Pháp luật phòng chống gian lận trong bảo hiểm thương mại – Một số bất cập và giải pháp
Thứ nh t, quy định pháp luật về nghĩa vụ
cung cấp thông tin. Trong điểm c, khoản 2 điều
18 Luật kinh doanh bảo hiểm, nên bỏ cụm từ
―theo yêu c u của doanh nghiệp bảo hiểm‖, để
đảm bảo tính chủ động thực hiện nghĩa vụ của
bên mua bảo hiểm, tránh tình trạng những
trường hợp có thể làm t ng rủi ro hoặc làm phát
sinh thêm trách nhiệm của doanh nghiệp, mà bên
bảo hiểm biết nhưng không thông báo bởi vì
không có sự yêu c u của doanh nghiệp bảo hiểm.
Liên quan về vấn đề này pháp luật nên có quy
định về chế tài mà doanh nghiệp áp dụng như
khấu trừ ph n rủi ro t ng thêm mà bên mua bảo
hiểm không khai báo để giảm số tiền bồi thường.
Đối với việc xác định hành vi lừa dối và
hành vi cung cấp thông tin sai sự thật tại điểm d,
khoản 1 điều 22 Luật kinh doanh bảo hiểm nên
được bổ sung thêm chỉ dẫn để phân biệt hành vi
lừa dối với hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự
thật điểm a, khoản 2 điều 19, bởi hậu quả pháp
lý của các hành vi này là khác nhau.
Theo quan điểm tác giả, pháp luật nên sửa
lại hậu quả pháp lý tại khoản 1, điều 22 Luật
kinh doanh bảo hiểm thành ―doanh nghiệp sẽ
đơn phưong đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo
hiểm, nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra mà doanh
nghiệp đã tiến hành trả tiền bảo hiểm hoặc bồi
thường thì có quyền đòi lại số tiền đã chi trả‖ vì
nếu chỉ dẫn đến hậu quả pháp lý hợp đồng bảo
hiểm vô hiệu, thì bên mua bảo hiểm sẽ chẳng
mất gì khi thực hiện các hành vi này với lỗi cố ý
mà bị doanh nghiệp bảo hiểm phát hiện. Như
vậy, mới đảm bảo mục đích chống gian lận bảo
hiểm của điều luật.
Đồng thời, bổ sung thêm một khoản tại điều
19 Luật kinh doanh bảo hiểm như sau ―Trong
trường hợp sự kiện bảo hiểm xảy ra trước khi
biết được những thông tin mà bên mua bảo hiểm
đã cố ý cung cấp nhằm giao kết hợp đồng là sai
sự thật, thì doanh nghiệp không phải trả tiền bảo
hiểm hoặc bồi thường, Nếu đã trả tiền bảo hiểm
hoặc bồi thường, doanh nghiệp có quyền đòi lại
số tiền đã chi trả‖.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 24/01/2022 | Lượt xem: 317 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật phòng chống gian lận trong bảo hiểm thương mại – Một số bất cập và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên mục: Kinh tế & Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 06 (2018)
27
PHÁP LUẬT PHÒNG CHỐNG GIAN LẬN TRONG
BẢO HIỂM THƢƠNG MẠI – MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP
Hoàng Thị Lệ Mỹ
Tóm tắt
Thị trường bảo hiểm Việt Nam đang phải đ i mặt với những hành vi gian lận, tr c lợi bảo hiểm của
khách hàng với những hình thức đa dạng, thủ đoạn tinh vi và s tiền gian lận cũng ngày lớn. Chính vì
vậy, việc đưa ra định nghĩa và th ng nh t quan điểm về gian lận bảo hiểm có ý nghĩa r t quan trọng cho
việc ph ng ch ng gian lận bảo hiểm Điều này đặt ra yêu cầu nhận diện những b t cập về pháp luật
trong việc phòng ch ng gian lận bảo hiểm thư ng mại và hoàn thiện khung pháp lý về v n đề này.
Từ khóa: Gian lận bảo hiểm thư ng mại, bên mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm.
LAW ON ANTI – FRAUD COMMERCIAL INSURANCE – SOME SHORTCOMINGS
AND SOLUTIONS
Abstract
The insurance market in Vietnam is facing fraudulent behavior, profiteering insurance of customers with
diverse forms, sophisticated tricks and the huge amount of fraud. Therefore, making definitions and
unification of views on insurance fraud is very important for the prevention of insurance fraud. This
raises the need to identify legal shortcomings in the prevention of commercial insurance fraud and to
improve the legal framework for this problem.
Keywords: Commercial insurance fraud, insurance buyers, insurance companies.
1. Đặt vấn đề
Bảo hiểm thương mại còn được gọi là bảo
hiểm kinh doanh - được hiểu là sự kết hợp giữa
hoạt động quản lý rủi ro với hoạt động kinh doanh.
Quan hệ bảo hiểm được thiết lập thông qua hình
thức hợp đồng bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo
hiểm và bên mua bảo hiểm. Song do số tiền trả bảo
hiểm trong hợp đồng bảo hiểm lớn hơn nhiều l n
số phí người tham gia bảo hiểm đóng, vì vậy
thường dẫn đến hành vi gian lận bảo hiểm.
Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo từ điển
tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học nhà xuất bản
Đà Nẵng 2003 thì, gian lận được hiệu là ―hành vi
dối trá, mánh khóe, lừa lọc‖.
Dưới góc độ pháp lý, hiện nay trong các
v n bản pháp luật hiện hành về lĩnh vực bảo
hiểm không có một v n bản đưa ra khái niệm về
―gian lận bảo hiểm‖. Tuy nhiên, có một khái
niệm có ý nghĩa tương tự là ―trục lợi bảo hiểm‖.
Trong Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi, bổ
sung n m 2010), Điều 19 quy định về nghĩa vụ
cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng bảo
hiểm, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm có quyền
đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo
hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ
thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo
hiểm ―Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm
giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo
hiểm hoặc được bồi thường‖. Ngược lại, nếu
―trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý
cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp
đồng bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền
đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo
hiểm; doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường
thiệt hại phát sinh cho bên mua bảo hiểm do việc
cung cấp thông tin sai sự thật‖. Tương tự, Điều
22 quy định hợp đồng bảo hiểm vô hiệu khi ―bên
mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có
hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm‖.
Luật Kinh doanh bảo hiểm không hề đề cập đến
khái niệm trục lợi bảo hiểm cụ thể. Như vậy, có
thể thấy pháp luật kinh doanh bảo hiểm hiện
hành của Việt Nam đã hoàn toàn bỏ ngõ trong
việc định nghĩa về khái niệm trục lợi bảo hiểm.
Song theo quan điểm của người viết cho rằng,
trong gian lận bảo hiểm thì ―trục lợi‖ chính là
động cơ th c đẩy việc thực hiện hành vi gian lận.
Như vậy có thể định nghĩa ―Gian lận bảo
hiểm thương mại là hành vi gian dối, không
trung thực của các chủ thể có liên quan đến hợp
Chuyên mục: Kinh tế & Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 06 (2018)
28
đồng bảo hiểm nhằm thu lợi bất chính từ việc
được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hoặc trả
tiền bảo hiểm‖.
Việc đưa ra định nghĩa và thống nhất quan
điểm về gian lận bảo hiểm có ý nghĩa rất quan
trọng cho việc phòng chống gian lận bảo hiểm
thông qua việc hoàn thiện một cách đồng bộ
pháp luật kinh doanh bảo hiểm.
2. Đặc trƣng cơ bản của gian lận bảo hiểm
thƣơng mại
Từ những phân tích trên, có thể thấy hành
vi gian lận bảo hiểm thương mại có những đặc
trưng cơ bản sau: Chủ thể thực hiện hành vi gian
lận là các chủ thể li n quan đ n hợp đồng bảo
hiểm thư ng mại. Với cách tiếp cận khái niệm ở
trên, ta thấy chủ thể thực hiện hành vi gian lận
này trước hết phải tham gia vào quan hệ bảo hiểm
và thực hiện hành vi gian dối, không trung thực
nhằm mục đích hưởng một khoản tiền bất chính
từ số tiền bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm của
doanh nghiệp bảo hiểm. Như vậy, chủ thể thực
hiện hành vi gian lận này bao gồm bên mua bảo
hiểm, bên được bảo hiểm và bên môi giới bảo
hiểm, đại lý bảo hiểm, các tổ chức cá nhân
chuyên tư vấn dịch vụ đòi bồi thường bảo hiểm
và thậm chí chính các nhân viên của doanh
nghiệp bảo hiểm câu kết với khách hàng thực hiện
hành vi gian lận bảo hiểm.
- Có hành vi lừa dối, đó là hành vi cố ý đưa
ra các thông tin hoặc bằng chứng không trung
thực. Ví dụ như hành vi tạo hiện trường giả giống
như dấu hiệu của việc mất c p tài sản; cố ý làm
sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu c u bồi thường,
trả tiền bảo hiểm; tự gây thiệt hại về tài sản, sức
khỏe của mình để hưởng quyền lợi bảo hiểm
- Mục đích khi chủ thể thực hiện hành vi
gian lận bảo hiểm thương mại nhằm để doanh
nghiệp bảo hiểm tin vào những bằng chứng,
thông tin mà mình đưa ra là đ ng sự thật. Từ đó,
nhằm hưởng những khoản lợi tài chính theo cam
kết của doanh nghiệp bảo hiểm nhưng trên thực
tế thì không đủ điều kiện để doanh nghiệp bảo
hiểm thực hiện cam kết này. Để hợp thức trách
nhiệm bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm,
người được bảo hiểm đã thực hiện những hành
vi gian dối nhằm tạo ra những bằng chứng giả để
doanh nghiệp tin rằng tổn thất này xảy ra là có
thực và trong phạm vi bảo hiểm.
- Động cơ của chủ thể thực hiện hành vi
gian lận là trục lợi từ số tiền bồi thường bảo
hiểm hoặc tiền trả bảo hiểm. Như vậy, các doanh
nghiệp bảo hiểm là chủ thể trực tiếp bị ảnh
hưởng về mặt tài chính, cụ thể là doanh nghiệp
phải bồi thường, hay trả tiền bảo hiểm cho
những rủi ro mà đáng lẽ ra doanh nghiệp không
phải bồi thường, hoặc trả tiền bảo hiểm, hoặc bồi
thường cao hơn mức thiệt hại thực tế của rủi ro
bởi những hành vi gian lận đó.
3. Một số bất cập của pháp luật ảnh
hƣởng đến khả năng phòng chống gian
lận thƣơng mại
Sau một thời gian đi vào áp dụng thực tiễn,
các quy định pháp luật về lĩnh vực bảo hiểm
thương mại nói chung và những quy định về
phòng chống gian lận trong bảo hiểm thương mại
nói riêng đã bộc lộ những điểm bất cập chưa ph
hợp với yêu c u phòng chống gian lận bảo hiểm
thương mại diễn ra trong thực tiễn. Tác giả xin
chỉ ra một vài quy định bất cập sau:
Thứ nh t, tại điểm c, khoản 2 điều 18 Luật
kinh doanh bảo hiểm quy định, nghĩa vụ thông
báo những trường hợp có thể làm t ng rủi ro hoặc
làm phát sinh thêm trách nhiệm của bên mua bảo
hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm
phụ thuộc vào việc doanh nghiệp bảo hiểm có yêu
c u hay không. Như vậy, đây là nghĩa vụ của bên
mua bảo hiểm nhưng họ hoàn toàn có thể vô ý
hoặc cố ý không khai báo nếu doanh nghiệp bảo
hiểm không yêu c u. Quy định này làm hạn chế
quyền của doanh nghiệp bảo hiểm và rất khó thực
hiện trong thực tế. Bởi vì, chỉ có bên mua bảo
hiểm mới biết rõ sự thay đổi đó như sức khỏe của
người được bảo hiểm suy giảm đột ngột, điều
kiện tự nhiên nơi có tài sản được bảo hiểm thay
đổi theo chiều hướng xấu đi , không phải lúc
nào doanh nghiệp bảo hiểm cũng biết được các
trường hợp làm t ng rủi ro hoặc phát sinh thêm
trách nhiệm bảo hiểm để yêu c u.
Liên quan đến hành vi cố ý cung cấp thông
tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm.
Pháp luật chưa có quy định nào bảo vệ doanh
nghiệp bảo hiểm trong trường hợp doanh nghiệp
bảo hiểm đã trả tiền bảo hiểm, hoặc bồi thường
khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra thì mới phát hiện
ra bên mua bảo hiểm có hành vi lừa dối hoặc có
Chuyên mục: Kinh tế & Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 06 (2018)
29
hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm
giao kết hợp đồng, doanh nghiệp bảo hiểm có
quyền đòi lại số tiền đã bồi thường đó hay không
đó hay không?
Theo điểm d, khoản 1 điều 22 Luật Kinh
doanh bảo hiểm quy định hợp đồng bảo hiểm sẽ vô
hiệu trong trường hợp bên mua có hành vi lừa dối
khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, theo tác giả thì
quy định này khá chung chung bởi rất khó phân
biệt giữa hành vi ―lừa dối‖ khi giao kết hợp đồng
với hành vi ―cố ý cung cấp thông tin sai sự thật‖
nhằm giao kết hợp đồng, trong khi đó hậu quá
pháp lý của hai hợp đồng này lại rất khác nhau
(hợp đồng bị đình chỉ hoặc hợp đồng bị vô hiệu).
Cũng chính quy định tại khoản 1 Điều 22
Luật KDBH có ph n bất lợi cho các doanh
nghiệp bảo hiểm, và vô tình ―mở đường tiếp tay‖
cho người mua bảo hiểm thực hiện những hành
vi gian lận. Bởi nếu bên mua bảo hiểm cố ý thực
hiện những hành vi được liệt kê trong khoản 1
điều này mà bị doanh nghiệp bảo hiểm phát hiện
thì họ cũng không thiệt hại gì vì hậu quả pháp lý
của những hành vi trên là hợp đồng vô hiệu, theo
đó các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận
(bên mua bảo hiểm sẽ được nhận lại phí bảo
hiểm). Còn nếu hành vi này không bị phát hiện,
thì bên mua bảo hiểm đã được lợi từ việc thực
hiện được hành vi gian lận của mình.
Thứ hai, việc quy định về c n cứ bồi thường
tại điều 46 của Luật kinh doanh bảo hiểm theo
đó, c n cứ để xem xét bồi thường trong quan hệ
tài sản là ―giá thị trường của tài sản được bảo
hiểm tại thời điểm, nơi xảy ra tổn thất và mức độ
thiệt hại thực tế‖. Tuy nhiên vấn đề xác định giá
thị trường trong trường hợp này rất khó kh n,
bởi giá thị trường được tính với những tài sản
còn mới, trong khi đó tài sản được bảo hiểm ở
đây lại là những tài sản đã qua sử dụng. Hơn
nữa, sau khi sự kiện bảo hiểm xảy ra tài sản
thường bị hư hỏng, giảm giá trị thậm chí giá trị
tài sản không còn nên rất khó đánh giá được giá
trị tài sản ngay trước khi có rủi ro. Việc đánh giá
này chỉ mang tính ước đoán, như vậy c n cứ này
thiếu tính thực tế.
Một vấn đề nữa c n đề cập đến đó là, mục
đích Điều 46 là nhằm để phòng chống gian lận bảo
hiểm trong khi đó lại cho phép các bên thỏa thuận
về số tiền bồi thường mà không dựa vào c n cứ bồi
thường. Đây chính là những tiền đề gián tiếp cho
hành vi gian lận nội bộ, có sự câu kết giữa nhân
viên doanh nghiệp bảo hiểm với khách hàng trong
việc thỏa thuận c n cứ bồi thường.
Thứ ba, tại khoản 3, Điều 16 Luật KDBH quy
định ― Không áp dụng điều khoản loại trừ trách
nhiệm bảo hiểm trong các trường hợp sau đây:
- Bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do
lỗi vô ý;
- Bên mua bảo hiểm có lý do chính đáng
trong việc chậm thông báo cho doanh nghiệp bảo
hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm‖
Theo tác giả quy định trên là chưa ph hợp,
vì nó chỉ giới hạn đối với đối tượng là ―người
mua bảo hiểm‖ điều này chỉ có thể đ ng đối với
loại hình bảo hiểm tài sản hay bảo hiểm trách
nhiệm dân sự còn đối với bảo hiểm con người thì
đối tượng là ―người được bảo hiểm‖ hay ―người
thụ hưởng‖ chưa được điều luật này đề cập đến.
Vì trong rất nhiều hợp đồng bảo hiểm con người,
người mua bảo hiểm, người được bảo hiểm và
người thụ hưởng không trùng là một.
Quy định không áp dụng điều khoản loại trừ
trong trường hợp ― ên mua bảo hiểm vi phạm
pháp luật do lỗi vô ý‖ là không ph hợp với thực
tế. Bởi trong quy t c bảo hiểm tai nạn con người
của các doanh nghiệp bảo hiểm thường quy định
trường hợp không thuộc phạm vi bảo hiểm là
người được bảo hiểm vi phạm nghiêm trọng
pháp luật, ví dụ vi phạm luật lệ an toàn giao
thông. Như vậy, trong quy t c bảo hiểm này yếu
tố lỗi cố ý và vô ý không ảnh hưởng đến điều
khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm chỉ c n có
vi phạm phát luật của bên mua bảo hiểm doanh
nghiệp bảo hiểm sẽ không phải bồi thường. Và
khi xét mặt lý luận của vấn đề này ta thấy, yếu tố
lỗi thường không được đề cập tới khi xét một hành
vi có phải là hành vi vi phạm pháp luật hay không
bởi hành vi vi phạm pháp luật là hành vi xâm phạm
các quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ.
Bên cạnh đó, từ quy định của Điều 16 Luật
KDBH, nếu theo tinh th n ―được làm những gì
mà pháp luật không cấm‖ thì doanh nghiệp bảo
hiểm có quyền đưa vào điều khoản loại trừ trách
nhiệm bảo hiểm đối với trường hợp sự kiện bảo
hiểm xảy ra do người được bảo hiểm hay người
Chuyên mục: Kinh tế & Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 06 (2018)
30
thụ hưởng vi phạm pháp luật do vô ý và chậm
thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc
xảy ra sự kiện bảo hiểm hay không. Và như vậy,
lợi ích chính đáng của người mua bảo hiểm,
người thụ hưởng, người được bảo hiểm có được
bảo vệ hay không. Rõ ràng đây là một điểm
khuyết thiếu c n thiết phải xem xét bổ sung.
Riêng đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ,
Khoản 1 Điều 39 Luật KD H quy định về các
trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không trả
tiền bảo hiểm như sau:
a. Người được bảo hiểm chết do tự tử trong
thời hạn 2 (hai) n m kể từ ngày nộp khoản phí
bảo hiểm đ u tiên hoặc kể từ ngày hợp đồng tiếp
tục có hiệu lực;
b. Người được bảo hiểm chết hoặc bị thương
tật toàn bộ vĩnh viễn do lỗi cố ý của bên mua bảo
hiểm hoặc lỗi cố ý của người thụ hưởng;
c. Người được bảo hiểm chết do bị thi hành
án tử hình.‖
Rõ ràng, những quy định này đều nhằm
đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp bảo hiểm,
chống lại các trường hợp gian lận bảo hiểm,
đồng thời duy trì và bảo vệ đạo lý nói chung,
không chấp nhận thanh toán tiền bảo hiểm cho
những trường hợp đi ngược lại đạo đức như giết
hoặc làm người được bảo hiểm bị thương tật để
thu lợi từ doanh nghiệp bảo hiểm hay phạm các
tội đặc biệt nghiêm trọng bị xã hội lên án. Tuy
nhiên, quy định này của pháp luật cũng có điểm
không hợp lý khi chỉ dừng lại ở việc quy định
trường hợp ―người được bảo hiểm chết hoặc bị
thương tật toàn bộ vĩnh viễn do lỗi cố ý của bên
mua bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của người thụ
hưởng‖ tại Điểm b Khoản 1. Quy định này là
chưa ph hợp bởi lẽ trên thực tế các sản phẩm
bảo hiểm con người đang được các doanh nghiệp
bảo hiểm triển khai hiện nay đều có phạm vi bảo
hiểm rất rộng bao gồm các rủi ro: Chết, thương
tật toàn bộ vĩnh viễn, thương tật bộ phận vĩnh
viễn, ốm đau, bệnh tật Do vậy, quy định trên
là chưa đủ vì đã bỏ qua các trường hợp ―người
được bảo hiểm bị thương tật bộ phận vĩnh viễn,
ốm đau, bệnh tật do lỗi cố ý của bên mua bảo
hiểm hoặc lỗi cố ý của người thụ hưởng‖.
4. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy
định pháp luật để nâng cao hiệu quả phòng
chống gian lận bảo hiểm thƣơng mại
Xuất phát từ thực trạng pháp luật đã phân
tích ở trên, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị
sau nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật để
nâng cao hiệu quả công tác phòng chống gian
lận bảo hiểm.
Thứ nh t, quy định pháp luật về nghĩa vụ
cung cấp thông tin. Trong điểm c, khoản 2 điều
18 Luật kinh doanh bảo hiểm, nên bỏ cụm từ
―theo yêu c u của doanh nghiệp bảo hiểm‖, để
đảm bảo tính chủ động thực hiện nghĩa vụ của
bên mua bảo hiểm, tránh tình trạng những
trường hợp có thể làm t ng rủi ro hoặc làm phát
sinh thêm trách nhiệm của doanh nghiệp, mà bên
bảo hiểm biết nhưng không thông báo bởi vì
không có sự yêu c u của doanh nghiệp bảo hiểm.
Liên quan về vấn đề này pháp luật nên có quy
định về chế tài mà doanh nghiệp áp dụng như
khấu trừ ph n rủi ro t ng thêm mà bên mua bảo
hiểm không khai báo để giảm số tiền bồi thường.
Đối với việc xác định hành vi lừa dối và
hành vi cung cấp thông tin sai sự thật tại điểm d,
khoản 1 điều 22 Luật kinh doanh bảo hiểm nên
được bổ sung thêm chỉ dẫn để phân biệt hành vi
lừa dối với hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự
thật điểm a, khoản 2 điều 19, bởi hậu quả pháp
lý của các hành vi này là khác nhau.
Theo quan điểm tác giả, pháp luật nên sửa
lại hậu quả pháp lý tại khoản 1, điều 22 Luật
kinh doanh bảo hiểm thành ―doanh nghiệp sẽ
đơn phưong đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo
hiểm, nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra mà doanh
nghiệp đã tiến hành trả tiền bảo hiểm hoặc bồi
thường thì có quyền đòi lại số tiền đã chi trả‖ vì
nếu chỉ dẫn đến hậu quả pháp lý hợp đồng bảo
hiểm vô hiệu, thì bên mua bảo hiểm sẽ chẳng
mất gì khi thực hiện các hành vi này với lỗi cố ý
mà bị doanh nghiệp bảo hiểm phát hiện. Như
vậy, mới đảm bảo mục đích chống gian lận bảo
hiểm của điều luật.
Đồng thời, bổ sung thêm một khoản tại điều
19 Luật kinh doanh bảo hiểm như sau ―Trong
trường hợp sự kiện bảo hiểm xảy ra trước khi
biết được những thông tin mà bên mua bảo hiểm
đã cố ý cung cấp nhằm giao kết hợp đồng là sai
Chuyên mục: Kinh tế & Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 06 (2018)
31
sự thật, thì doanh nghiệp không phải trả tiền bảo
hiểm hoặc bồi thường, Nếu đã trả tiền bảo hiểm
hoặc bồi thường, doanh nghiệp có quyền đòi lại
số tiền đã chi trả‖.
Thứ hai, sửa đổi quy định về c n cứ bồi
thường trong bảo hiểm tài sản. Như đã phân tích ở
ph n trên việc quy định số tiền bồi thường được
xác định trên cơ sở giá thị trường của tài sản được
bảo hiểm tại thời điểm, nơi xảy ra tổn thất mang
tính ước đoán, vì vậy cơ quan có thẩm quyền c n
xây dựng và ban hành quy chế xác định giá trị tài
sản. Mặt khác, để ng n chặn những hành vi gian
lận trong bảo hiểm tài sản, cũng như đảm bảo tính
thống nhất và nghiêm minh của pháp luật, thì tại
khoản 1,2 Điều 46 Luật kinh doanh bảo hiểm nên
bỏ cụm từ ― trừ trường hợp có thỏa thuận khác
trong hợp đồng bảo hiểm‖.
Thứ ba, cân nh c điều khoản loại trừ trách
nhiệm trong hợp đồng bảo hiểm.
Đối với vấn đề điều khoản loại trừ trách
nhiệm bảo hiểm, thì tại khoản 3 Điều 16 Luật
doanh nghiệp bảo hiểm nên bỏ quy định về việc
không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm
bảo hiểm trong trường hợp ―bên mua bảo hiểm
vi phạm pháp do lỗi vô ý‖, bởi quy định này chỉ
mang tính hình thức, không hiệu quả. Và nên
quy định thêm đối tượng là ―người được bảo
hiểm‖ và ―người thụ hưởng‖ khi thực hiện các
hành vi được quy định tại khoản này thì doanh
nghiệp bảo hiểm sẽ không được áp dụng điều
khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm nhằm phù
hợp với hợp đồng bảo hiểm con người.
5. Kết luận
Hi vọng những phân tích, kiến nghị trên sẽ
giúp cho các doanh nghiệp bảo hiểm, cơ quan
chức n ng và các nhà làm luật có cái nhìn tổng
quát về hành vi gian lận bảo hiểm và đưa ra
những giải pháp đ ng đ n trong công tác phòng
chống gian lận bảo hiểm góp ph n th c đẩy sự
phát triển bền vững thị trường bảo hiểm nước ta
trong cơ chế hội nhập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn V n Định. (2008). Giáo trình Bảo hiểm. Hà Nội: Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân.
[2]. Nghị định 73/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 07 n m 2016. Quy định chi ti t thi hành Luật kinh doanh
bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một s điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm.
[3]. Quốc hội. (2015). Bộ luật dân sự.
[4]. Quốc hội. (2010). Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 (sửa đổi bổ sung 2010).
Thông tin tác giả:
1. Hoàng Thị Lệ Mỹ
- Đơn vị công tác: Trường ĐH Kinh tế & QTKD
- Địa chỉ email: hoanglemy88@gmail.com
Ngày nhận bài: 03/05/2018
Ngày nhận bản sửa: 17/06/2018
Ngày duyệt đ ng: 29/06/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_luat_phong_chong_gian_lan_trong_bao_hiem_thuong_mai_mot.pdf