Kết luận
Mặc dù đã có ba nỗ lực bất thành,
nhưng nước Pháp hiện nay vẫn nhận thấy
cần có các nỗ lực lớn hơn để pháp điển hóa
TPQT, bởi tiến trình này sẽ đảm bảo tính
hệ thống, nhất quán và rõ ràng, không chỉ
cho các thẩm phán của Pháp trong việc giải
quyết các vụ việc có YTNN mà ngay cả cho
các thẩm phán nước ngoài trong trường hợp
phải áp dụng TPQT của Pháp (đối với những
64 Armelle Bodenes-Constantin, tlđd., tr. 19.
nước cho phép cơ chế dẫn chiếu ngược hoặc
dẫn chiếu tới nước thứ ba). Để tránh cứng
nhắc, nhà lập pháp có thể bổ sung các điều
khoản linh hoạt hoặc điều khoản ngoại lệ,
và quy định ưu tiên áp dụng ĐƯQT (để đảm
bảo tuân thủ pháp luật quốc tế). Điều quan
trọng nhất là pháp điển hóa TPQT sẽ giúp
nước Pháp có được một bức tranh tổng thể
các quy phạm TPQT64 hài hòa trên cơ sở các
nguyên tắc chung trong một lĩnh vực mà sự
giao thoa với quốc tế vốn cực kỳ phổ biến
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 224 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp điển hóa tư pháp quốc tế của Pháp: Những nỗ lực bất thành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bài viết nêu khái quát về hệ thống tư pháp quốc tế (TPQT) Pháp,
những nỗ lực của Pháp về pháp điển hóa TPQT nhưng không thành
công; biện giải nguyên nhân Pháp không thống nhất trong việc pháp
điển hóa TPQT; và phân tích các quan điểm cho rằng quá trình pháp
điển hóa TPQT là cần thiết và sớm muộn cũng phải tiến hành tại Pháp.
PHAÙP ÑIEÅN HOÙA TÖ PHAÙP QUOÁC TEÁ CUÛA PHAÙP:
NHÖÕNG NOÃ LÖÏC BAÁT THAØNH
Ngô Quốc Chiến*
Lý Vân Anh**
Abstract:
This article provides an overview of the French private international
legal (PIL) system, as well as its unsuccessful attempts of codification;
it then provides explaination about the lack of unanimity in France for
the codification of the PIL; and analyses of the view supporting that
the process of codifying the PIL is necessary and should be conducted
soon in France .
Thông tin bài viết:
Từ khóa: tư pháp quốc tế, pháp
điển hóa.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 02/06/2017
Biên tập: 28/06/2017
Duyệt bài: 30/06/2017
Article Infomation:
Keywords:
private international legal,
codification.
Article History:
Received: 02 Jun 2017
Edited: 28 Jun 2017
Appproved: 30 Jun 2017
* TS, GV. Khoa Luật, Trường Đại học Ngoại thương, thành viên Trung tâm Nghiên cứu pháp luật châu Âu và
Quốc tế (GERCIE), ĐH Tours, CH Pháp.
** ThS. Khoa Luật Quốc tế, Học viện Ngoại giao.
Tư pháp quốc tế (TPQT) Việt Nam đã
khá phát triển trong thời gian gần đây. Cấu
thành nguồn của TPQT Việt Nam có hơn 30
văn bản luật1 và văn bản dưới luật. Các văn
1 Nguyễn Khánh Ngọc (chủ biên), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật TPQT, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, 2016,
chuyên đề số 12.
bản này đã được sửa đổi khá thường xuyên
để bắt kịp các xu thế mới, góp phần thúc đẩy
quá trình hội nhập quốc tế của đất nước. Tuy
nhiên, sự quá rải rác về nguồn, cộng thêm với
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
56 Số 13(341) T7/2017
những chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn
bản thường xuyên thay đổi làm cho các quy
phạm TPQT của Việt Nam gần như không
được áp dụng trong thực tế2. Mặc dù các quy
phạm xung đột luật trong Bộ luật Dân sự
(BLDS) và xung đột thẩm quyền trong Bộ
luật Tố tụng dân sự (TTDS) đã được sửa đổi
khá toàn diện trong năm 2015, nhưng nhiều
nghiên cứu đã cho thấy, các sửa đổi này vẫn
chưa cho phép khắc phục được các vấn đề
đã phát sinh. Ngoài ra, sự rải rác về nguồn
gây khó khăn cho việc tiếp cận, hiểu về các
quy phạm TPQT vẫn chưa giải quyết được.
Đã có nhiều ý kiến cho rằng, Việt Nam có
thể giải quyết các vấn đề trên thông qua việc
xây dựng một đạo luật về TPQT3.
Vừa qua, Bộ Tư pháp đã xây dựng dự
thảo Đề án nghiên cứu khả năng xây dựng
Luật TPQT. Để hoàn thiện Dự thảo Đề án, Bộ
Tư pháp đã có Công văn số 3621/BTP-PLQT
ngày 17/10/2016 gửi xin ý kiến về dự thảo
Đề án nghiên cứu khả năng xây dựng Luật
TPQT tế đến 15 Bộ, ngành và nhận được ý
kiến trả lời từ 11 Bộ, ngành. Kết quả cho thấy,
đa số (9/11) Bộ/ngành nhất trí với sự cần thiết
xây dựng Đề án nghiên cứu khả năng xây
dựng Luật TQT và đề xuất dự kiến xây dựng
Luật TPQT (Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính,
Bộ Công thương, Bộ Giao thông vận tải, Bộ
Khoa học và Công nghệ, Liên đoàn Luật sư
Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao và Ban Chỉ đạo cải
cách tư pháp Trung ương). 2/11 Bộ/ngành
(Bộ Nội vụ và Phòng Thương mại và Công
2 Vụ Pháp luật Quốc tế - Bộ Tư pháp, Định hướng sửa đổi phần 7 BLDS 2005, Hà Nội, tháng 2/2014.
3 Ngô Quốc Chiến, Việt Nam cần xây dựng Luật TPQT, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 2 và 3 năm 2016; Lê Thị Nam
Giang, Đề xuất xây dựng Luật TPQT, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 18 năm 2013; Nguyễn Khánh Ngọc (chủ biên),
Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật TPQT, tlđd, tháng 6/2016.
4 Công văn số 923/BTP-PLQT ngày 21//3/2017 của Bộ Tư pháp gửi Thủ tướng Chính phủ về việc nghiên cứu khả năng
xây dựng Luật TPQT.
5 Bành Quốc Tuấn, Không ban hành đạo luật TPQT: Xu thế tất yếu của TPQT Việt Nam trong giai đoạn sắp tới, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, số 5 (285), 2015.
6 Xem, chẳng hạn: Ngô Quốc Chiến, Thực tiễn xây dựng luật TPQT của Cộng hòa Dominica và một số gợi ý đối với Việt
Nam, Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, số 3 (228), tháng 3/2017, tr. 34-45.
nghiệp Việt Nam) đề nghị cân nhắc về sự
cần thiết, tính khả thi của việc xây dựng
Đề án nghiên cứu khả năng xây dựng Luật
TPQT trong giai đoạn hiện nay, khi BLDS
năm 2015 và Bộ luật TTDS năm 2015 vừa
mới được ban hành và đã cập nhật, phù hợp
với xu hướng chung điều chỉnh của TPQT4.
Bên cạnh đó, cũng có ý kiến phản biện
cho rằng, Việt Nam không nên xây dựng
luật về TPQT mà ưu tiên cho việc tham
gia các điều ước quốc tế5. Tuy nhiên, thực
tiễn xây dựng Luật TPQT của một số quốc
gia cho thấy, ở những nước này cũng xuất
hiện những ý kiến tương tự, nhưng không
cản bước được nhà lập pháp xây dựng luật
TPQT, bởi việc này mang lại rất nhiều lợi
ích6. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu
xây dựng luật TPQT, cần tham khảo kinh
nghiệm của cả các nước đã thành công và cả
các nước đã thất bại trong việc xây dựng luật
TPQT để tránh đi vào “vết xe đổ”. Bài viết
này nghiên cứu trường hợp của Cộng hòa
Pháp để góp thêm một cái nhìn đa chiều cho
việc xây dựng luật TPQT Việt Nam.
1. Khái quát về hệ thống tư pháp quốc tế
Pháp
Nếu như pháp điển hóa luật pháp nói
chung và TPQT nói riêng là xu hướng phổ
biến và đặc trưng cho hệ thống dân luật
(civil law) thì quốc gia tiêu biểu cho hệ
thống pháp luật này, nước Pháp, cho đến
nay vẫn quay lưng lại với việc pháp điển
hóa TPQT. Trong khi các quốc gia lân cận
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
57Số 13(341) T7/2017
ở châu Âu7 đã lần lượt xây dựng các luật,
bộ luật về TPQT (Bỉ8, Italy9, Thụy Sỹ10, Hà
Lan11, Áo12, Liechtenstein13, Ba Lan14, Séc15,
Bulgary16, Hungary17, Thổ Nhĩ Kỳ18, Anh
quốc19, Slovenia20, Estonia21, Macedonia22,
Montenegro23, Romania24), hoặc tập hợp các
quy phạm TPQT trong các BLDS (Đức25,
7 Về pháp điển hóa TPQT ở châu Âu, xem: M. Fallon, P. Lagarde và S. Poillot-Perruzzetto, La matière civile et commerciale,
socle d’un code européen de droit international privé? (Lĩnh vực dân sự và thương mại, trụ cột của Bộ luật châu Âu về
TPQT?), Dalloz, Thèmes & Commentaires, 2009; F. Boulanger, Codifications nationales et convention de La Haye du 1
er août 1989: l’improbable unification du droit international des successions (Các pháp điển hóa quốc gia và Công ước
La Haye ngày 1/8/1989: pháp điển hóa bất khả thi thừa kế có yếu tố nước ngoài), Mélanges Paul Lagarde, Dalloz, 2005,
tr. 155-167; A. Weiss, Le Code civil et le conflit de lois (BLDS và xung đột luật), in Le Code civil 1804-1904, livre du
centenaire, présentation J.-L. Halpérin, rééd. Dalloz, 2004, tr. 249-262; C. Kesedjian, Codification du droit commercial
international et droit international privé - De la gouvernance normative pour les relations économiques transnationales
(Pháp điển hóa pháp luật thương mại quốc tế và TPQT - Về quản trị pháp luật cho các quan hệ kinh tế xuyên quốc gia),
RCADI, 2002, t. 300, tr. 79-308; E. Putman, Réflexions sur la question de la codification du droit international privé
(Suy nghĩ về vấn đề pháp điển hóa TPQT), trong La codification du droit international – Actes du XXXIIe Colloque de
la Société Française pour le Droit international, Pedone, 1999, tr. 111-116.
8 Luật ngày 16/7/2004 ban hành Bộ luật TPQT.
9 Luật số 218 ngày 31/5/1995 về cải cách hệ thống TPQT.
10 Luật liên bang về TPQT ngày 18/12/1987.
11 Luật ngày 19/5/2011 pháp điển hóa các quy phạm xung đột vào Quyển thứ 10 BLDS.
12 Luật liên bang về TPQT (IPR-Gesetz) ngày 15/6/1978.
13 Luật về TPQT ngày 19/9/1996.
14 Luật về TPQT ngày 12/11/1965, sau đó được thay thế bằng Luật TPQT ngày 16/5/2011.
15 Luật số 97 về TPQT và tố tụng ngày 4/12/1963 của CH Séc và Slovakia. Luật này sau đó được thay thế bằng Luật
số 91 ngày 25/1/2012 về TPQT và tố tụng và được áp dụng tại CH Séc.
16 Luật số 42 về TPQT và TTDS quốc tế ngày 4/5/2005, sau đó được sửa đổi và thay thế bằng Luật số 59 năm 2007.
17 Sắc luật số 13/1979 của Hội đồng Chủ tịch nước CHND Hungary về TPQT ngày 31/5/1979.
18 Luật về TPQT năm 1982
19 Luật của Vương quốc Anh về các quy định TPQT (Private International Law (Miscellaneous Provisions Act) ngày
8/11/1995.
20 Luật ngày 30/6/1999 về TPQT và tố tụng.
21 Luật về TPQT ngày 27/3/2002.
22 Luật về TPQT ngày 4/7/2007.
23 Luật về TPQT ngày 23/12/2013.
24 Luật số 105 ngày 22/9/1992 về quan hệ TPQT, sau đó được sửa đổi và pháp điển hóa vào Quyển thứ VII BLDS và Luật
số 134 ngày 15/7/2010 ban hành Bộ luật TTDS.
25 Luật ngày 25/7/1986 cải cách TPQT và Luật ngày 21/5/1999 về TPQT điều chỉnh các quan hệ ngoài hợp đồng và quan
hệ tài sản.
26 Luật liên bang số 146 ngày 26/11/ 2001 thi hành phần thứ ba BLDS Nga (các điều từ 1186 đến 1224 của Thiên thứ VI,
Phần thứ Ba BLDS Nga.
27 Quy định: “Các quy phạm được áp dụng bắt buộc đối với tất cả mọi người sinh sống trên lãnh thổ Pháp.
Bất động sản, kể cả do người nước ngoài chiếm hữu, chịu sự điều chỉnh của pháp luật Pháp.
Luật về tình trạng nhân thân và năng lực của cá nhân điều chỉnh công dân Pháp, kể cả khi họ sinh sống ở nước ngoài”.
28 Quy định: “Người nước ngoài, ngay cả khi không cư trú trên nước Pháp, vẫn có thể bị xét xử trước tòa án Pháp, đối với
việc thực hiện các nghĩa vụ giao kết tại Pháp với người Pháp; người nước ngoài có thể được xét xử trước tòa án Pháp
đối với các nghĩa vụ giao kết với người Pháp tại nước ngoài”.
29 Quy định: “Người Pháp có thể bị xét xử trước tòa án Pháp đối với các nghĩa vụ mà người này đã giao kết tại nước ngoài
với người nước ngoài”.
Nga26), thì Pháp vẫn chỉ có rất ít các quy
định TPQT thành văn. Ngoài Điều 327 và
Điều 1428, 1529 BLDS về thẩm quyền của
Tòa án Pháp và luật áp dụng đối với các
quan hệ có yếu tố nước ngoài (YTNN) liên
quan tới công dân Pháp, trong suốt hai thế
kỷ, cơ quan lập pháp của Pháp chỉ thông qua
thêm một số điều khoản về quan hệ cha, mẹ
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
58 Số 13(341) T7/2017
và con có YTNN30.
Rõ ràng là các quy định này, ngoài sự
bất hợp lý về vị trí31 thì còn bất cập về nội
dung và sơ sài về số lượng, nên hoàn toàn
không đủ để giải quyết tất cả các vấn đề của
TPQT. Trong thực tế, Tòa án Pháp đã phải
sử dụng phương pháp quy dẫn, tức là sử
dụng các quy định xác định thẩm quyền của
tòa án đối với các vụ việc trong nước (các
Điều 42 đến 47 Bộ luật TTDS) cho các vụ
việc có YTNN.
Sự sơ sài về nguồn cấu thành TPQT
không đặt ra nhiều vấn đề trong hơn 100 năm
kể từ khi ban hành BLDS năm 1804. Pháp
luật Pháp vẫn bằng lòng với việc trao quyền
cho thẩm phán bổ khuyết cho các nguyên
tắc chung này. Chính vì thế, hệ thống án lệ
về TPQT của Pháp rất phát triển. Tuy nhiên,
cho tới sau khi chiến tranh thế giới thứ hai
kết thúc thì các quan hệ dân sự có YTNN đã
phát triển nhanh chóng. Các quy định sơ sài
của TPQT không còn phù hợp nữa. Việc trao
thẩm quyền cho Tòa án mặc dù có ưu điểm
là tạo ra một hệ thống các giải pháp mềm
dẻo, thích ứng nhanh chóng với biến động
của thực tiễn, nhưng lại có những bất lợi cố
hữu, đó là khả năng tiếp cận pháp luật đối
với người dân trở nên khó khăn hơn và bản
thân Tòa án cũng khá nhiều lần thay đổi giải
pháp trước đó của chính mình, tạo nên sự
30 Ngoài Điều 3 và Điều 14,15 BLDS về thẩm quyền của Tòa án Pháp và luật áp dụng đối với các QHDS có YTNN liên
quan tới công dân Pháp, trong suốt hai thế kỷ, cơ quan lập pháp của Pháp chỉ thông qua thêm một số điều khoản về
quan hệ cha mẹ con cái có YTNN (Điều 311.14-311.18 BLDS) và ly hôn có YTNN (Điều 310 BLDS), xem: Armelle
Bodenes-Constantin, La codification du droit international français (Pháp điển hóa TPQT Pháp), Nxb. Defrénois,
2005, đoạn 5, tr. 5-6.
31 Các quy định về thẩm quyền lẽ ra phải được quy định trong Bộ luật TTDS.
32 Về vấn đề án lệ và thay đổi án lệ, xem: Ngô Quốc Chiến và Medhi Kebir, Tính hồi tố của án lệ và thay đổi án lệ, Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 17 và 18 tháng 9/2013.
33 Benjamin Rémy, Les codifications récente du droit international privé (Các pháp điển hóa TPQT mới nhất), Revue
international de droit comparé, vol 62, n°2, tr. 292.
34 Dự thảo được đăng trên Tạp chí Revue crititique de droit international privé, 1950, tr. 111-125. Dự thảo đã được thảo
luận trước Ủy ban Quốc gia về TPQT và các tham luận được đăng trong cuốn kỷ yếu có tựa đề La codification du droit
international privé - Discussion de l’avant-projet de la Commission de réforme du Code civil (20-21 mai 1955) (Pháp
điển hóa TPQT - Thảo luận về tiền dự án luật của Ủy ban sửa đổi BLDS (20-21/ 5/1955), Dalloz, 1956.
35 Benjamin Rémy, tlđd, tr. 292.
mất an toàn pháp lý cho các chủ thể32.
Chính điều này đã thúc đẩy một số nhà
nghiên cứu và Bộ Tư pháp Pháp đề xuất các
dự án luật TPQT. Nước Pháp đã chứng kiến
ít nhất ba lần nỗ lực pháp điển hóa TPQT
một cách toàn diện, song đều thất bại.
2. Những nỗ lực pháp điển hóa tư pháp
quốc tế bất thành của Pháp
Những đề xuất pháp điển hóa TPQT
đã được nêu ra tại Pháp ngay sau chiến tranh
thế giới thứ hai33. Ba dự án luật về TPQT
đã được đề xuất, đó là các dự án của Juliot
de La Morandière (1), của H. Batiffol (2) và
của Jean Foyer (3), nhưng không dự án nào
được Nghị viện Pháp chấp nhận.
2.1 Dự án thứ nhất - Dự án Niboyet
Đây được coi là dự án xây dựng Luật
TPQT34 đầu tiên ở Pháp được Ủy ban cải
cách BLDS Pháp, đứng đầu là ông Juliot de
La Morandière, xây dựng từ năm 1948 đến
năm 1950. Người đóng vai trò quan trọng
nhất cho việc xây dựng dự thảo luật là luật
gia TPQT nổi tiếng của Pháp, ông Jean Paul
Niboyet, nên giới nghiên cứu vẫn gọi đây là
dự án Niboyet. Dự thảo gồm 150 điều đề cập
toàn diện tới địa vị pháp lý của người nước
ngoài, giải quyết xung đột luật, thẩm quyền
của các tòa án Pháp đối với các vụ việc có
YTNN35. Dự thảo không chỉ giải quyết các
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 13(341) T7/2017
vấn đề cụ thể như hôn nhân gia đình, quan
hệ cha mẹ con cái, hợp đồng, v.v.., mà còn
đề cập tới các vấn đề chung như định danh,
xung đột luật, dẫn chiếu, điều kiện áp dụng
pháp luật nước ngoài, công nhận quyền đã
xác lập ở nước ngoài (vested right hay droit
acquis)36. Như vậy, đây là một dự thảo toàn
diện và đưa ra những giải pháp cụ thể, chi
tiết cho từng vấn đề chứ không chỉ đơn thuần
là các nguyên tắc chung. Về mặt nội dung,
dự thảo đã “ghi nhận hầu hết các giải pháp
xung đột đương đại, dựa trên sự tổng hợp các
giải pháp do án lệ đề ra [] hài hòa giữa việc
đảm bảo lợi ích quốc gia và thích ứng với
nhu cầu phát triển giao thương quốc tế”37.
Dự thảo Niboyet ghi dấu ấn đậm nét
của việc ưu tiên áp dụng pháp luật của Pháp.
Luật của Pháp không chỉ được áp dụng rộng
rãi đối với các quan hệ nhân thân liên quan
tới công dân Pháp theo nguyên tắc quốc tịch
(lex nationalis), mà ngay cả người nước
ngoài cư trú tại Pháp từ 5 năm trở lên cũng sẽ
phải chịu sự điều chỉnh của luật Pháp (Điều
59 Dự thảo). Các quy phạm xung đột chủ
yếu là quy phạm một chiều. Đây có lẽ cũng
là lý do khiến Dự thảo bị tranh luận gay gắt
khi đưa ra thảo luận năm 195538, khiến Ủy
ban cải cách BLDS phải thu hồi Dự thảo và
giao việc soạn thảo một Dự thảo mới cho
hai Thẩm phán cao cấp là Marc Ancel và
Georges Holleaux, cũng như Trưởng ban
mới là Thẩm phán Henri Batiffol39. Ngoài
ra, việc tác giả đột ngột qua đời năm 1952
cũng khiến Dự thảo không còn được bảo vệ,
36 Paul Lagarde, Sur la non-codification du droit international privé français (Lý do không pháp điển TPQT Pháp, Syra-
cuse Journal of International Law and Commerce, vol. 25, Iss. 1, Art. 4, tr. 48.
37 Báo cáo của Bộ Tư pháp Pháp về dự án Luật Dân sự, tr. 28.
38 Xem bài viết của giáo sư Yvon Loussouarn, The French Draft on Private International Law and the French Conference
on Codification of Private International Law, 5e International and Comparative Law Quartely 378, 1956.
39 Paul Lagarde, tlđd., tr. 48.
40 Toàn văn được đăng trên Tạp chí Revue crititique de droit international privé, 1970, tr. 832-835.
41 Paul Lagarde, tlđd., tr. 49.
42 Benjamin Rémy, tlđd., tr. 293.
43 Paul Lagarde, tlđd., tr. 49.
nên dự án xây dựng Luật TPQT cũng “chết”
theo người mang lại “tâm hồn” cho nó mà
chưa kịp đưa ra thảo luận trước Nghị viện.
2.2 Dự án thứ hai - Dự án
Batiffol 1959
Dự án thứ hai, còn được gọi là dự án
“Batiffol”, do người khởi xướng là giáo sư
H. Batiffol với sự tham gia của M. Ancel và
G. Holleaux. Trái ngược với Dự thảo luật
Niboyet, bản Dự thảo40 lần hai chỉ gồm vỏn
vẹn 21 điều chứa đựng các nguyên tắc chủ
đạo điều chỉnh ba vấn đề: địa vị pháp lý của
người nước ngoài (1 điều), xung đột luật
(10 điều) và xung đột thẩm quyền (10 điều).
Điều này phản ánh chủ trương của nhóm tác
giả là chỉ đưa ra các nguyên tắc chung chứ
không đi vào các giải pháp cụ thể41. Dự thảo
được đánh giá là ít tính hàn lâm và ít gây
tranh cãi hơn Dự thảo đầu tiên42. Thực vậy,
Dự thảo đã bỏ đi hầu hết các quy phạm xung
đột một chiều cũng như việc đề cao quá mức
luật của Pháp trong giải quyết xung đột luật
và pháp điển hóa các giải pháp đã được ghi
nhận trong án lệ, hệ thuộc quốc tịch được
thay thế bằng hệ thuộc nơi cư trú.
Lần này, Dự thảo được trình riêng rẽ
so với Dự thảo cải cách BLDS. Tuy nhiên,
văn bản đã không được bàn đến và chỉ được
công bố 11 năm sau đó, năm 1970, gần như
cùng lúc với Dự thảo thứ ba. Do đó, bản Dự
thảo thứ hai này đã nhanh chóng rơi vào
quên lãng và các học giả đánh giá rằng Dự
thảo thất bại là do “thiếu ý chí chính trị” chứ
không phải do nội dung của Dự thảo43.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 13(341) T7/2017
2.3 Dự án thứ ba - Dự án Foyet
năm 1967
Dự án thứ 3 được bắt đầu 1965 theo
sáng kiến của Bộ trưởng Tư pháp lúc bấy
giờ là ông Jean Foyet. Dự thảo Luật44 gồm
37 điều, được hoàn thiện trên cơ sở Dự thảo
năm 1959 và dự kiến sẽ được đưa vào thành
một phần của BLDS (quyển IV) với tên gọi
“Luật áp dụng trong TPQT”45. Điều này cho
thấy, Dự thảo mới chỉ tập trung giải quyết
vấn đề xung đột luật. Lần này, Dự thảo chỉ
ghi nhận các quy phạm nhiều bên và gần như
xóa bỏ hoàn toàn các quy phạm một chiều.
Đáng tiếc là Dự thảo đã không nhận
được sự quan tâm của đội ngũ lãnh đạo mới
tại Bộ Tư pháp46, hay nói một cách khác,
cũng như số phận của Dự thảo thứ hai, Dự
thảo lần ba này đã không được đưa ra bàn
thảo do thiếu “quyết tâm chính trị”47.
3. Nguyên nhân Pháp không pháp điển
hóa tư pháp quốc tế
Các học giả bàn luận khá nhiều tới các
nguyên nhân nhằm lý giải việc nước Pháp
cho đến nay vẫn không thành công hoặc
không quá tha thiết với việc pháp điển hóa
TPQT48.
Lý do thứ nhất là nước Pháp không có
44 Toàn văn được đăng trên Tạp chí Revue crititique de droit international privé, 1970, tr. 835-846.
45 Paul Lagarde, tlđd., tr. 49
46 Jean Foyer, Tournant et retour aux sources en droit international privé: l'article 310 nouveau du code civil (Bước ngoặt
và sự trở lại nguồn trong TPQT: điều 310 BLDS mới), J.C.P. 1976.1.2762, tr 1.
47 Vị trí Bộ trưởng tư pháp thay đổi chỉ ít lâu sau khi Dự thảo được hoàn thành, và vị Bộ trưởng mới không dành sự quan
tâm cho Dự thảo của Bộ trưởng cũ.
48 Xem Paul Lagarde, tlđd., tr. 56-59; Benjamin Rémy, tlđd., tr. 293-297; F. Terré, Les problèmes de codification à la
lumière des expériences et situations actuelles (các vấn đề của pháp điển hóa: kinh nghiệm và hiện trạng), trong Etudes
de droit contemporain : VIe congrès international de droit comparé, quyển XXIII, Cujas, 1962, tr. 175 và tiếp theo; H.
Muir Watt, tlđd, tr. 149 và tiếp theo; Y. Loussouarn, tlđd, tr. 191-204; D. Bureau, tlđd, tr. 119-143.
49 Y. Loussouarn, tlđd, tr. 191-204.
50 Y. Loussouarn, tlđd, tr. 191-204.
51 B. Ancel và Y. Lequette, Grands arrêts de la jurisprudence française de droit international privé (Các án lệ đáng chú ý
của Pháp về TPQT), Sirey, 1992, av.-propos, p. XI.
52 D. Bureau, tlđd, tr. 132.
53 P. Lavie, Tendances et méthodes en droit international privé (Xu thế và phương pháp của TPQT), RCALH 1977-III, t.
155, p. 1 et s., trích trong B. Oppetit, Le droit international privé, droit savant (TPQT, một ngành luật bác học), RCALH
1992-III, t. 234, tr. 339.
54 B. Oppetit, tlđd., tr. 339.
được nỗ lực chính trị thực sự về pháp điển
hóa hệ thống TPQT của mình. Dự án thứ
nhất và thứ ba đã không được tiếp tục ngay
khi người khởi xướng chết hoặc rời chức vụ.
Còn Dự án thứ hai không thành công là vì
nhóm khởi xướng quá ít ảnh hưởng về chính
trị và học thuật. Nội dung của Dự án được
giới thiệu quá chậm và được coi là “được
chăng hay chớ”49, nên không nhận được sự
ủng hộ của cơ quan nhà nước cũng như giới
nghiên cứu.
Lý do thứ hai liên quan đến thời điểm
ra đời các Dự án. Một số người cho rằng còn
quá sớm để nghĩ tới một đạo luật chuyên biệt
điều chỉnh các QHDS có YTNN50. Một số
khác lại nghĩ rằng, chưa đủ cơ sở lý luận và
thực tiễn51. Một số khác nữa đánh giá rằng đã
quá muộn để xây dựng Luật về TPQT, bởi vì
quá trình toàn cầu hóa đã diễn ra với sự gia
tăng nhanh chóng các QHDS có YTNN, làm
cho các giải pháp mà Tòa án đưa ra trở nên
phức tạp hơn bao giờ hết52. TPQT Pháp đã
trở nên phức tạp tới mức không thể “nhét”
tất cả các quy định vào một chiếc áo pháp
điển. Ngoài sự phức tạp “tự nhiên và không
thể giản lược được của TPQT”53 còn có sự
“phức tạp về hình thức” tuy không quá quan
trọng nhưng lại không dễ giải quyết54.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 13(341) T7/2017
Có ý kiến cho rằng, việc nước Pháp
không pháp điển hóa TPQT đem lại những
lợi ích nhất định đối với việc hài hòa hóa
và tuân thủ luật pháp quốc tế và khu vực55.
Trong khi các nước trong EU như Đức, Ý,
Thụy Sỹ phải tiến hành sửa đổi các văn
bản TPQT cho phù hợp với các quy định
của châu Âu rất tốn công sức và tiền của,
thì nước Pháp, do không có luật về TPQT
nên không phải mất công sửa đổi luật, hệ
thống án lệ có thể thích nghi một cách nhanh
chóng với hoàn cảnh mới. Chính lợi ích này
khiến nhiều người không ủng hộ việc pháp
điển hóa TPQT ở Pháp56. Ý kiến khác cho
rằng, quá trình pháp điển hóa trên bình diện
quốc tế có thể bù đắp sự thiếu hụt của nước
Pháp. Ngay từ sau chiến tranh thế giới thứ
hai, nước Pháp đã đóng vai trò hạt nhân tích
cực tại Hội nghị quốc tế La Hay về TPQT và
tham gia vào việc soạn thảo rất nhiều Công
ước về TPQT trong khuôn khổ hội nghị này.
Do vậy, nước Pháp có thể không cần tiến
hành pháp điển hóa các quy định trong nước
mà có thể tận dụng quá trình pháp điển hóa
quốc tế này57.
Lý do thứ ba liên quan đến bản chất
của TPQT. Đây là một loại văn bản chuyên
ngành rất đặc biệt, có phạm vi điều chỉnh
rộng, liên quan đến rất nhiều văn bản luật
khác nhau. Một số khái niệm thuộc phạm vi
điều chỉnh của văn bản luật này mang tính
hàn lâm thuộc loại khá mềm dẻo, khó nắm
bắt và được áp dụng rất khác nhau, chẳng
hạn các khái niệm như “trật tự công cộng”,
“dẫn chiếu”, “định danh”, “lẩn tránh pháp
55 Armelle Bodenes-Constantin, tlđd., tr. 10.
56 Paul Lagarde, tlđd., tr.51.
57 E. Putman, Réflexion sur la question de la codification du droit international (Nghĩ về vấn đề pháp điển hóa pháp luật
quốc tế), Nxb. Pedone, 1999, tr. 111.
58 Y. Loussouarn, tlđd., tr. 201.
59 Thực nghĩa là Tòa phá án (Cour de cassation), trong hệ thống tư pháp của Pháp, đây là Tòa án cao nhất trong trật tự các
Tòa tư pháp. Nhà Pháp luật Việt-Pháp, Từ điển thuật ngữ pháp luật, Nxb. Từ điển Bách khoa, H., 2009, xem mục từ
Cour de cassation, tr. 2008.
luật”, “trùng tố”, “nhường thẩm quyền”,
“quan hệ gắn bó nhất”. Chính điều này làm
cho việc luật hóa các khái niệm là rất khó
khăn. Theo một số tác giả, tính chất án lệ
của TPQT đáp ứng được tốt hơn các đòi hỏi
về sự gắn kết và tính khả đoán của pháp luật,
nên việc xây dựng một bộ luật về TPQT là
hoàn toàn không cần thiết58. Một số người
thậm chí còn cho rằng, bộ luật về TPQT là
có hại vì đây là một lĩnh vực đòi hỏi một
sự đánh giá tự do của Tòa án nên không
thể bị đóng khung vào các quy định cứng
nhắc. Theo họ, TPQT chỉ cần có một số quy
tắc chung thành văn là đủ, các nguyên tắc
chuyên biệt nên để cho Tòa án đưa ra trong
quá trình xét xử.
4. Sự cần thiết phải pháp điển hóa tư pháp
quốc tế Pháp
Mặc dù cho đến nay, nước Pháp vẫn
do dự trong việc xây dựng Luật TPQT,
nhưng những chuyển biến của bối cảnh
hiện nay cả trong nước và quốc tế đã cho
thấy sự cần thiết phải tiến hành pháp điển
hóa TPQT. Việc các nhà lập pháp ban hành
các quy định rời rạc để điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh có thể dẫn tới sự thiếu
thống nhất của hệ thống pháp luật. Sự cần
thiết phải pháp điển hóa TPQT Pháp được
luận giải bởi những lý do sau đây:
4.1 Án lệ không phải là giải pháp
bền vững
Mặc dù các phán quyết của Tòa án
tối cao59 có tính hệ thống thông qua việc
thẩm phán xây dựng hoặc khẳng định các
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 13(341) T7/2017
nguyên tắc chung trong áp dụng pháp luật,
nhưng điều này cũng không đảm bảo hoàn
toàn sự áp dụng và giải thích thống nhất bởi
các Tòa án cấp dưới. Điều này càng đúng
đối với những vấn đề mới chưa được Tòa
án tối cao xem xét. Chẳng hạn trong các vụ
tranh chấp liên quan tới thẩm quyền xét xử
quốc tế của Tòa án Pháp đối với vụ việc cá
nhân kiện Facebook, các Tòa án cấp tỉnh áp
dụng và giải thích theo các cách rất khác
nhau các quy phạm pháp luật của Pháp để
giải quyết các câu hỏi liên quan tới TPQT60.
Một số học giả thậm chí chỉ trích rằng, án lệ
đã xa rời nhiệm vụ đảm bảo tính hệ thống
và nhất quán của TPQT, tỏ ra ít quan tâm
hơn tới việc đảm bảo tính nhất quán này mà
chỉ chú ý giải quyết các vấn đề nhất thời61.
Xu hướng này càng thể hiện rõ đối với lĩnh
vực TPQT vốn nhiều khái niệm trừu tượng
như bảo lưu trật tự công cộng, dẫn chiếu, lẩn
tránh pháp luật
4.2 Vai trò hạn chế của các điều ước quốc
tế trong lĩnh vực TPQT
Quá trình pháp điển hóa TPQT diễn ra
sôi nổi từ sau chiến tranh thế giới thứ hai ở
cấp độ khu vực (châu Âu) và ở cấp độ quốc
tế (trong khuôn khổ Hội nghị La Hay về
TPQT). Nước Pháp tham gia tích cực vào
quá trình này, không chỉ trở thành thành viên
mà còn trực tiếp tham gia soạn thảo các điều
ước quốc tế (ĐƯQT) về TPQT.
Việc pháp điển hóa TPQT có những
ưu điểm nhất định bởi các giải pháp đưa
60 Xem chi tiết trong Lý Vân Anh, “Thẩm quyền trong các vụ kiện của Facebook của Tòa án Pháp : Gợi mở với Việt
Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9 (341), 2016, tr. 75-90.
61 L. Gannage, La hiérarchie des normes et les méthodes du droit international privé: étude de droit international privé de
la famille (Thứ tự các nguồn và phương pháp điều chỉnh của TPQT: nghiên cứu quan hệ gia đình trong TPQT), LGDJ,
1999, tr. 25.
62 Paul Lagarde, tlđd, tr. 57.
63 Ví dụ Công ước La Hay năm 1978 về luật áp dụng cho chế độ tài sản vợ chồng tuy có hiệu lực nhưng cũng chỉ có 3
thành viên là Pháp, Hà Lan và Luxembourg; Công ước La Hay năm 1989 về luật áp dụng cho thừa kế mới chỉ có Hà
Lan phê chuẩn.
ra là những giải pháp đã thống nhất, do đó
giúp hạn chế tối đa sự khác biệt giữa các
nước. Hơn nữa, những lĩnh vực thuộc phạm
vi điều chỉnh của các ĐƯQT đều là những
lĩnh vực có nhu cầu điều chỉnh cao, trong đó
các quan hệ có YTNN diễn ra phổ biến. Do
vậy, ngay cả khi việc pháp điển hóa chưa
thành công (có những ĐƯQT không có hiệu
lực do không có đủ số nước tham gia), quá
trình này có thể giúp cung cấp cho các nước
những đường hướng chính trong xây dựng
và áp dụng TPQT. Quá trình này cũng là quá
trình so sánh các giải pháp quốc gia và các
nước tham gia đàm phán có thể hiểu rõ hơn
về các giải pháp chung được đa số các quốc
gia áp dụng62.
Nhưng chỉ dựa vào các ĐƯQT với
quan niệm có thể thay thế hoàn toàn cho
việc pháp điển hóa TPQT là sai lầm, bởi
pháp điển hóa trên bình diện quốc tế cũng
có những mặt trái. Đây là quá trình đàm
phán lâu dài, khó khăn và thường đi đến
thất bại hơn là thành công. Nhìn vào các
Dự thảo hoặc Công ước đã được thông qua
tại Hội nghị La Hay về TPQT, có thể thấy
rất nhiều Công ước chưa thể có hiệu lực do
không đủ thành viên tham gia hoặc ngay cả
những Công ước đã có hiệu lực thì cũng có
rất ít nước tham gia63. Điều đó cho thấy các
Công ước chưa chắc đã giúp ích cho việc
thống nhất hóa TPQT trên thế giới, ngược
lại, chúng dường như lại bổ sung vào một
số mắt xích trong chuỗi phức tạp của TPQT
một cách không cần thiết.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 13(341) T7/2017
Kết luận
Mặc dù đã có ba nỗ lực bất thành,
nhưng nước Pháp hiện nay vẫn nhận thấy
cần có các nỗ lực lớn hơn để pháp điển hóa
TPQT, bởi tiến trình này sẽ đảm bảo tính
hệ thống, nhất quán và rõ ràng, không chỉ
cho các thẩm phán của Pháp trong việc giải
quyết các vụ việc có YTNN mà ngay cả cho
các thẩm phán nước ngoài trong trường hợp
phải áp dụng TPQT của Pháp (đối với những
64 Armelle Bodenes-Constantin, tlđd., tr. 19.
nước cho phép cơ chế dẫn chiếu ngược hoặc
dẫn chiếu tới nước thứ ba). Để tránh cứng
nhắc, nhà lập pháp có thể bổ sung các điều
khoản linh hoạt hoặc điều khoản ngoại lệ,
và quy định ưu tiên áp dụng ĐƯQT (để đảm
bảo tuân thủ pháp luật quốc tế). Điều quan
trọng nhất là pháp điển hóa TPQT sẽ giúp
nước Pháp có được một bức tranh tổng thể
các quy phạm TPQT64 hài hòa trên cơ sở các
nguyên tắc chung trong một lĩnh vực mà sự
giao thoa với quốc tế vốn cực kỳ phổ biến
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Lý Vân Anh, Thẩm quyền trong các vụ kiện của Facebook của Tòa án Pháp: Gợi mở với Việt Nam, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, số 9 (341), tháng 9/2016.
- Ngô Quốc Chiến và Medhi Kebir, Tính hồi tố của án lệ và thay đổi án lệ, Tạp chí Tòa án Nhân dân, số 17
và 18 tháng 9/2013.
- Armelle Bodenes-Constantin, La codification du droit international français (Pháp điển hóa TPQT Pháp),
Nxb Defrénois, 2005.
- A. Weiss, Le Code civil et le conflit de lois (BLDS và xung đột luật), trong Le Code civil 1804-1904, livre
du centenaire, rééd. Dalloz, 2004.
- B. Ancel và Y. Lequette, Grands arrêts de la jurisprudence française de droit
international privé (Các án lệ đáng chú ý của Pháp về TPQT), Sirey, 1992, av.-propos, p. XI.
- B. Oppetit, Le droit international privé, droit savant (TPQT, một ngành luật bác học), RCALH 1992-III,
t. 234.
- B. Rémy, Les codifications récente du droit international privé (Các pháp điển hóa TPQT mới nhất),
Revue international de droit comparé, vol 62, n°2, tr. 292.
- C. Kesedjian, Codification du droit commercial international et droit international privé – De la
gouvernance normative pour les relations économiques transnationales (Pháp điển hóa pháp luật thương mại
quốc tế và TPQT – Quản trị pháp luật cho các quan hệ kinh tế xuyên quốc gia), RCADI, 2002, t. 300, tr. 79-308.
- D. Bureau, La codification du droit international privé (Pháp điển hóa TPQT), trong La codification, B.
Beigner (chủ biên), Dalloz, coll. Thèmes et Commentaires, 1996.
- E. Putman, Réflexions sur la question de la codification du droit international privé (Suy nghĩ về vấn đề
pháp điển hóa TPQT), trong La codification du droit international – Actes du XXXIIe Colloque de la Société
Française pour le Droit international, Pedone, 1999, tr. 111-116.
- F. Boulanger, Codifications nationales et convention de La Haye du 1 er août 1989: l’improbable unification
du droit international des successions (Các pháp điển hóa quốc gia và Công ước La Hay ngày 1/8/1989: pháp
điển hóa bất khả thi thừa kế có YTNN), Mélanges Paul Lagarde, Dalloz, 2005, tr. 155-167.
- F. Terré, Les problèmes de codification à la lumière des expériences et situations actuelles (các vấn đề của
pháp điển hóa: kinh nghiệm và hiện trạng), trong Etudes de droit contemporain : VIe congrès international de
droit comparé, quyển XXIII, Cujas, 1962.
- Jean Foyer, Tournant et retour aux sources en droit international privé: l’article 310 nouveau du code civil
(Bước ngoặt và sự trở lại nguồn trong TPQT: điều 310 BLDS mới), J.C.P. 1976.1.2762.
- L. Gannage, La hiérarchie des normes et les méthodes du droit international privé: étude de droit
international privé de la famille (Thứ tự các nguồn và phương pháp điều chỉnh của TPQT: nghiên cứu quan hệ
gia đình trong TPQT), LGDJ, 1999.
- M. Fallon, P. Lagarde và S. Poillot-Perruzzetto, La matière civile et commerciale, socle d’un code européen
de droit international privé ? (Lĩnh vực dân sự và thương mại, trụ cột của Bộ luật châu Âu về TPQT?), Dalloz,
Thèmes & Commentaires, 2009.
- Paul Lagarde, Sur la non-codification du droit international privé français (Lý do không pháp điển TPQT
Pháp, Syracuse Journal of International Law and Commerce, vol. 25, Iss. 1, Art. 4.
- Yvon Loussouarn, The French Draft on Private International Law and the French Conference on
Codification of Private International Law, 5e International and Comparative Law Quartely 378, 1956.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 13(341) T7/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_dien_hoa_tu_phap_quoc_te_cua_phap_nhung_no_luc_bat_than.pdf