Thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều
động thái tích cực trong việc xây dựng pháp
luật về quyền của người LGBT. Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014 đã bãi bỏ quy
định về cấm kết hôn cùng giới (nhưng thực
tế vẫn không thừa nhận) - góp phần giảm kỳ
thị trong xã hội, Bộ luật Dân sự năm 2015
thừa nhận vấn đề chuyển đổi giới tính của
người chuyển giới, Tuy vậy, vẫn còn đó
những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn
thiện pháp luật trong tương lai để bảo đảm
quyền, đáp ứng nhu cầu xã hội của người
LGBT12. Ví dụ như vấn đề hôn nhân cùng
giới (hôn nhân của hai người có cùng giới
tính) là một vấn đề về quyền công dân và là
vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức và tôn giáo
ở nhiều quốc gia phương Tây13. Những
người ủng hộ hôn nhân cùng giới dựa trên
quyền chung của con người bình đẳng trước
pháp luật14 và mục tiêu bình thường hóa mối
quan hệ LGBT15. Những người phản đối
thường dựa vào việc khái niệm hôn nhân có
bao gồm cả các cặp cùng giới hay không.
Các lý do khác là tác động trực tiếp và gián
tiếp của hôn nhân cùng giới, vấn đề con cái,
nền tảng tôn giáo16, truyền thống và chủ
nghĩa độc tôn dị tính17. Nhiều người ủng hộ
hôn nhân cùng giới cho rằng, sự phản đối
hôn nhân cùng giới là do chứng ghê sợ đồng
tính luyến ái18. Chấm dứt kỳ thị trong tiếp
cận hôn nhân dân sự đã trở thành vấn đề bức
bách ở nhiều quốc gia. Đây cũng chính là
những điều mà pháp luật Việt Nam cần xem
xét, cân nhắc đưa ra những thay đổi nhất
định để hòa nhập với sự thay đổi trong quan
niệm về nhân quyền với thế giới
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 243 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật quốc tế về quyền của người đồng tính, song tính và chuyển giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHAÁP LUÊÅT QUÖËC TÏË VÏÌ QUYÏÌN
CUÃA NGÛÚÂI ÀÖÌNG TÑNH, SONG TÑNH VAÂ CHUYÏÍN GIÚÁI
Trương Hồng Quang*
1. nhóm đồng tính, song tính, chuyển giới
dễ bị tổn thương
Từ trước đến nay, nhóm người LGBT
được xếp vào nhóm người dễ bị tổn thương.
Khái niệm các nhóm người dễ bị tổn thương
(vulnerable groups) được sử dụng rất phổ
biến trong các văn kiện pháp lý quốc tế và
trong các hoạt động nghiên cứu, thực tiễn về
quyền con người trên thế giới. Mặc dù
không có định nghĩa chính thức chung nào
được đưa ra về các nhóm người dễ bị tổn
thương, nhưng từ các nguồn tài liệu và thực
tiễn về quyền con người, có thể hiểu rằng,
khái niệm này chỉ những nhóm, cộng đồng
có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế
thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn
bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con
người, và bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ
đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng
người khác1.
Một số nhóm người được coi là dễ bị
tổn thương trong luật quốc tế về quyền con
người bao gồm phụ nữ, trẻ em, người khuyết
tật, người sống chung với HIV/AIDS, người
di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn, người
không quốc tịch, người lao động di trú,
người thiểu số (về dân tộc, chủng tộc, tôn
giáo, giới tính), người bản địa, nạn nhân
chiến tranh, những người bị tước tự do,
người cao tuổi... Theo dòng thời gian, danh
sách này có thể còn được bổ sung, bao gồm
những nhóm người gặp những nguy cơ cao
về quyền con người ở trong nhiều hoàn
cảnh, bối cảnh (xét cả trên phạm vi quốc tế,
khu vực, quốc gia, ở trong gia đình, nơi làm
việc hoặc ngoài xã hội). Chiếm phần lớn
trong nội dung về quyền của nhóm (group
rights), quyền của các nhóm người dễ bị tổn
thương cấu thành một bộ phận quan trọng
của luật quốc tế về quyền con người. Phần
nhiều trong số hàng trăm văn kiện quốc tế
về quyền con người (bao gồm cả các điều
ước quốc tế) được Liên hiệp quốc (LHQ)
thông qua sau hai công ước cơ bản về các
quyền dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội,
văn hóa năm 1966 là để pháp điển hóa các
quyền áp dụng với các nhóm người dễ bị tổn
thương.
Lý do chính dẫn đến việc xác lập những
quy phạm và cơ chế quốc tế để bảo vệ và
15
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 23(327) T12/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
* NCS, Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp.
1 Xem: Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội, Đỗ Hồng Thơm, Vũ Công Giao, Luật Quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn
thương, Sách tham khảo, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội, 2011.
Pháp luật quốc tế đã có sự phát triển khá mạnh mẽ trong việc bảo vệ quyền của
người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT). Các quy định, khuyến nghị của
pháp luật quốc tế đã có nhiều ảnh hưởng đến pháp luật của các quốc gia về quyền
của người LGBT. Đây thực sự đã trở thành một trong những vấn đề nhân quyền
mới cần được quan tâm trong xã hội hiện đại.
thúc đẩy quyền của các nhóm người dễ bị
tổn thương (bên cạnh các quy phạm và cơ
chế quốc tế đã được xác lập để bảo vệ và
thúc đẩy các quyền áp dụng chung cho tất cả
mọi người) đó là: hệ thống các quy phạm và
cơ chế quốc tế về quyền con người nói chung
về cơ bản là không đủ, thậm chí đôi khi
không phù hợp nếu áp dụng một cách máy
móc với các nhóm người dễ bị tổn thương.
Đơn cử, quyền về việc làm là một trong các
quyền cơ bản của tất cả mọi người. Tuy
nhiên, nếu không có những quy định cụ thể
về việc áp dụng quyền này với những người
chưa thành niên sẽ dẫn đến tình trạng lạm
dụng, bóc lột sức lao động của trẻ em. Hoặc
trong hệ thống các quyền và tự do cơ bản của
con người không có nhiều quyền rất cần thiết
cho trẻ em (ví dụ như quyền được chăm sóc,
giáo dưỡng, được học tiểu học miễn phí...),
cho phụ nữ (ví dụ như các quyền về sức khỏe
sinh sản...), cho người khuyết tật (ví dụ như
quyền được hỗ trợ về việc đi lại...), người
sống chung với HIV/AIDS (ví dụ như quyền
không bị cưỡng bức xét nghiệm và được giữ
bí mật về kết quả xét nghiệm HIV/AIDS...),
người tỵ nạn, người tìm kiếm nơi lánh nạn
(ví dụ như quyền không bị đẩy trả lại nước
gốc nếu việc đó khiến họ có thể bị tàn sát,
ngược đãi...), người thiểu số (ví dụ như
quyền được giữ gìn bản sắc văn hóa của
cộng đồng họ...), người bản địa (ví dụ như
quyền được bảo tồn và hưởng lợi trên đất đai
của tổ tiên họ...), người LGBT (quyền kết
hôn, quyền chuyển đổi giới tính, quyền tình
dục nói chung) Như đã đề cập, vấn đề
quyền của nhóm nói chung, quyền của các
nhóm người dễ bị tổn thương nói riêng cấu
thành một bộ phận quan trọng trong luật
quốc tế về quyền con người. Hệ thống văn
bản pháp luật quốc tế về vấn đề này hiện có
hàng trăm văn kiện không chỉ do LHQ mà
còn do nhiều tổ chức liên chính phủ quốc tế
thành viên của LHQ, đặc biệt là Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của LHQ
(UNESCO), Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO)... thông qua.
Trên thực tế, ở mức độ và góc độ khác
nhau, hầu như tất cả các văn kiện quốc tế
hiện hành về quyền con người đều đề cập
đến cả các quyền cá nhân và quyền của
nhóm. Liên quan đến sự phát triển về quyền
của nhóm, hiện tại, ngoài các quyền đã được
đề cập, quyền của người LGBT là một trong
những quyền đang được vận động để pháp
điển hóa trong luật quốc tế. Đây là một vấn
đề gây nhiều tranh cãi trên lĩnh vực quyền
con người trong vài thập kỷ gần đây. Những
người ủng hộ quyền của LGBT đã lập nên
các tổ chức và phát động những phong trào
mang tính chất toàn cầu để vận động cho
việc thừa nhận và pháp điển hóa các quyền
được kết hôn giữa những người đồng giới;
quyền của các cặp đồng giới nam được nhận
nuôi con nuôi; và trên hết là quyền của tất
cả những người LGBT không bị phân biệt
đối xử do xu hướng tình dục và giới tính của
họ. Trong phán quyết về vụ Toonen kiện
Australia (1994), Ủy ban Quyền con người
- cơ quan giám sát ICCPR - đã phán rằng,
việc hình sự hóa những hành vi tình dục
đồng giới cấu thành sự vi phạm luật quốc tế
về quyền con người2.
Không chỉ giới hạn trong phạm vi pháp
luật quốc gia, phong trào vận động cho các
quyền của LGBT còn mở cuộc vận động
các tổ chức quốc tế và tổ chức khu vực.
Phong trào này đã thành công trong việc
nhận được sự ủng hộ của Liên minh châu
Âu và Tổ chức các nước châu Mỹ. Tuyên
bố của LHQ về định hướng tình dục và sự
đồng giới (The United Nations Declaration
on Sexual Orientation and Gender Identity)
được trình lên vào ngày 18/12/2008 và đã
được thông qua. Nội dung của Tuyên bố lên
án những hành vi bạo lực, quấy rối, phân
biệt đối xử, loại trừ, kỳ thị, định kiến, sự giết
hại, hành quyết, tra tấn, bắt giữ tùy tiện và
tước bỏ các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
dựa trên định hướng tình dục và sự đồng
giới. Tuyên bố này nhận được sự ủng hộ của
Liên minh châu Âu và được coi là một bước
đột phá mới trên lĩnh vực quyền con người
16
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 23(327) T12/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
2 Xem: Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội, Đỗ Hồng Thơm, Vũ Công Giao, Luật Quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn
thương, Sđd.
trên diễn đàn LHQ, nhưng nó bị phản đối
bởi một số quốc gia, trong đó đặc biệt là các
nước thuộc khối Ả-rập và Vatican. Những
quốc gia phản đối cho rằng, việc pháp điển
hóa hôn nhân và các quan hệ dân sự đồng
giới khác có thể làm tổn hại đến đức tin của
các tôn giáo cũng như đến các giá trị đạo
đức và quan hệ xã hội.
2. Quan điểm của Liên hiệp quốc về xu
hướng tính dục, bản dạng giới và quyền
của người đồng tính, song tính và
chuyển giới
Trong nhiều thập kỷ qua, LHQ đã nỗ
lực đấu tranh cho những quyền cơ bản của
con người nói chung, trong đó có người
LGBT3.
Một văn bản quan trọng phải kể đến là
Hiến chương LHQ. Từ cuối thế chiến thứ
hai, LHQ và cộng đồng quốc tế đã trình bày
học thuyết để đảm bảo cho việc bảo vệ các
quyền con người trong phạm vi quốc tế.
Hiện nay, LHQ vẫn giữ vững vai trò của
mình là một cơ quan đứng đầu về bảo vệ
quyền con người. Hiến chương LHQ đã trở
thành một văn kiện quan trọng nhất trong
việc nâng cao luật quốc tế về nhân quyền.
Thực tế, Hiến chương không đưa ra bất kỳ
một nghĩa vụ đặc biệt nào về quyền con
người đối với các nước thành viên, ngoại trừ
nghĩa vụ chung được đưa ra “hành động hỗ
trợ và riêng biệt” để “đẩy mạnh sự tôn trọng,
tuân theo sự tự do cơ bản và các quyền của
con người đối với tất cả mọi người, không
có sự phân biệt về giới tính, ngôn ngữ, hoặc
tôn giáo”. Điều này vẫn còn là tiêu chuẩn
cho sự đẩy mạnh các quyền cơ bản của con
người, bởi vì đây là lần đầu tiên các quyền
con người được công nhận khắp nơi trên thế
giới. Quyền con người được đề cập từ đầu
đến cuối của Hiến chương kể cả trong lời
nói đầu của Hiến chương.
Để đẩy mạnh quyền con người, một
trong những nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương đưa ra là bình đẳng, không phân biệt
đối với tất cả mọi cá nhân. Lời nói đầu của
Hiến chương đã tuyên bố rằng “công nhận
các quyền cơ bản của con người, phẩm chất
và giá trị của con người, và quyền bình đẳng
giữa nam và nữ” tương tự, Điều 1 cũng
quy định rằng “đẩy mạnh và động viên sự
tôn trọng các quyền con người và sự tự do
cơ bản đối với tất cả mọi người, không có
bất cứ sự phân biệt nào về giới tính, ngôn
ngữ hoặc tôn giáo”.
Chúng ta có thể thấy vấn đề xuyên suốt
toàn bộ Hiến chương đó là quyền con người,
nói rõ hơn đó là vấn đề về bình đẳng, bình
đẳng về giới, bình đẳng về tôn giáo và bình
đẳng về dân tộc. Ở đây chúng tôi muốn xét
về khía cạnh bình đẳng giới. Trước đây, các
quốc gia đều có tình trạng phân biệt nam nữ,
có thể là trọng nam khinh nữ hoặc ngược lại,
vì thế Hiến chương LHQ ra đời để ngăn
chặn tình trạng này, nhưng ngày nay, có một
xu hướng tính dục đồng tính tồn tại song
song với xu hướng dị tính và vì thế, bắt buộc
Hiến chương phải được hiểu theo một
hướng khác. Thực sự, trong vòng hơn 20
năm qua, LHQ đã cố gắng để công nhận
đồng tính như là một “xu hướng tính dục”,
để các quốc gia nhìn nhận họ có quyền bình
đẳng. Tuy nhiên, mặc dù LHQ có cố gắng
đến đâu nhưng trong Hiến chương vẫn chưa
ghi nhận quyền bình đẳng cho xu hướng tính
dục đồng tính nên khi các quốc gia thừa
nhận Hiến chương cũng có thể hiểu theo
những chiều hướng khác nhau. Nhóm các
nước nhìn nhận đồng tính nhưng không có
pháp luật bảo vệ thì hiểu rằng quyền bình
đẳng giới là bình đẳng giữa nam và nữ. Còn
nhóm nước nhìn nhận đồng tính và có pháp
luật bảo vệ lại cho rằng quyền bình đẳng
giới là bao gồm nam, nữ và cả xu hướng
đồng tính (hay nói chung là về xu hướng
tính dục). Vấn đề này trước đây đã gây ra
nhiều tranh cãi và chưa tìm ra được tiếng nói
chung. Tình trạng đó đã đặt ra yêu cầu cho
17
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 23(327) T12/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3 Phần này tác giả tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau và có tham khảo Bản tóm tắt do Viện iSEE tổng hợp, trình bày và
chú thích lại một số quan điểm chính của LHQ thể hiện trong Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948, cũng
như các động thái cụ thể gần đây của Văn phòng Cao ủy nhân quyền LHQ liên quan đến quyền của cộng đồng LGBT.
Cũng xem: Trương Hồng Quang, Tìm hiểu một số vấn đề dưới góc độ pháp lý về đồng tính, song tính và chuyển giới tại
Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 73-95.
LHQ phải có những biện pháp mạnh hơn để
diệt trừ tận gốc sự phân biệt và ghi nhận sự
công bằng đối với mọi người, sửa đổi Hiến
chương để nó diễn tả sự bảo vệ quyền của
người đồng tính.
Mặc dù Tuyên ngôn thế giới về Quyền
con người năm 1948 đã khẳng định quyền
con người nói chung, trong đó có quyền của
người LGBT, nhưng sự kỳ thị, phân biệt đối
xử và bạo lực đối với họ vẫn diễn ra trên
khắp thế giới, và trở thành mối quan tâm đặc
biệt về vấn đề nhân quyền của LHQ từ
những năm 90 của thế kỷ XX, và kéo dài
trong suốt những năm đầu thế kỷ XXI. Thậm
chí, pháp luật ở 76 nước còn phân biệt đối
xử và tội phạm hóa những mối quan hệ cùng
giới, người đồng tính bị bắt, truy tố và phạt
tù (Văn phòng Cao ủy nhân quyền LHQ,
2012)4. Sau nhiều thập kỷ khi “xu hướng tính
dục” và “bản dạng giới” ít khi được bàn luận
một cách chính thức, những lo ngại về sự vi
phạm nhân quyền đã khiến Hội đồng Nhân
quyền LHQ (United Nations Human Rights
Council - UNHRC) coi đây là vấn đề ưu tiên
để thảo luận, và chính thức đưa ra những
tuyên bố chung về quyền của người LGBT.
Những bản Tuyên bố chung về quyền con
người, xu hướng tính dục và bản dạng giới
đã được đề xuất ban đầu trong các phiên họp
của Hội đồng Nhân quyền LHQ năm 2006
và 2008. Cuộc tranh luận xoay quanh mối
quan tâm chính trị về luật phân biệt đối xử
và nghĩa vụ của các nhà nước trong việc thực
thi luật nhân quyền quốc tế.
Năm 2011 và 2012, vấn đề về quyền của
người LGBT đã được thúc đẩy mạnh mẽ
hơn. Tháng 3/2011, 85 nhà nước và vùng
lãnh thổ đã cùng ký vào bản Tuyên bố chung
về việc chấm dứt các hành động bạo lực và
vi phạm nhân quyền dựa trên xu hướng tính
dục và bản dạng giới (SOGI). Tháng 6/2011,
một bản Nghị quyết (Resolution 17/19) đề
cập đến bạo lực với người LGBT đã được
thông qua tại phiên họp thứ 17 của Hội đồng
Nhân quyền LHQ. Sự ủng hộ của các thành
viên Hội đồng ở khắp nơi đã tạo điều kiện
cho sự ra đời một Báo cáo chi tiết đầu tiên
của Văn phòng Cao ủy nhân quyền LHQ
(A/HRC/19/41) vào tháng 11/2011, tổng kết
lại vấn đề bạo lực và phân biệt đối xử đối
với người LGBT trên khắp thế giới. Báo cáo
đã đưa ra các bằng chứng cho thấy những
hình thức bạo lực và phân biệt đối xử mang
tính hệ thống đối với các cá nhân ở khắp nơi
trên thế giới vì xu hướng tính dục và bản
dạng giới của họ. Báo cáo đồng thời đưa ra
các khuyến nghị đối với các nhà nước nhằm
bảo vệ quyền của người LGBT. Nội dung
của Báo cáo này đã trở thành các vấn đề cơ
bản được thảo luận tại tiểu ban của Hội đồng
Nhân quyền vào tháng 3/2012 - lần đầu tiên
cơ quan Liên Chính phủ LHQ tranh luận
chính thức về vấn đề này.
Tại phiên họp thứ 19 của Hội đồng Nhân
quyền tháng 3/2012, Navanethem Pillay5
(Cao ủy Nhân quyền của Văn phòng Cao ủy
nhân quyền LHQ) đã yêu cầu các nước viết
lên “một chương mới” trong lịch sử LHQ,
đóng góp vào việc chấm dứt ngay bạo lực
và phân biệt đối xử đối với người LGBT. Tại
phiên họp này, Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-
moon cũng đã có bài phát biểu, mô tả những
hành vi bạo lực và phân biệt đối xử với
người LGBT là “tấn bi kịch lớn đối với
những ai có lương tri và là vết nhơ đối với
lương tâm của chúng ta”. Đặc biệt, Tổng
Thư ký cũng lưu ý rằng, trên thế giới vẫn
còn những nơi mà luật pháp còn tội phạm
hóa và phân biệt đối xử hoặc có những rào
cản đối với người đồng tính, song tính và
chuyển giới. “Hiến chương LHQ và Tuyên
ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948
đã chỉ rõ phải bảo vệ quyền của mọi người,
ở mọi nơi. Chúng ta đang chứng kiến nhiều
sự xâm phạm và sự kỳ thị hướng vào người
khác, chỉ bởi vì họ là người LGBT. Xin gửi
tới những người đồng tính nam và nữ, song
tính và chuyển giới, cho tôi được phép nói
18
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 23(327) T12/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Xem: Một chương mới bảo vệ quyền LGBT,
19990.html, truy cập ngày 7/1/2014.
5 Bà là người đứng đầu Văn phòng Cao ủy nhân quyền LHQ, vốn là một luật sư người Nam Phi, bắt đầu nhiệm kỳ tại Văn
phòng từ năm 2008.
rằng: Bạn không hề đơn độc. Nỗ lực của các
bạn để chấm dứt sự xâm phạm và kỳ thị
cũng là nỗ lực chung của chúng ta. Hôm
nay, tôi đứng cùng với các bạn và kêu gọi
tất cả quốc gia và nhân dân trên toàn thế giới
cùng đứng về phía các bạn. Một nấc thang
lịch sử đang tới. Chúng ta phải ngăn chặn sự
xâm phạm, phi hình sự hóa đồng tính, cấm
kỳ thị và giáo dục công chúng...” (trích phát
biểu của Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-moon,
tháng 3/2012).
Để hệ thống hóa lại những vấn đề đặt ra
đối với người LGBT dựa trên báo cáo thực
trạng đối với LGBT, cũng như chỉ ra những
nghĩa vụ của các nhà nước liên quan đến các
luật nhân quyền quốc tế, tháng 6/2012, Văn
phòng Cao ủy nhân quyền LHQ đã cho xuất
bản một cuốn cẩm nang mang tên “Sinh ra
tự do và bình đẳng - Xu hướng tính dục và
Bản dạng giới trong Luật nhân quyền quốc
tế”6 (HR/PUB/12/06). Với quan điểm rằng,
muốn bảo vệ cá nhân dựa trên xu hướng tính
dục và bản dạng giới không nhất thiết phải
tạo ra những quyền riêng biệt dành riêng cho
LGBT, mà chỉ cần yêu cầu bảo đảm sự thực
thi của các quyền không phân biệt đối xử
trong các văn bản luật pháp quốc tế đã có,
cẩm nang nhấn mạnh vào những sự vi phạm
nhân quyền và yêu cầu thực hiện nghĩa vụ
của các nhà nước. Cẩm nang bao gồm 5
phần, nội dung mỗi phần bao gồm các mục:
xác định nghĩa vụ của nhà nước, các điều
luật quốc tế nhân quyền có liên quan, và
quan điểm của các cơ quan nhân quyền dựa
trên công ước. Mỗi phần cũng đưa ra các
khuyến nghị cụ thể.
Như vậy, có thể thấy, cho tới nay LHQ
đã nỗ lực từng bước trong việc chỉ ra những
vi phạm nhân quyền đối với người LGBT và
cả người liên giới tính, cũng như yêu cầu các
quốc gia có những hành động cụ thể tuân
theo các điều luật nhân quyền quốc tế để
chấm dứt các hành vi vi phạm nhân quyền.
Với quan điểm rõ ràng này của LHQ và
những động thái chung tích cực của những
người có lương tri trên khắp thế giới, người
đồng tính, song tính, liên giới tính và chuyển
giới có quyền hy vọng vào một tương lai tự
do, bình đẳng và không còn phải chịu những
sự phân biệt đối xử không đáng có.
Nội dung cụ thể của các nghị quyết và
báo cáo của Văn phòng Cao ủy nhân quyền
LHQ và Hội đồng Nhân quyền LHQ có thể
tóm tắt như sau:
(1) Bản Tuyên bố chung về chấm dứt bạo
lực và các vi phạm nhân quyền dựa trên xu
hướng tính dục và bản dạng giới (Joint Statement
on ending acts of violence and related human
rights violations based on sexual orientation
and gender identity) do 85 quốc gia và vùng
lãnh thổ ký kết tháng 3/2011 với 10 điều đã
nhấn mạnh một số điểm:
- Khuyến khích các cơ chế về pháp
luật nhân quyền ở phạm vi quốc tế quan
tâm đến các vấn đề về xu hướng tính dục
và bản dạng giới, trong khuôn khổ của
Đánh giá Định kỳ phổ quát (Universal
Periodic Review - UPR).
- Hoan nghênh những bước phát triển về
vấn đề quyền của con người liên quan đến
xu hướng tính dục và bản dạng giới ở các
vùng khác nhau: Đại hội đồng Tổ chức các
quốc gia châu Mỹ (General Assembly of the
Organization of American States7); Sáng
kiến của diễn đàn châu Á - Thái Bình
Dương về các cơ quan nhân quyền quốc gia
(Asia-Pacific Forum on National Human
Rights Institutions) nhằm lồng ghép vấn đề
này vào vấn đề nhân quyền chung ở các
vùng; Khuyến nghị của Ủy ban Bộ trưởng
Hội đồng châu Âu (Committee of Ministers
of the Council of Europe); mối quan tâm
ngày càng tăng của Ủy ban châu Phi về
quyền con người (African Commission on
Human and People’s Rights), cũng như
nhiều sáng kiến luật pháp và chính sách tích
cực của các quốc gia ở những vùng khác
nhau trên thế giới.
19
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 23(327) T12/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Xem nội dung Cẩm nang này tại địa chỉ:
7 Là cơ quan ra quyết định tối cao của các quốc gia châu Mỹ về nhiều vấn đề khác nhau, trong đó có nhân quyền. Đại hội
đồng họp một năm một lần trong phiên họp thường kỳ. Trong nhiều trường hợp, nếu được 2/3 số thành viên Đại hội
đồng chấp thuận, Thường trực Hội đồng có thể triệu tập phiên họp bất thường.
- Ghi nhận rằng Hội đồng Nhân quyền
LHQ phải đóng một vai trò phù hợp với sự
ủy thác trong việc “thúc đẩy một sự tôn
trọng toàn cầu về việc bảo vệ tất cả các
quyền của con người và tự do cơ bản cho tất
cả, không cho phép bất kỳ sự phân biệt đối
xử nào, với một thái độ công bằng và bình
đẳng” (GA 60/251, OP2).
- Khuyến khích Văn phòng Cao ủy nhân
quyền LHQ tiếp tục đưa ra vấn đề vi phạm
nhân quyền dựa trên xu hướng tính dục và
bản dạng giới, tiếp tục mở rộng cơ hội cho
các cuộc đối thoại hữu ích nhằm tăng cường
việc hiểu biết và nhận thức về những vấn đề
này trong khuôn khổ quyền con người.
- Kêu gọi các nhà nước hành động
chống lại bạo lực, việc cho phép tội phạm
và những vi phạm nhân quyền tới các cá
nhân vì xu hướng tính dục và bản dạng giới
của họ.
(2) Nghị quyết số 17/19 (Resolution
17/19, A/HRC/17/L.9/Rev.l): Tháng 6/2011
Hội đồng Nhân quyền LHQ đã thông qua
Nghị quyết số 17/19 - Nghị quyết đầu tiên
của LHQ về quyền con người, xu hướng
tính dục và bản dạng giới. Căn cứ vào Tuyên
ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948
và hai Công ước quốc tế về quyền con
người, đồng thời căn cứ vào Nghị quyết của
Đại hội đồng số 60/251 ngày 15/3/2006,
Nghị quyết số 17/19 đưa ra bốn quyết định:
- Đề nghị Văn phòng Cao ủy nhân
quyền LHQ tiến hành một nghiên cứu, kết
thúc vào tháng 12/2011, ban hành các văn
bản pháp luật quy định vấn đề chống phân
biệt đối xử và hành vi bạo lực chống lại các
cá nhân dựa trên xu hướng tính dục và bản
dạng giới ở trên khắp thế giới, và xem xét
các phương thức để luật nhân quyền quốc tế
có thể được sử dụng nhằm chấm dứt bạo lực
và các hành vi vi phạm nhân quyền dựa trên
xu hướng tính dục và bản dạng giới.
- Quyết định tổ chức một cuộc họp tiểu
ban tại Phiên họp thứ 19 của Hội đồng Nhân
quyền LHQ, dựa trên kết quả báo cáo trong
nghiên cứu do Văn phòng Cao ủy nhân
quyền LHQ tiến hành; có những đối thoại rõ
ràng, có tính xây dựng và đầy đủ thông tin
về vấn đề chính sách, pháp luật liên quan
đến phân biệt đối xử, hành vi bạo lực chống
lại các cá nhân dựa trên xu hướng tính dục
và bản dạng giới.
- Quyết định rằng sau đó tiểu ban sẽ
thảo luận về hành động thích hợp trên cơ sở
những khuyến nghị đưa ra trong nghiên cứu
của Văn phòng Cao ủy nhân quyền LHQ.
- Quyết định sẽ coi đây là một vấn đề ưu
tiên.
Nghị quyết được ủng hộ bởi các thành
viên trong Hội đồng Nhân quyền LHQ từ
nhiều lãnh thổ. Việc này đã tạo điều kiện cho
báo cáo đầu tiên của Văn phòng Cao ủy
nhân quyền LHQ được đưa ra về các luật,
thực hành phân biệt đối xử và các hành vi
bạo lực chống lại các cá nhân dựa trên xu
hướng tính dục và bản dạng giới của họ.
(3) Cẩm nang “Sinh ra tự do và bình
đẳng - Xu hướng Tính dục và Bản dạng giới
trong Luật nhân quyền quốc tế” (Born Free
and Equal - Sexual Orientation and Gender
Identity in International Human Rights
Law)8.
Dựa trên nhiều bằng chứng được đưa ra
trong Báo cáo về thực trạng vi phạm nhân
quyền của Văn phòng Cao ủy nhân quyền
LHQ, cũng như căn cứ các điều luật trong
Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người
năm 1948 và các Công ước Nhân quyền có
liên quan, cẩm nang này đưa ra năm nghĩa
vụ luật pháp cơ bản của các nhà nước nhằm
đảm bảo quyền con người của người LGBT.
Năm nguyên tắc trong khuyến nghị của Văn
phòng Cao ủy nhân quyền LHQ để đảm bảo
quyền của người LGBT gồm có:
- Bảo vệ con người khỏi bạo lực xuất
phát từ thái độ thù ghét người đồng tính và
người chuyển giới (homophobic and
transphobic violence). Đưa xu hướng tính
dục và bản dạng giới như những yếu tố cần
được bảo vệ trong luật chống lại tội ác. Thiết
lập hệ thống hữu hiệu để ghi chép và trình
báo những hành động bạo lực thù địch. Bảo
đảm việc điều tra, truy cứu kẻ phạm tội và
8 HR/PUB/12/06, New York và Geneva 2012.
20
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 23(327) T12/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
xác định nạn nhân của các bạo lực đó. Luật
và chính sách tỵ nạn nên thừa nhận những
người tỵ nạn do bạo lực dựa trên xu hướng
tính dục và bản dạng giới.
- Phòng chống tra tấn và tội ác, những
đối xử không có tính nhân văn và hạ thấp
nhân phẩm đối với người LGBT, đảm bảo
rằng các nạn nhân đều được bồi thường.
Điều tra mọi hành động đối xử sai trái của
các cơ quan nhà nước và buộc các cơ quan
này phải có trách nhiệm trước Tòa án. Cung
cấp những khóa đào tạo thích hợp cho các
nhân viên thi hành pháp luật để đảm bảo
việc giám sát có hiệu quả ở những nơi giam
giữ (việc phân biệt đối xử đối với phạm
nhân trong các nhà tù...).
- Loại bỏ luật tội phạm hóa đồng tính, bao
gồm tất cả các luật cấm các hành vi tình dục
giữa những người cùng giới. Bảo đảm rằng
các cá nhân không bị bắt hay giam cầm vì xu
hướng tính dục hay bản dạng giới của họ,
cũng như không trở thành đối tượng của việc
kiểm tra sức khỏe vô lý và hạ thấp nhân phẩm
nhằm xác định xu hướng tính dục của họ.
- Cấm việc phân biệt đối xử dựa trên xu
hướng tính dục và bản dạng giới. Ban hành
các luật hoàn chỉnh9, trong đó phân biệt đối
xử dựa trên xu hướng tính dục và bản dạng
giới phải được coi như những yếu tố phân
biệt đối xử bị cấm. Đặc biệt, bảo đảm không
có sự phân biệt đối xử trong việc tiếp cận
các dịch vụ cơ bản, bao gồm cả lĩnh vực
nghề nghiệp và chăm sóc sức khỏe.
- Bảo đảm sự tự do thể hiện, hội họp và
tự do gặp gỡ cho người LGBT, cũng như
người liên giới tính. Bất cứ sự giới hạn nào
đối với những quyền này cũng phải phù hợp
với luật quốc tế và không có sự phân biệt đối
xử nào.
Bên cạnh đó, một văn kiện hết sức quan
trọng cần phải được nhắc đến là Những
nguyên tắc Yogyakarta. Để giải quyết những
vấn đề về quyền cho người đồng tính, ngày
26/3/2007, một nhóm chuyên gia nhân
quyền đưa ra Bộ Yogyakarta Principles
(Nguyên tắc Yogyakarta) để áp dụng luật
nhân quyền cho những vấn đề có liên quan
đến xu hướng tính dục và bản dạng giới. Các
nguyên tắc này xác định nghĩa vụ của các
quốc gia là phải tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm việc thực hiện quyền con người của tất
cả mọi người bất kể xu hướng tính dục hoặc
giới tính của họ. Hiện nay, các quốc gia trên
thế giới đang vận động để đưa những
nguyên tắc Yogyakarta vào trong pháp luật
của họ. Trong đó có các quyền tự do dân chủ
của công dân, ban hành các luật về những
quyền chưa được cụ thể hóa như: quyền tự
do lập hội, quyền tự do hội họp, quyền biểu
tình, quyền được trưng cầu ý dân, quyền
được bảo vệ dữ liệu cá nhân, quyền tiếp cận
thông tin Quyền của người đồng tính
được thể hiện rõ nhất trong 3 nguyên tắc đầu
tiên của Bộ nguyên tắc này.
Nguyên tắc 1: Quyền được hưởng sự
hưởng thụ phổ quát của quyền con người
Mọi con người được sinh ra tự do và
bình đẳng về phẩm giá và nhân quyền. Con
người thuộc mọi xu hướng tính dục và bản
dạng giới10 có quyền được hưởng đầy đủ tất
cả quyền con người.
Nguyên tắc 2: Quyền bình đẳng và
không phân biệt
Mọi người được quyền hưởng mọi
quyền con người mà không bị phân biệt đối
xử dựa trên xu hướng tính dục hay bản dạng
giới. Mọi người được quyền hưởng sự bình
đẳng trước pháp luật và sự bảo vệ của pháp
luật mà không phải chịu sự phân biệt đó cho
dù sự hưởng thụ của một quyền con người
khác có bị ảnh hưởng hay không. Pháp luật
sẽ nghiêm cấm bất kỳ sự phân biệt nào như
thế và đảm bảo sự bảo vệ bình đẳng và hiệu
quả để chống lại phân biệt đối xử.
Sự phân biệt đối xử dựa trên xu hướng
tính dục và bản dạng giới bao gồm bất kỳ sự
9 Nhiều luật hiện hành ở các nước chưa đề cập đến việc chống phân biệt đối xử dựa trên xu hướng tính dục, bản dạng
giới. Những luật đó được xem là không hoàn chỉnh.
10 Chỉ việc một người tự nhận mình là nam hay nữ. Bản dạng giới được xác định khi một người bắt đầu khám phá bản thân,
có thể từ rất sớm (khoảng 5 - 6 tuổi hoặc trễ hơn tuỳ người). Chỉ cần 2 yếu tố giới tính sinh học và bản dạng giới này
cũng đủ xác định một người có phải là người chuyển giới (hoặc có thiên hướng chuyển giới) hay không. Vì nếu một
người sinh ra với bộ phận sinh dục nam, mà luôn nghĩ mình là nữ, thì có nghĩa người đó là người chuyển giới.
21
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 23(327) T12/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 23(327) T12/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
phân biệt, sự ngoại trừ, sự hạn chế hay lựa
chọn dựa trên xu hướng tính dục và bản
dạng giới với mục đích hay tác động làm vô
hiệu hóa hay làm suy yếu sự bình đẳng trước
pháp luật hay sự bảo vệ công bằng của pháp
luật, hay đối với sự thừa nhận, hưởng thụ
hay thực hành, một cách bình đẳng, mọi
quyền con người và tự do cơ bản. Sự phân
biệt dựa trên xu hướng tính dục và bản dạng
giới có thể, và thường hay như thế, đi chung
và làm cho sự phân biệt đối xử dựa trên các
mặt khác, bao gồm giới tính, chủng tộc, tuổi
tác, tôn giáo, sự tàn tật, sức khỏe và địa vị
kinh tế, tồi tệ thêm.
Nguyên tắc 3: Quyền được thừa nhận
trước pháp luật
Mọi người đều có quyền được công
nhận là một con người trước pháp luật ở bất
kỳ đâu. Người có các xu hướng tính dục và
bản dạng giới khác nhau có tư cách pháp lý
đối với mọi khía cạnh cuộc sống. Xu hướng
tính dục và bản dạng giới tự xác định của
mỗi con người là không thể thiếu đối với
nhân cách của họ và là một trong những khía
cạnh cơ bản nhất của sự xác định bản thân,
phẩm giá và tự do. Không một ai phải bị ép
buộc trải qua những quy trình y khoa, bao
gồm phẫu thuật thay đổi giới tính, sự triệt
sản hay trị liệu hor-mon, như một yêu cầu
để được thừa nhận bản dạng giới của mình.
Không một quan hệ pháp lý nào, như hôn
nhân và tư cách làm cha mẹ, được phép xác
lập để ngăn chặn sự thừa nhận hợp pháp của
bản dạng giới của một người.
Bộ nguyên tắc Yogyakarta là văn bản
pháp lý quốc tế đầu tiên ghi nhận và bảo vệ
quyền đồng tính. Bộ nguyên tắc này có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc tiến tới xóa
bỏ hoàn toàn sự kỳ thị người đồng tính trên
thế giới; các quốc gia đang xem xét, xây
dựng luật cho người đồng tính có thể xem
bộ nguyên tắc này như nguồn để từ đó dựng
lên một văn bản pháp luật phù hợp nhất cho
quốc gia mình nhưng vẫn đảm bảo không vi
phạm luật quốc tế.
Bên cạnh đó, tháng 9/2015, lần đầu tiên
trong lịch sử, 12 tổ chức của LHQ đã ra
khuyến nghị kêu gọi 193 quốc gia thành
viên cùng hành động để bảo vệ quyền của
những người LGBTI (bao gồm cả người liên
giới tính)11. Bản khuyến nghị mở đầu bằng
việc nhắc lại rằng tất cả mọi người đều có
quyền bình đẳng, được sống một cuộc sống
không bị bạo hành, kỳ thị, phân biệt đối xử.
Luật nhân quyền quốc tế được tạo ra nhằm
đảm bảo rằng mọi con người đều được
hưởng những quyền lợi nói trên và pháp luật
của các quốc gia thành viên không được đi
ngược lại các nguyên tắc của bộ luật này.
Trong lúc nỗ lực bảo vệ quyền của cộng
đồng LGBTI đang ngày càng tăng ở nhiều
quốc gia, hàng triệu người LGBTI và gia
đình của họ vẫn đang phải chịu sự vi phạm
nghiêm trọng về nhân quyền. Bản khuyến
nghị bao gồm 3 nội dung chính, kêu gọi các
quốc gia thành viên:
- Xây dựng luật bảo vệ những người
LGBTI trước nạn bạo hành.
- Bãi bỏ các điều luật phân biệt đối xử
với người LGBTI, trong đó bao gồm các
luật bắt giữ, xử phạt, phân biệt đối xử với
con người dựa trên xu hướng tính dục và thể
hiện giới của họ.
- Bảo vệ những người LGBTI trước nạn
phân biệt đối xử trong mọi tình huống, đảm
bảo cho những người LGBTI được tham gia
bình đẳng trên mọi phương diện của cuộc
sống.
LHQ cho biết sẽ sẵn sàng hỗ trợ và giúp
đỡ các quốc gia thành viên trong việc giải
quyết những thách thức trong quá trình thực
hiện bản khuyến nghị, bao gồm cả việc
thông qua những thay đổi về luật pháp,
chính sách, tăng cường thể chế quốc gia,
giáo dục, đào tạo và các sáng kiến nhằm tôn
trọng, bảo vệ, thúc đẩy và thực hiện đầy đủ
nhân quyền của tất cả những người LGBTI.
3. Kết luận chung
Có thể nhận thấy, dưới góc độ pháp luật
quốc tế, các văn kiện quốc tế cũng như quan
điểm của các tổ chức quốc tế hiện nay đã ghi
11 Tham khảo: OHCHR. Bản Tuyên bố áp dụng cho cả người liên giới tính (intersex) - người sinh ra bị khuyết tật về mặt sinh
học (không định hình được là nam hay nữ/có cả hai bộ phận sinh dục của nam, nữ).
nhận sự bình đẳng giữa các xu hướng tính
dục và bản dạng giới, chống lại các hành
động phân biệt, kỳ thị. Có thể nhận thấy, vấn
đề bảo vệ quyền của người LGBT đang thực
sự dần trở thành một trong những mối quan
tâm, lo ngại của các quốc gia trên thế giới.
Trong đó, quyền được sống, được hưởng
chính sách an sinh xã hội bình đẳng như các
chủ thể khác trong xã hội và quyền được kết
hôn là những quyền đặc biệt, ảnh hưởng lớn
đến chất lượng nhân quyền của những đối
tượng dễ bị tổn thương trong xã hội.
Thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều
động thái tích cực trong việc xây dựng pháp
luật về quyền của người LGBT. Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014 đã bãi bỏ quy
định về cấm kết hôn cùng giới (nhưng thực
tế vẫn không thừa nhận) - góp phần giảm kỳ
thị trong xã hội, Bộ luật Dân sự năm 2015
thừa nhận vấn đề chuyển đổi giới tính của
người chuyển giới, Tuy vậy, vẫn còn đó
những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn
thiện pháp luật trong tương lai để bảo đảm
quyền, đáp ứng nhu cầu xã hội của người
LGBT12. Ví dụ như vấn đề hôn nhân cùng
giới (hôn nhân của hai người có cùng giới
tính) là một vấn đề về quyền công dân và là
vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức và tôn giáo
ở nhiều quốc gia phương Tây13. Những
người ủng hộ hôn nhân cùng giới dựa trên
quyền chung của con người bình đẳng trước
pháp luật14 và mục tiêu bình thường hóa mối
quan hệ LGBT15. Những người phản đối
thường dựa vào việc khái niệm hôn nhân có
bao gồm cả các cặp cùng giới hay không.
Các lý do khác là tác động trực tiếp và gián
tiếp của hôn nhân cùng giới, vấn đề con cái,
nền tảng tôn giáo16, truyền thống và chủ
nghĩa độc tôn dị tính17. Nhiều người ủng hộ
hôn nhân cùng giới cho rằng, sự phản đối
hôn nhân cùng giới là do chứng ghê sợ đồng
tính luyến ái18. Chấm dứt kỳ thị trong tiếp
cận hôn nhân dân sự đã trở thành vấn đề bức
bách ở nhiều quốc gia. Đây cũng chính là
những điều mà pháp luật Việt Nam cần xem
xét, cân nhắc đưa ra những thay đổi nhất
định để hòa nhập với sự thay đổi trong quan
niệm về nhân quyền với thế giới n
23
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 23(327) T12/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Xem thêm: Trương Hồng Quang, Tiếp cận dựa trên quyền trong việc xây dựng, thực hiện pháp luật về quyền của người
đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT) ở Việt Nam, Hội thảo khoa học: “Tiếp cận dựa trên quyền: Lý luận, thực tiễn
trên thế giới và ở Việt Nam”, Khoa Luật (ĐHQG Hà Nội) tổ chức, TP. Hà Nội, ngày 18/11/2015; Trương Hồng Quang, “Dự
kiến các tác động về kinh tế, văn hóa, xã hội, sức khỏe và pháp luật khi ghi nhận quyền chuyển đổi giới tính ở Việt Nam”,
Tọa đàm khoa học “Chuyển đổi giới tính - Kinh nghiệm quốc tế và nhu cầu được điều chỉnh bởi pháp luật tại Việt Nam”,
Văn phòng Chính phủ tổ chức, TP. Hạ Long, Quảng Ninh, ngày 27/10/2015.
13 Marriage: Both Civil and Religious, Pamela Taylor, The Washington Post, 31/7/2009; Marriage a Civil Right, not Sacred
Rite, Susan Smith, The Washington Post, 30/7/2009; truy cập 9/12/2009.
14 Prop. 8 Challenged in Federal Court, American Foundation for Equal Rights, 27/5/2009.
15 Abraham, Julie (May). “Public Relations: Why the Rush to Same-Sex Marriage? And Who Stands to Benefit?”. The Women’s
Review of Books 17 (8): 12-14. “its most vocal advocates want gay marriage because marriage stands at the center of a
system of legitimazation [...].”; Azzolina, David (February 2003). “The End of Gay (and the Death of Heterosexuality).(Book
Review)”. Library Journal: 288; Warner, Michael (1999). The Trouble with Normal. The Free Press. p. 80.
16 Church in Ukraine calls Elton John a Sinner In Adoption Inquiry, Joshua Cinelli, New York Daily News, 16/9/2009.
17 Chủ nghĩa độc tôn dị tính (heterosexism) là khái niệm lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1971 bởi Craig Rodwell, một
nhà hoạt động đồng tính. Vì không phải là thuật ngữ khoa học mà là thuật ngữ ra đời bởi phong trào vận động quyền
đồng tính, song tính và chuyển giới, nên mỗi nhà hoạt động cũng có những cách sử dụng khác nhau. Nói một cách ngắn
gọn, chủ nghĩa độc tôn dị tính là hệ thống những quan điểm để bảo vệ cho tính dục khác giới, bao gồm ba thành tố cơ
bản. Thứ nhất là quan điểm mặc định mọi người đều là dị tính. Thứ hai là quan điểm cho rằng dị tính là ưu việt hơn, xem
những gì ngoài dị tính đều là thấp kém hơn; và cuối cùng tiến tới chối bỏ, tạo sự thiên vị, phân biệt đối xử với những
thiểu số tính dục khác. Như nhiều người vẫn hay nói, xã hội mà chúng ta đang sống là một “xã hội dị tính”. Và sống trong
xã hội dị tính đó, các quan điểm về tính dục khác giới chiếm ưu thế. Đôi khi, những quan điểm đó được dùng để biện
minh cho sự bất bình đẳng đối với người đồng tính, song tính, chuyển giới hay các xu hướng, bản dạng khác. Điều cần
nhấn mạnh, chủ nghĩa độc tôn dị tính không chỉ là sản phẩm của những người dị tính. Nhiều người LGBT cũng thừa nhận
và tuân theo hệ thống quan điểm này. Hệ quả là họ trở nên mặc cảm, chối bỏ bản thân, chối bỏ bản dạng, hạ thấp lòng
tự tôn, tự kỳ thị cùng nhiều vấn đề khác. Xem thêm tại: Chủ nghĩa độc tôn dị tính, nguồn:
ngày 29/01/2013.
18 Sharpton chides black churches over homophobia, gay marriage, Southern Voice, Dyana Bagby, 27/1/2006; Frank: Scalia’s
legal opinions reveal his homophobia, CNN, 25/3/2009, truy cập 9/9/2009; Craig A. Rimmerman; Clyde Wilcox (2007).
The politics of same-sex marriage. University of Chicago Press. pp. 234. ISBN 9780226720012. “Clearly homophobia is
at the heart of blanket opposition to gay rights policies”; Evan Gerstmann (2004). Same-sex marriage and the Constitution.
Cambridge University Press. pp. 56. ISBN 9780521009522. “Keeping marriage heterosexual and dual gendered clearly
has more widespread support than other homophobic policies”. Cũng xem thêm tại tài liệu: Trương Hồng Quang, Thái độ
của xã hội đối với người đồng tính tại Việt Nam, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội (Học viện Khoa học xã hội), số tháng
1/2013, tr. 34-42.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_luat_quoc_te_ve_quyen_cua_nguoi_dong_tinh_song_tinh_va.pdf