 
C. So sánh trung bình và ñộ lệch chuẩn của 
TCD4/mm3, AST, ALT ở bệnh nhân lao/HIV(+) có và 
không có kháng thể viêm gan siêu vi B, C trong huyết 
thanh. 
Lao/HIV (+) (n= 100) 
Kháng thể VGSV B,C/ 
huyết thanh (+) (n=30) 
(a) 
Kháng thể VGSV B,C/ 
huyết thanh (-) (n=70) (b) 
TCD4 51,9 ± 47,86 75,84 ± 110,68 0,2581 
AST 60,23 ± 37,85 50,38 ± 40,23 0,2564 
ALT 48,91 ± 29,14 43,57 ± 34,22 0,4584 
Ghi chú: HBsAg(+) hoặc Anti HCV(+) hoặc 
HBsAg(+) và Anti HCV(+). 
Bảng 4: D.Huyết thanh dương tính với kháng thể viêm gan siêu vi và phản ứng ñộc gan ở bệnh nhân lao/HIV(+). 
Phản ứng ñộc gan
VGSV 
Không phản ứng ñộc gan Có phản ứng ñộc gan Tổng cộng 
HBsAg(+) 15 4 19 
Anti HCV(+) 5 0 5 
Lao/HIV(+) (n = 100) 
Tử vong 
n = 21 (10 trường hợp tử vong < 2 tháng*) 
Sống còn 
n = 79 
TCD4 29,86 ±29,35 p = 0,0491 78,03 ± 105,62 175,71 ± 129,16 (p = 0,000) 
AST 77,76 ± 48,03 p = 0,0012 46,84 ± 34,58 55,55 ± 63,28 (p = 0,2847) 
ALT 58,15 ± 38,45 p = 0,0514 41,73 ± 32,65 46,04 ± 36,35 (p = 0,4342) 
 (trước ñiều trị lao) (sau2 tháng ñiều trị lao) So sánh trước 
và sau 
 2 tháng ñiều trị lao 
Phản ứng 
ñộc gan (-) 
n = 19 
Phản ứng 
ñộc gan (+) 
n = 2** 
Phản ứng 
ñộc gan (-) 
n = 59 
Phản ứng 
ñộc gan (+) 
n = 20*** 
TCD4 = 27,63 ± 28,44 
AST = 83,59 ± 46,75 
ALT = 60,31 ± 39,59 
74,46 ± 113,28 p = 0,000 176,22 ± 130,16 
50,25 ± 38,31 p = 0,7654 48,31 ± 31,84 
42,58 ± 29,91 p = 0,6598 45,16 ± 33,50 
(Trước ñiều trị lao) (Sau 2 tháng ñiều trị
lao) 
88,55 ± 80,46 p = 0,0167 174,20 ± 130,11 
36,75 ± 16,94 p = 0,1228 76,97 ± 112,68 
39,20 ± 40,43 p = 0,4850 48,61 ± 43,90 
(Trước ñiều trị lao) (Sau 2 tháng ñiều trị lao) 
 205
HBsAg(+) và Anti HCV(+) 5 1 6 
Tổng cộng 25 5 30 
Fisher’s exact (p = 0,7960); Pearson Chi 2 = 2,12632, p = 0,532. 
Nhận xét: 1/. Tỷ lệ phản ứng ñộc gan và không bị 
phản ứng ñộc gan ở bệnh nhân lao/HIV(+) có huyết 
thanh dương tính với kháng thể VGSV B, C khác 
nhau không có ý nghĩa thống kê p > 0,05; 2/. 31,25% 
(10/32) bệnh nhân HIV(+) có huyết thanh dương tính 
với kháng thể viêm gan siêu vi B, C có trị số men gan 
ALT > 45U/L (p = 0,017). Khi so sánh với bệnh nhân 
lao/HIV(+) với số lượng men gan > 45U/L cho thấy 
tỷ lệ ñồng nhiễm VGSV B, C ở bệnh nhân lao/HIV(+) 
là 36,84% (14/38) so với 28,13% ở bệnh nhân nhiễm 
HIV ñơn thuần (có liên quan ñến ñộ tuổi p = 0,042 và 
theo số lượng TCD4/mm3 p = 0,015). 
Bảng 5: E. So sánh trung bình và ñộ lệch chuẩn số 
lượng Bilirubine ở bệnh nhân lao/HIV(+) bị phản ứng 
ñộc gan và không bị phản ứng ñộc gan. 
Bilirubine 
(Umol/L) 
Không phản ứng 
ñộc gan (n = 59) 
Có phản ứng 
ñộc gan (n = 
20) 
p 
Toàn phần 11,17 ± 7,71 14,34 ± 9,57 0,1218 
Trực tiếp 2,82 ± 2,02 3,72 ± 2,98 0,1336 
Gián tiếp 6,65 ± 5,11 8,96 ± 6,06 0,0999 
Bảng 6: F. Đặc ñiểm lâm sàng của phản ứng ñộc gan ở bệnh nhân lao/HIV(+) khi ñiều trị với thuốc kháng lao. 
Lao/HIV(+) Bệnh nhân 
Lâm sàng Phản ứng ñộc gan (+) (n = 
59*) 
Phản ứng ñộc gan (-) (n = 
20*) 
p 
Buồn nôn và nôn 11 (18,64%) 15 (75%) 0,000 
Sốt kéo dài > 38oC 4 (6,78%) 14 (70%) 0,000 
Sẩn ngứa 25 (42,37%) 7 (35%) 0,379 
Vàng da vàng mắt 0 (0%) 0 (5%) 0,253 
 206
Nhận xét: Sốt, buồn nôn và nôn là các triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân lao/HIV(+) khi ñiều 
trị với thuốc kháng lao (* Khảo sát trên bệnh nhân sống còn). 
Bảng 7: So sánh theo ñộ tuổi giữa 2 nhóm bệnh nhân lao/HIV(+) bị phản ứng ñộc gan và không phản 
ứng ñộc gan với trị số men gan ALT > 45U/L. 
Phản ứng 
ñộc gan (-) (n 
= 33) 
Phản ứng 
ñộc gan (+) 
(n = 5) 
Bệnh 
nhân 
Độ tuổi 
Nam Nữ Nam Nữ 
P 
≤ 25 2 0 0 0 
26 – 35 17 2 2 2 
36 – 45 9 2 0 0 
46 – 55 1 0 0 0 
≥ 56 0 0 1 0 
Pearson Chi 2 
= 9,0819 
p = 0,059 
Fisher’s exact 
p = 0,160 
Tổng cộng 29 4 3 2 38 
Nhận xét: Ở bệnh nhân lao/HIV(+) với trị số men gan ALT > 45U/L sự phân bố tần suất theo ñộ 
tuổi giữa 2 nhóm có phản ứng ñộc gan và không có phản ứng ñộc gan khác nhau không có ý nghĩa 
thống kê p > 0,05. Nghiên cứu cũng ghi nhận tại thời ñiểm chẩn ñoán và sau 2 tháng ñiều trị, sự khác 
biệt giữa các nhóm bệnh nhân lao/HIV(+) có trị số men gan ≤ 45U/L và > 45U/L (phân bố theo ñộ 
tuổi) không có ý nghĩa thống kê (trước ñiều trị lao p = 0,312 (p = 0,533 (nam); p = 1,000 (nữ)) và sau 
ñiều trị lao p = 0,606 (p = 0,533 (nam); p = 1,000 (nữ)). 
Bảng 8: So sánh theo cân nặng giữa 2 nhóm bệnh nhân lao/HIV(+) không bị phản ứng ñộc gan và 
không phản ứng ñộc gan với trị số men gan ALT > 45U/L. 
Phản ứng ñộc 
gan (-) (n = 33) 
Phản ứng ñộc 
gan (+) (n = 5) 
Bệnh 
nhân 
Độ tuổi Nam Nữ Nam Nữ 
P 
≤ 35kg 0 0 0 0 
> 35kg 29 4 3 2 
Tổng 
cộng 
29 4 3 2 38 
Nhận xét: Không ghi nhận ñược một trường hợp bệnh nhân nào có cân nặng ≤35kg ñối với nhóm 
bệnh nhân lao/HIV(+) có trị số men gan > 45U/L. 
Bảng 9: So sánh theo số lượng TCD4/mm3 giữa 2 nhóm bệnh nhân lao/HIV(+) phản ứng ñộc gan và 
không bị phản ứng ñộc gan với trị số men gan > 45U/L. 
Phản ứng 
ñộc gan (-) 
(n = 33) 
Phản ứng 
ñộc gan (+) 
(n = 5) 
Bệnh nhân 
TCD4/mm3 
Nam Nữ Nam Nữ 
P 
< 50 22 2 1 1 
50 – 100 3 0 2 1 
> 100 4 2 0 0 
p = 0,053 
Tổng cộng 29 4 3 2 38 
Pearson chi 2 = 8,7161 p = 0,013; Fisher’s exact = 0,053. 
Nhận xét: Ở cả 2 nhóm bệnh nhân lao/HIV(+) có phản ứng ñộc gan và không có phản ứng ñộc 
gan với trị số men gan > 45U/L thường có tình trạng miễn dịch suy giảm nặng, nghiên cứu cho thấy 
giữa phản ứng ñộc gan và tình trạng miễn dịch có mối tương quan yếu p = 0,053. Chúng tôi ñang ghi 
 207
nhận sự khác biệt giữa các nhóm có bệnh nhân lao/HIV(+) có trị số men gan ≤ 45U/L và > 45U/L là 
không có ý nghĩa thống kê dù có phản ứng ñộc gan (so sánh trước ñiều trị lao p = 0,304 (p = 0,200 
(nam); p = 1,000 (nữ)) và sau 2 tháng ñiều trị p = 0,773 (p = 0,327 (nam), p = 0,250 (nữ)) hay không 
có phản ứng ñộc gan (p = 0,150). 
Tình trạng miễn dịch sau 2 tháng ñiều trị lao ñược thay ñổi tích cực có lợi cho bệnh nhân và có ý 
nghĩa thống kê – Pearson chi 2 = 7,3333; p = 0,026. Fisher’s exact p = 0,048. Chúng tôi cũng ghi 
nhận ở bệnh nhân có huyết thanh dương tính với kháng thể viêm gan B, C có số lượng TCD4 < 50 
thường có triệu chứng ñộc gan. 
BÀN LUẬN 
Do có nhiều phác ñồ ñiều trị lao, với các quần thể nghiên cứu khác nhau với những ñịnh 
nghĩa phản ứng ñộc gan khác nhau và các theo dõi báo cáo khác nhau nên khó có kết luận chính 
xác liên quan ñến phác ñồ. Tuy nhiên nguy cơ ñộc gan do thuốc lao qua các nghiên cứu là từ 5% 
ñến rất cao là 33%. Trong các phác ñồ ñiều trị lao với nhiều thuốc trong ñó RIF (rifampicine), ở 
người lớn ta ghi nhận có sự gia tăng tần suất ñộc gan từ 1,6 ñến 2,55% và ở trẻ em là từ 1,0% ñến 
6,9%. Vai trò của PZA (pyrazinamide) trong phản ứng ñộc gan không rõ ràng lắm! Có vài nghiên 
cứu cho thấy PZA không ảnh hưởng ñến ñộc gan ngược lại các nghiên cứu khác lại cho thấy PZA 
là yếu tố nguy cơ gia tăng tần suất và ñộ nặng của ñộc gan(13,7,16,17,20). Một số người có thể không 
có triệu chứng trong khi có một số người khác lại có triệu chứng ñộc gan với các nồng ñộ men 
gan khác nhau. Các triệu chứng thực thể thường xảy ra rất sớm khi ñộc gan nặng và kéo dài từ 
nhiều ngày ñến nhiều tuần lễ; 50 – 70% bệnh nhân bị ñộc gan nặng có triệu chứng nôn ói và ñau 
bụng trong khi ñó sốt chỉ xảy ra ở 10% và nổi mẩn là 5%, vàng da, nước tiểu ñen, phân màu ñất 
sét là các triệu chứng muộn của tình trạng lâm sàng nặng. Rối loạn ñông máu, thiếu albumine 
trong máu và ñường huyết thấp là những trường hợp rối loạn chức năng gan nặng ñe doạ mạng 
sống bệnh nhân. Phản ứng ñộc gan do isoniazide (INH) thường phục hồi sau vài tuần. Phục hồi 
hoàn toàn xảy ra trong hầu hết các trường hợp sau khi ngừng INH(13). Nghiên cứu của chúng tôi 
ghi nhận các triệu chứng sốt kéo dài > 38oC và buồn nôn – nôn là các triệu chứng gặp ở bệnh 
nhân lao/HIV(+) ñang khi ñiều trị với thuốc lao (< 0,05) Bảng 1. 
Thời gian ñộc gan thường xảy ra trong nhiều tuần ñến nhiều tháng trong khi phản ứng quá 
mẫn thường xảy ra trong nhiều ngày ñến nhiều tuần sau khi ñiều trị. Không giống như phản ứng 
quá mẫn cổ ñiển. Khi cho thuốc INH trở lại thì không luôn luôn bị tái ñộc gan trở lại. Trong một 
nghiên cứu của USPHS (Y Tế Công Cộng Hoa Kỳ), 60% các trường hợp ñộc gan xảy ra trong 3 
tháng ñầu ñiều trị và 80% xảy ra trong 6 tháng ñầu. Một hồi cứu về tử suất cho thấy trong thời 
gian trung vị từ lúc bắt ñầu ñiều trị ñến lúc triệu chứng ñộc gan là 16 tuần(6,13). Nghiên cứu của 
chúng tôi cho thấy 22% (22/100) có các triệu chứng liên quan ñến việc dùng thuốc lao ở giai ñoạn 
ñiều trị tấn công với 4 thứ thuốc (INH, PZA, RIF và EMB); Có 2 trường hợp tử vong có triệu 
chứng ñộc gan do thuốc (buồn nôn và nôn). Trung bình và ñộ lệch chuẩn TCD4, AST và ALT ở 
bệnh nhân lao/HIV(+) tử vong và sống còn khác nhau có ý nghĩa thống kê p < 0,05 (Mục A, B). 
Tuổi: Đa số các ñộc gan do INH có liên quan ñến tuổi. Một số nghiên cứu ở Seattle về gia 
tăng men gan có triệu chứng theo lứa tuổi cho thấy là 0% ở nhóm tuổi dưới 14 tuổi và 0,28% ở 
lứa tuổi trên 65 tuổi có gia tăng. Nghiên cứu ở San Diego cho thấy nguy cơ ñộc gan có liên quan 
ñến tuổi là 15% ở nhóm 35 tuổi và nhóm già hơn(10). Một nghiên cứu của Tennessee cho thấy 
AST tăng trên 5 lần thông số trên của trị số bình thường là 0,44% ở nhóm dưới 35 tuổi và 2,08% 
ở nhóm trên 49 tuổi(6) và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Sự khác biệt của tần suất ñộc gan do 
thuốc qua các nghiên cứu trên có thể là do sự khác biệt trong ñịnh nghĩa ñộc gan, sự khác biệt 
trong lựa chọn bệnh nhân và chưa loại trừ các yếu tố gây nhiễu của ñộc gan. Mức ñộ nặng của 
ñộc gan do INH cũng ñược ghi nhận là có gia tăng liên quan với tuổi và tử vong cao ở nhóm trên 
50 tuổi. Không có trường hợp ñộc gan nào ≤ 25 tuổi. Nhiều nghiên cứu gợi ý lớn tuổi là yếu tố 
nguy cơ ñộc gan do thuốc nhưng khác biệt không ý nghĩa thống kê. Một nghiên cứu ghi nhận tần 
suất ñộc gan là từ 2 ñến 8% khi tuổi gia tăng, với trung bình là 5%. Một nghiên cứu khác cho thấy 
ñộc gan vào khoảng 22% 33% ở bệnh nhân trên 35 tuổi so với 8% 7% ở nhóm dưới 35 tuổi(3,13). 
 208
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận sự khác biệt về tần suất ñộc gan không có liên quan ñến tuổi 
(Bảng 2). Không có trường hợp ñộc gan nào ≤ 25 tuổi. 
Giới tính: Hiện nay chưa có bằng chứng hiển nhiên về ñộc gan liên quan ñến giới tính. Sản 
phụ ở quý 3 của thai kỳ và ở 3 tháng ñầu của thời kỳ sau khi sanh có thể có nguy cơ cao phát triển 
ñộc gan. Trong nghiên cứu của USPHS cũng không ghi nhận sự khác biệt về tần suất ñộc gan do 
INH giữa nam và nữ. Nghiên cứu của hạt Seattle King cũng không ghi nhận sự khác biệt của tần 
suất ñộc gan do INH ở nam so với nữ mặc dù là tần suất này thấp ở cả 2 giới. Nghiên cứu của 
Memphis và San Diago cũng không ghi nhận có mối liên quan giữa giới tính và ñộc gan(6,13). 
Nghiên cứu của chúng tôi cũng có ghi nhận tương tự (Bảng 2, 3 và 4). Phụ nữ có nguy cơ ñộc gan 
cao nhưng cũng không ghi nhận có ý nghĩa thống kê. Có 2 nghiên cứu khác không phủ nhận sự 
khác biệt(13,14). 
Tử vong: Một số nghiên cứu hồi cứu với phương pháp giới hạn cho thấy khi có xuất hiện 
phản ứng ñộc gan do INH ở phụ nữ thì tình trạng có thể bị nặng nề hơn. Một nghiên cứu của 
USPHS cho thấy có 8 tử vong trên 13.838 bệnh nhân có ñiều trị (tỷ lệ 0,57%). Trong 8 người có 
5 người là phụ nữ gốc Phi, 7 trong 8 tử vong xảy ra tại Baltimore Maryland. Đa số những người 
tử vong ñó ñều có các yếu tố nguy cơ của phản ứng ñộc gan bao gồm nghiện rượu nặng hoặc có 
dùng các thuốc gây ñộc cho gan. Một yếu tố nguy cơ khác là xơ gan. Trong nghiên cứu của Hiệp 
Hội Chống Lao và Bệnh Phổi Thế Giới cho thấy tử vong là 0,14 trên 1.000 bệnh nhân có ñiều trị. 
Một nghiên cứu khác về tử vong nghi do phản ứng ñộc gan do INH từ 1970 ñến 1992 cho thấy tử 
vong lúc bắt ñầu ñiều trị là 0,042 cho 1.000 người ñiều trị và trên 0,07 trên 1000 người khi ñã 
hoàn thành ñiều trị. Trong 62 người tử vong nghi ngờ có thể bị ñộc gan do INH thì 50 (81%) 
người là phụ nữ và 49 (79%) là người Hispanic. Mặc dù ña số người tử vong là trên 35 tuổi 
nhưng có 31% tuổi trẻ hơn. Tuy nhiên tử vong có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Một số liệu khác 
cũng cho thấy phụ nữ có nguy cơ tử vong do ñộc gan do INH cao hơn(3,4, 13, 14, 17). 
Nghiên cứu của chúng tôi có 2 trường hợp tử vong (ñều là nữ) lúc ñiều trị lao có triệu chứng 
ñộc gan (nôn và buồn nôn) với các trị số men gan ALT tại thời ñiểm chẩn ñoán lao lần lượt là 
52,3U/L và 61,1U/L lớn hơn trị số ALT bình thường (45U/L). Nhưng sự gia tăng men gan trong 
2 trường hợp này là không ñáng kể, thấp hơn các phân ñộ theo chẩn ñoán ñộc gan của Tổ Chức Y 
Tế Thế Giới, 2 bệnh nhân trên ngoài triệu chứng nôn và buồn nôn xen kẽ và không liên tục không 
có các triệu chứng khác của phản ứng ñộc gan do thuốc lao, bilirubine toàn phần, gián tiếp và trực 
tiếp trong giới hạn bình thường, không có chỉ ñịnh ngưng dùng thuốc lao. Bệnh nhân ñã tử vong 
do suy kiệt, với tình trạng miễn dịch suy giảm nặng TCD4 = 28/mm3 và 80/mm3, có tổn thương 
lao 2 phổi rộng và tiêu chảy kéo dài (Mục B). 
Nhiễm HIV: Phản ứng ñộc gan do INH ở bệnh nhân HIV(+) là không khác biệt so với HIV(-) 
mặc dù chưa có nghiên cứu ñể so sánh(4,13). Đề tài nghiên cứu này nhằm khảo sát mối liên quan giữa 
phản ứng ñộc gan và số lượng men gan ALT ở những bệnh nhân lao/HIV(+), và so sánh các trị số 
men gan giữa bệnh nhân nhiễm HIV(+) mắc lao và nhiễm HIV(+) ñơn thuần. Chúng tôi ghi nhận ở 
bệnh nhân lao/HIV(+) sống còn bị phản ứng ñộc gan có 10% có trị số men gan ALT cao gấp 2 – 3 lần 
và 5% cao gấp 4 – 5 lần (Mục B). So sánh trung bình và ñộ lệch chuẩn TCD4/mm3, AST và ALT giữa 
bệnh nhân lao/HIV(+) và HIV(+) ñơn thuần tại thời ñiểm chẩn ñoán khác nhau không có ý nghĩa 
thống kê p > 0,05 (Mục A). Các giá trị này khác nhau có ý nghĩa thống kê khi so sánh giữa bệnh nhân 
lao/HIV(+) tử vong và sống còn p < 0,05; So sánh trước và sau 2 tháng ñiều trị ở bệnh nhân 
lao/HIV(+) sống còn chỉ có số lượng TCD4 khác nhau có ý nghĩa thống kê p = 0,000, còn các trị số 
men gan AST và ALT thì khác nhau không có ý nghĩa thống kê p > 0,05 tương tự khi so sánh giữa 2 
nhóm có phản ứng ñộc gan và không bị phản ứng ñộc gan (Mục A và B). Chúng tôi ghi nhận tần suất 
ñộc gan không có liên quan ñến tuổi tác, cân nặng và có mối tương quan yếu p = 0,053 với tình trạng 
miễn dịch của bệnh nhân (Bảng 2, 3, 4). Bilirubine toàn phần, gián tiếp và trực tiếp ở bệnh nhân 
lao/HIV(+) bị phản ứng ñộc gan và không bị phản ứng ñộc gan khác nhau không có ý nghĩa thống kê 
(p > 0,05) Mục E. 
Viêm gan siêu vi B: Chỉ có ít nghiên cứu ñộc gan do INH ở bệnh nhân có viêm gan siêu vi B ñiều 
 209
trị lao sơ nhiễm. Trong một nghiên cứu nhỏ tại Philadelphia với ñối tượng bệnh nhân Đông Nam Á. 
Tần suất ñộc gan do INH không phân biệt ñược ở những người có mang siêu vi B và không mang siêu 
vi B. Một nghiên cứu thứ 2 tại Iowa và Illinois ở ñối tượng bệnh nhân di dân từ Việt Nam ñược ñiều 
trị lao sơ nhiễm với INH cho thấy sự khác biệt giữa những người có viêm gan siêu vi mà trong máu có 
kháng nguyên “e” (HBeAg(+)) so với người không có kháng nguyên “e” (HBeAg(-)), mà HBeAg là 
một dấu ấn sinh học của sự sinh sản ñang hoạt ñộng của siêu vi B và có viêm gan; 3 trong số 21 (14%) 
người có HBeAg(+) có trị số men gan cao gấp 5 lần giới hạn trên của trị số bình thường khi ñiều trị 
với INH, trong khi ñó 121 bệnh nhân HBeAg(-) ghi nhận trị số men gan không tăng. Mặc dù cần có 
nhiều thông tin hơn, nhưng các nghiên cứu trên ñã cho thấy nhưng không rõ ràng là viêm gan có thể là 
một yếu tố nguy cơ gia tăng tần suất ñộc gan do INH(13, 9, 11). Nhiều nghiên cứu tại Châu Á liên quan 
ñến ñiều trị bệnh lao ở bệnh nhân có nhiễm siêu vi B ñã ñược tiến hành. Tại Đài Loan 42 bệnh nhân 
trong tổng số 1783 (2,4%) ñược ñiều trị lao với INH, RIF và EMB ghi nhận bị viêm gan có triệu 
chứng; 15 bệnh nhân có HBsAg(+) (kháng nguyên bề mặt viêm gan B) và 7 trong số 15 bệnh nhân ñó 
ñã tử vong do suy gan; 27 bệnh nhân còn lại có triệu chứng viêm gan nhưng HBsAg(-) thì 1 bệnh 
nhân chết do suy gan. Độ nặng của ñộc gan hình như gia tăng ở bệnh nhân có mang siêu vi B. Cũng 
tại Đài Loan, bệnh nhân lao có HBsAg(+) mà ñiều trị lao với INH, RIF PZA và EMB thì tỷ lệ ñộc gan 
là 29%, giống như ở bệnh nhân HBsAg(-) (26%). Một nghiên cứu tại Hồng Kông có loại ra những 
bệnh nhân nghiện rượu và bệnh lý gan không do siêu vi cho thấy 16% bệnh nhân lao có HBsAg(+) bị 
viêm gan có triệu chứng so với 4,7% bệnh nhân HBsAg(-). Bệnh nhân có HBsAg(+) có tổn thương 
gan nặng hơn và thường phải ngưng ñiều trị 4,7% so với 2,5%(13, 11, 18, 19). Một nghiên cứu hồi cứu 
khác tại Seoul Hàn Quốc, 110 bệnh nhân có HBsAg(+) và có trị số men gan lúc ñầu bình thường, 
người ta ghi nhận trị số men gan gia tăng ít nhất trên 5 lần giới hạn trên của trị số bình thường so với 
nhóm chứng 8% so với 2% (p = 0,05). Tuy nhiên INH và RIF ñược cho ñiều trị trở lại ở 5 bệnh nhân 
trên 9 bệnh nhân có HBsAg(+). Tóm lại do các mô thức nghiên cứu không ñồng nhất và không loại 
trừ các yếu tố gây nhiễu nên khó có các kết luận mạnh mẽ về mối liên quan giữa những người có 
mang siêu vi B với suất ñộ tổn thương gan ở bệnh nhân ñiều trị với thuốc kháng lao. Có 2 trong 4 
nghiên cứu ghi nhận có mối liên quan ñó và có 1 nghiên cứu không ghi nhận ñược mối liên quan 
này(13, 9, 11, 18, 19). 
Viêm gan siêu vi C: Có 2 nghiên cứu không ghi nhận ñược nguy cơ ñộc gan do INH với viêm gan 
siêu vi C. Một nghiên cứu ñoàn hệ tại Baltimore Maryland với 146 người nghiện chích ma tuý có 
IDR(+) mà trong ñó 95% bị nhiễm siêu vi viêm gan C và ñược ñiều trị lao sơ nhiễm với INH, lúc bắt 
ñầu trị các thông số về các men gan cao không quá 3 lần giới hạn trên của trị số bình thường và trong 
ñó 25% bị nhiễm HIV(+) và ñược làm xét nghiệm máu hàng tháng ñã cho thấy có 32 bệnh nhân 
(22%) có các trị số men gan tăng cao trên 5 lần giới hạn trên của trị số bình thường. Các kết quả xét 
nghiệm máu không bình thường có liên quan ñến việc uống rượu nhưng không liên quan với sắc tộc, 
tuổi tác, viêm gan siêu vi B mạn tính hoặc nhiễm HIV(+). Cả tần suất viêm gan cũng như tần suất phải 
ngưng trị với INH ñều nằm trong giới hạn bình thường của một quần thể sống trong vùng có lưu hành 
ñộ nhiễm HCV thấp (10 tới 22% và 0,1 – 10%). Một nghiên cứu thứ 2 tại Tây Ban Nha cho thấy chỉ 
những người uống rượu nhiều và những người có nồng ñộ men gan cơ bản cao là có liên quan ñến ñộc 
gan do INH. Qua phân tích ñơn biến của nghiên cứu cho thấy sự hiện diện của kháng thể HCV là có 
liên quan ñến phản ứng ñộc gan(3,5,13). 30% những người nhiễm viêm gan siêu vi C bị phản ứng ñộc 
gan do thuốc lao so với 11% không bị nhiễm siêu vi C. Đồng nhiễm HIV HCV có nguy cơ bị phản 
ứng cao hơn gấp 14 lần(5,13). 
Các yếu tố khác làm gia tăng tần suất và ñộ nặng của phản ứng ñộc gan: Khi sử dụng cùng lúc với 
các thuốc như Rifampicine, khi bị suy dinh dưỡng, khi ñã bị phản ứng ñộc gan do INH lúc trước và 
tiếp tục sử dụng INH khi ñã có triệu chứng ñộc gan là có liên quan ñến phản ứng ñộc gan do thuốc 
INH(7). Nhiều nghiên cứu cho thấy uống rượu là một yếu tố tiên lượng ñộc gan do thuốc lao trong khi 
2 nghiên cứu khác không ghi nhận sự khác biệt(13). 
Mục C và D cho thấy tỷ lệ phản ứng ñộc gan và không bị phản ứng ñộc gan ở bệnh nhân 
lao/HIV(+) có huyết thanh dương tính với kháng thể VGSV B, C khác nhau không có ý nghĩa thống 
 210
kê p = 0,796; 31,25% (10/32) bệnh nhân nhiễm HIV(+) có huyết thanh dương tính với kháng thể 
VGSV B, C có trị số men gan ALT > 45U/L (p = 0,017) và có liên quan ñến tình trạng miễn dịch (p = 
0,025) khi so sánh với bệnh nhân nhiễm HIV(+) mắc lao với trị số men gan > 45U/L chúng tôi ghi 
nhận tỷ lệ ñồng nhiễm VGSV B, C ở bệnh nhân lao/HIV(+) là 96,84% nhiều hơn so với 28,13% bệnh 
nhân nhiễm HIV(+) ñơn thuần (có liên quan ñến ñộ tuổi p = 0,042 và theo tình trạng miễn dịch p = 
0,015). 
KẾT LUẬN 
Tỷ lệ bị phản ứng ñộc gan ở bệnh nhân lao/HIV(+) là 20%, 75% bị phản ứng ñộc gan có trị 
số men gan ALT < 45 U/L. Sốt, nôn và buồn nôn là các triệu chứng thường gặp khi ñiều trị lao và 
tỷ lệ tử vong tăng khi TCD4 45U/L. 
Tần suất ñộc gan không liên quan ñến tuổi tác, giới tính, cân nặng và tình trạng huyết thanh 
dương tính với kháng thể VGSV B, C nhưng có tương quan ñến tình trạng miễn dịch của bệnh nhân 
(p = 0,053). Tuy nhiên ở bệnh nhân lao/HIV(+) có HBsAg(+) và anti HCV(+) và số lượng TCD4 < 
50/mm3 dễ bị phản ứng ñộc gan. Tỷ lệ ñồng nhiễm VGSV B,C và có trị số men gan ALT > 45U/L 
thường gặp ở bệnh nhân lao/HIV(+) hơn so với bệnh nhân nhiễm HIV(+) ñơn thuần. 
Các xét nghiệm chức năng gan bình thường hay bất thường cũng không thể loại trừ một tình trạng 
tổn thương gan nặng, khi xét nghiệm chức năng gan bất thường có thể là dấu chỉ ñiểm ñầu tiên của tổn 
thương gan xuất hiện cần theo dõi chặt chẽ nên tiến hành các xét nghiệm chẩn ñoán ñặc hiệu tiếp theo. 
Trên hết, cần tuyên truyền giáo dục tốt ñối với bệnh nhân và người chăm sóc cách sử dụng các ñặc 
ñiểm lâm sàng và thông số sinh hoá ñể theo dõi phát hiện phản ứng ñộc gan. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1 American Gastroenterologic Association Clinical Practive Committee. 2002 AGA technical 
review on the evalution of liver chemistry tests. Gastroenterology 123, pp. 1367 1384. 
2 American Thoracic Society, Centers for Disease Control and Prevention, Infectious Diseases 
Society of America. 2003 treatment of tuberculosis. MMWR Morbid Mortal Wkly Rep 52, pp. 1 
– 88. 
3 Dufour DR, Lott JA, Nolte FS, Gretch DR, Koff RS, Seeff LB. 2000 Diagnosis and monitoring 
of hepatic injury: I, II. Clin Chem 46, pp. 2027 – 2068. 
4 Dworkin MS. Adams MR, Cohn DL, Davidson A, Buskin S, Horwitch C, Morse A, Sackoff J, 
Thompson M, Wotring L, et al. 2005 Factors that complicate the treatment of tuberculosis in 
HIV-infected patients. J Acquir Immune Defic Syndr 39, pp. 464 – 470. 
5 Fernandez – Villar A, Sopena B, Vazquez R, Ulloa F, Fluiters E, Mosteiro M, Martinez – 
Vazquez C, Pineiro L. 2003 Isoniazid hepatotoxicity among drug users: the role of hepatitis C. 
Clin Infect Dis 36, pp. 293 – 298. 
6 Fountain FF, Tolley E, Chrisman CR, Self TH. 2005 Isoniazid hepatotoxicity associated with 
treatment of latent tuberculosis infection: a 7-year evaluation from a public health tuberculosis 
clinic. Chest 128, pp. 116 – 123. 
7 Larrey D. 2002 Epidemiology and individual susceptibility to adverse drug reactions affecting 
the liver. Semin Liver Dis 22, pp. 145 – 155. 
8 Lê Văn Nhi (2003). Nghiên cứu dịch tễ và các hình thái lâm sàng lao/HIV (+) tại TP. HCM. 
Luận án Tiến sĩ Y Học 2003. 
9 Lee BH, Koh WJ, Choi MS, Suh GY, Chung MP, Kim H, Kwon OJ. 2005 Inactive hepatitis B 
surface antigen carrier state and hepatotoxicity during antituberculosis chemotherapy. Chest 127, 
pp. 1304 – 1311. 
10 LoBue PA, Moser KS. 2005 Isoniazid-and rifampin-resistant tuberculosis in San Diego County, 
California, United States, 1993 – 2002. Int J Tuberc Lung Dis 9, pp. 501 – 506. 
11 Patel PA, Voigt MD. 2002 Prevalence and interaction of hepatitis B and latent tuberculosis in 
Vietnamese immigrants to the United States. Am J Gastroenterol 97, pp. 1198 – 1203. 
12 Prati D, Taioli E, Zanella A, Della Torre E, Butelli S, Del Vecchio E, Vianello L, Zanuso F, 
 211
Mozzi F, Milani S, et al. 2002 Updated definitions of healthy ranges for serum alanine 
aminotransferase levels. Ann Intern Med 137, pp. 1 – 10. 
13 Saukkonen JJ, Cohn DL, Jasmer RM, Schenker S, Jereb JA, Nolan CM, Peloquin CA, Gordin 
FM, Nunes D, Strader DB, VenKataramanan JBR, and Sterling TR (2006). An official ATS 
Statement: Hepatotoxicity of Antituberculosis Therapy (American Thoracic Society Documents). 
Am J Respir Crit care Med Vol 174, pp. 935 – 952. 
14 Shakya R, Rao BS. Shrestha B. 2004 Incidence of hepatotoxicity due to antitubercular medicines 
and assessment of risk factors. Ann Pharmacother 38, pp. 1074 – 1979. 
15 Sharma SK, Balamurugan A, Saha PK, Oandey RM, Mehra NK, 2002 Evaluation of clinical and 
immunogenetic risk factors for the development of hepatotoxicity during antituberculosis 
treatment. Am J Respir Crit Care Med 166, pp. 916 – 919. 
16 Teleman MD, Chee CB, Earnest A, Wang YT. 2002 Hepatotoxicity of tuberculosis 
chemotherapy under general programme conditions in Singapore. Int J Tuberc Lung Dis 6, pp. 
699 – 705. 
17 Williams GM, Iatropoulos MJ. 2002 Alteration of liver cell function and proliferation: 
differentiation between adaptation and toxicity. Toxicol Pathol 30, pp. 41- 53. 
18 Wong WM, Wu PC, Yuen MF, Cheng C, Yew W, Wong P, Tam C, Leung C, Lai C. 2000 
Antituberculosis drug-related liver dysfunction in chronic hepatitis B infection. Hepatology 31, 
pp. 201 – 206. 
19 Wu JC, Lee SD, Yeh PF, Chan C, Wang Y, Huang Y, Tsai Y, Lee P, Ting L, Lo K. 1990 
Isoniazid-rifampin-induced hepatitis in hepatitis B carriers. Gastroenteroloty 98, pp. 502 – 504. 
20 Yee D, Valiquette C, Pelletier M, Parisien I, Rocher I, Menzies D. 2003 Incidence of serious side 
effects from first-line antituberculosis drugs among patients treated for active tuberculosis. Am J 
Respir Crit Care Med 167, pp. 1472 – 1477. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 phan_ung_doc_gan_va_so_luong_men_gan_alt_o_benh_nhan_laohiv.pdf phan_ung_doc_gan_va_so_luong_men_gan_alt_o_benh_nhan_laohiv.pdf