Pháp luật về biểu tình của cộng hòa Pháp
Kết luận
Tại Pháp, TDBT được đưa thành một
nguyên tắc hiến định dù không được quy
định trong Hiến pháp và quyền này được
xem như là một phái sinh của tự do ngôn
luận. Trong khi đó, Tòa án nhân quyền châu
Âu xem TDBT như một trong các mặt biểu
hiện của tự do hội họp.
Tại Pháp, thủ tục để được tổ chức biểu
tình rất đơn giản với chế độ khai báo trước
cho đa số các loại hình biểu tình. Có thể nói,
đây là cơ chế khá tự do và thoải mái. Cơ
quan nhà nước có thẩm quyền có thể cấm
cản biểu tình nếu nhận thấy việc biểu tình
gây ra nguy cơ lớn cho trật tự công cộng.
Tuy nhiên, việc cấm đoán phải dựa trên các
lý do vững chắc và tương xứng, và việc cấm
đoán bị kiểm soát chặt chẽ bởi tòa án, nhằm
hạn chế việc lạm quyền và tùy tiện đến từ
cơ quan công quyền, ngăn cản QBT của
người dân. Đây là một trong những điểm mà
Việt Nam có thể học hỏi trong quá trình xây
dựng Luật Biểu tình.
QBT cần cụ thể hóa bằng các quy định
cụ thể và thiết thực chứ không chỉ trong các
văn kiện pháp lý – nhiều khi mang tính khẩu
hiệu chính trị hơn là pháp lý thực định. Pháp
luật của Pháp là một ví dụ điển hình về vấn
đề này: dù không được đưa vào trong một
điều khoản nào của Hiến pháp nhưng QBT
của công dân vẫn được tôn trọng và bảo vệ
trên thực tế bằng các cơ chế hữu hiệu
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 332 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật về biểu tình của cộng hòa Pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
60
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
PHAÁP LUÊÅT VÏÌ BIÏÍU TÒNH CUÃA CÖÅNG HOÂA PHAÁP
NguyễN HoàNg ANH*
NguyễN VăN QuâN**
* PGS. TS, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
** TS, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Dẫn nhập
Khi nghiên cứu pháp luật của Pháp,
đặc biệt là luật hiến pháp và hành chính,
ngoài các văn bản quy phạm pháp luật thực
định, cần đặc biệt chú ý tới các án lệ và
phán quyết của Hội đồng bảo hiến (HĐBH
- Conseil constitutionnel) và Tham chính
viện (Conseil d’état). Liên quan đến biểu
tình, chúng ta không thể tìm thấy quy định
về quyền biểu tình (QBT) trong Hiến pháp
hay các văn bản pháp luật khác. Văn bản
hiếm hoi của hệ thống pháp luật Pháp quy
định về QBT là Bộ luật Hình sự, nhưng lại
quy định một cách gián tiếp về quyền này:
Điều 431-1 Bộ luật Hình sự Pháp quy định
về Tội cản trở tự do biểu tình (TDBT). Theo
đó, người cản trở TDBT sẽ bị phạt 03 năm
tù giam và 45.000 euros tiền phạt. Như vậy,
văn bản này xác nhận sự tồn tại của QBT,
dù nhà làm luật không đưa ra định nghĩa cụ
thể về biểu tình nhưng lại trừng trị các hành
vi không tuân thủ quyền này, có nghĩa là
gián tiếp công nhận quyền cơ bản này. Dù
QBT không được quy định một cách trực
tiếp trong các văn kiện pháp lý, nhưng
không vì thế mà hiểu rằng, QBT của người
dân Pháp không được tôn trọng và bảo vệ,
trái lại Pháp là quốc gia nổi tiếng bởi văn
hóa đình công và biểu tình.
1. Biểu tình: quyền con người cơ bản
QBT không được ghi nhận một cách cụ
thể trong Hiến pháp của Pháp (Hiến pháp
năm 1958) cũng như các bản Hiến pháp
trước đây, dù trong các quy định của các
Hiến pháp này (1791, 1793, 1848) thừa
nhận công dân có quyền tụ họp (droit de
s’assembler) hòa bình, nhưng không phân
biệt giữa tự do hội họp (liberté de réunion),
tự do về hội (liberté d’association) và TDBT
(liberté de manifestation).
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là
biểu tình không phải là quyền hiến định.
Trong hệ thống pháp luật Pháp, nguồn luật
hiến pháp không chỉ tìm thấy trong bản
thân Hiến pháp - mà trong một chỉnh thể
các văn bản có giá trị Hiến pháp (bloc de
constitutionalité) hay thông qua các phán
quyết của HĐBH (Conseil Constitutionnel).
61
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
1 Xem: Décis, n 94-351 DC du 18 janv. 1995.
2 Khoản 1 Điều 11 như sau: “Mọi người đều có quyền tự do hội họp hòa bình và tự do lập hội với những người khác, bao
gồm quyền thành lập và gia nhập công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình”.
Ngay từ năm 1979, Ủy ban Nhân quyền châu Âu đã đưa ra diễn giải rất rộng rãi và cởi mởi Điều 11 Công ước 1950. Theo
đó, quyền tự do hội họp bao gồm quyền của các cá nhân tụ họp để quảng bá lợi ích chung của mình một cách hòa bình,
nhân các cuộc hội họp riêng tư hoặc công cộng.
3 Commission, 10 oct. 1979, Rassemblement jurassin c/ Suisse.
4 CEDH, 21 oct. 2001, Alekseyev c/ Russie, req n. 4916/07.
5 CEDH, 2 février 2010, Parti populaire démocratique chrétien c/ Moldavie, req. n. 25196/04.
6 CEDH, 3 mai 2007, Baczowski et a. c/ Pologne, req. n. 1543/06.
TDBT được thừa nhận như một nguyên
tắc hiến định trong phán quyết ngày
18/01/1995 của HĐBH về một luật liên
quan đến an ninh. Luật này trao cho Tòa án
hình sự khả năng cấm tạm thời một cá nhân
bị kết án tham gia biểu tình ở một số nơi
định rõ trong bản án. HĐBH đánh giá rằng,
một biện pháp như thế không có tính chất
“chối bỏ rõ ràng các đòi hỏi về tự do cá
nhân, tự do đi lại và quyền biểu đạt tập thể
các ý tưởng và quan điểm”. Nói cách khác,
HĐBH công nhận các kiểm soát mang tính
tương xứng, khi xác nhận “sự hòa hợp giữa
các đòi hỏi của trật tự công với việc bảo đảm
các quyền tự do được Hiến pháp bảo vệ”.
Như vậy, đối với HĐBH, TDBT thuộc về
nhóm các quyền được Hiến pháp bảo vệ.
Tuy nhiên, đây không phải là một quyền độc
lập mà được xem như một phần của tự do
biểu đạt1 (liberté d’expression).
Ngoài ra, QBT được bảo đảm trong
pháp luật Liên minh châu Âu. Bởi vì, pháp
luật liên minh châu Âu giữ vai trò và vị trí
nền tảng trong kim tự tháp trật tự các quy
phạm pháp luật của Pháp.
TDBT là một phần của tự do “hội họp
hòa bình” được quy định tại Điều 21 Công
ước quốc tế 1966 về các Quyền dân sự và
chính trị và Điều 11 Công ước châu Âu về
Quyền con người2. Đây là sự không tách
bạch rõ giữa “biểu tình” và “hội họp hòa
bình” trong các văn kiện pháp luật quốc tế.
Tuy nhiên, các án lệ (phán quyết) của Tòa
án nhân quyền châu Âu thể hiện rõ ràng sự
phân biệt này. Chúng ta có thể nêu ra một số
án lệ điển hình:
Liên quan đến chế độ khai báo trước mà
cơ quan công quyền có thể đặt ra đối với
TDBT, ngay từ năm 1979 Ủy ban Nhân
quyền châu Âu đã đánh giá rằng, việc đặt
quyền TDBT dưới một cơ chế “khai báo
trước” (déclaration préalable) tự thân nó
không làm vi phạm Điều 11 Công ước 1950,
và có thể xem là cần thiết, bởi vì trình tự này
cho phép cơ quan công quyền đảm bảo tính
chất “hòa bình” của việc tụ tập3. Trái lại,
trong phán quyết ngày 21/10/2001 Alek-
seyev c/ Russie, Tòa án nhân quyền châu Âu
đánh giá rằng, các quyết định trong 03 năm
liên tiếp của Thị trưởng Matxcova cấm các
cuộc tuần hành của giới đồng tính có tên
“Gay Pride” là không phù hợp với Điều 11
Công ước 1950. Tòa án suy luận rằng, trong
trường hợp nêu trên, sự cần thiết của việc
hạn chế TDBT không rõ ràng do các quyết
định không nêu ra được lý do chính đáng,
và cơ sở của các quyết định của nhà cầm
quyền Matxcova chủ yếu dựa trên tinh thần
bài đồng tính hơn là sự cần thiết của trật tự
công cộng4. Cũng theo Tòa, sự cần thiết
cũng không dựa trên lý do chính đáng khi
việc cấm đoán tác động tới những người đối
lập với chính quyền đương nhiệm5, hay khi
cơ quan công quyền áp đặt cho những người
tổ chức biểu tình một số đòi hỏi không được
luật dự liệu6.
62
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
2. Nhận thức về quyền (tự do) biểu tình
trong pháp luật Pháp
Tại Pháp, các nhóm họp “nhất thời“ bao
gồm hội họp và biểu tình:
Tự do nhóm họp (hay hội họp) thường
được luật thực định thừa nhận và đưa ra một
cơ chế tương đối tự do. Mặc dù, hình thức
nhóm họp mang tính “đột xuất” và “nhất
thời” này không được định nghĩa một cách
cụ thể trong bất kỳ văn bản pháp lý nào,
nhưng chúng ta có thể chỉ ra 03 đặc trưng
cơ bản sau đây của nhóm họp:
Đặc trưng thứ nhất là tính không liên tục
hay tính nhất thời. Hội họp hay biểu tình
thường diễn ra trong một khoảng thời gian
nhất định và có thể những người tham gia sẽ
không bao giờ gặp lại nhau. Và việc nhóm
họp không có khuynh hướng kéo dài. Đặc
tính này giúp phân biệt nhóm họp với các
nhóm có tính thể chế hơn như hội, nghiệp
đoàn hay đảng chính trị. Tự do nhóm họp
cũng có cơ chế pháp lý hoàn toàn khác biệt
và được điều chỉnh bằng hệ thống quy phạm
pháp luật riêng. Cũng giống như hội đoàn,
hội họp và biểu tình đều có tính tập thể,
được tổ chức với mục đích quảng bá một số
ý tưởng và bảo vệ lợi ích chung. Sự khác
biệt cơ bản giữa hai cách thức “biểu đạt tập
thể” này nằm ở sự tồn tại một thiết chế
thường trực (hội) hay nhất thời (nhóm họp).
Đặc tính thứ hai của dạng tập hợp này
là tính có tổ chức, cho dù đó chỉ là một dạng
tổ chức ở mức tối thiểu. Hội họp hay biểu
tình không phải là việc tập hợp đơn giản
mang tính tình cờ hay là các cuộc gặp gỡ
thông thường. Như vậy, hội họp là một sự tụ
tập mà giữa những người tham dự có một
mối liên hệ tối thiểu, và kèm theo đó là sự
tổ chức mang tính bước đầu và nhất thời.
Đặc trưng thứ ba là sự tồn tại một mục
tiêu chung, bởi nó gắn trực tiếp với tự do
biểu đạt. Các nhóm họp này được thiết lập
nhằm mục đích trao đổi ý kiến và bảo vệ lợi
ích chung, điều này giúp phân biệt dạng biểu
đạt này với các buổi biểu diễn, trong đó
khán giả có vai trò bị động. Sự phân biệt này
không phải luôn dễ dàng vì ngày nay hội
họp và biểu tình thường kèm theo phương
diện sáng tạo và nghệ thuật.
Cũng giống như hội họp, biểu tình là
một cách tụ họp có tính nhất thời, sự phân
biệt nằm cơ bản ở việc biểu tình diễn ra ở
không gian công cộng. TDBT liên quan mật
thiết tới tự do biểu đạt, bởi vì nó cho phép
biểu đạt một đòi hỏi, yêu sách hay một
kháng nghị, thông thường là đối với cơ quan
công quyền.
Như vậy, chúng ta có thể định nghĩa
biểu tình như là việc một nhóm người sử
dụng không gian (nơi) công cộng để biểu đạt
một ý nguyện chung.
Trong quan niệm của người Pháp, biểu
tình cũng phân biệt với việc tụ tập đông
người, khái niệm vốn áp dụng cho mọi tụ
họp của một nhóm người nơi công cộng. Nó
cho phép đưa ra trách nhiệm của chính
quyền đối với dạng tụ tập đông người này,
cũng là cơ sở của trách nhiệm hình sự, bởi
vì “tụ tập nơi công cộng” tạo nên một mối
đe dọa về mặt an ninh cho trật tự công cộng
hay truy cứu trách nhiệm của những người
biểu tình từ chối giải tán theo yêu cầu của
cơ quan công quyền (Điều 431-3 Bộ luật
Hình sự Pháp).
Văn bản điều chỉnh hoạt động biểu tình
của Pháp là Sắc luật ngày 30/10/1935 về
“quy chế của các biện pháp nhằm tăng
cường trật tự công cộng”7. Nhưng cần chú ý
rằng, đây là văn bản quy định trình tự, thủ
tục của biểu tình chứ không phải là một luật
7 Décret-loi du 23 octobre 1935 portant réglementation des mesures relatives au renforcement du maintien de l’ordre
public.
63
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
về QBT, có nghĩa rằng đây là văn bản về
mặt thủ tục, đặt ra chế độ khai báo trước, mà
không quy định về TDBT (luật nội dung).
Cách tiếp cận của những người soạn
thảo Luật năm 1935 về TDBT mang tính thủ
tục và cho phép định nghĩa quy chế pháp lý
đối với hoạt động biểu tình, nhưng lại không
làm rõ giá trị pháp lý của quyền này, cũng
như nội dung của nó trên thực tế.
3. Chế độ khai báo trước trong pháp luật
của Pháp
Theo Sắc lệnh ngày 23/10/1935, các
cuộc biểu tình nơi công cộng được phép tổ
chức một cách tự do nhưng phải khai báo
trước với cơ quan có thẩm quyền. Người tổ
chức biểu tình phải tiến hành thủ tục khai
báo tổi thiểu 03 ngày trước khi tiến hành
biểu tình, ghi rõ những người tổ chức (tối
thiếu phải có 03 chữ ký của người tổ chức),
nêu rõ mục đích, địa điểm, ngày giờ và hành
trình của cuộc biểu tình. Chính quyền khi
tiếp nhận hồ sơ khai báo phải cấp ngay giấy
biên nhận cho bên đăng ký. Như vậy, cơ
quan công quyền có thời hạn 03 ngày để
đánh giá về mức độ “nguy hiểm” của cuộc
biểu tình để đưa ra quyết định cấm hay
không. Trừ một số trường hợp khẩn cấp, còn
lại thì quyết định cấm biểu tình chỉ có thể do
cơ quan công quyền đưa ra sau khi mời
những người tổ chức trình bày ý kiến của họ
bằng văn bản8.
Trước đây, việc khai báo được tiến hành
ở Tòa thị chính, và sau đó Tòa thị chính sẽ
đệ trình lên Tỉnh trưởng (Préfet, thiết chế
phụ trách an ninh, tương đương Sở công an
ở Việt Nam). Từ Luật ngày 7/01/1983 về
phân định thẩm quyền thì Tỉnh trưởng được
trao trực tiếp phụ trách việc tiếp nhận khai
báo.
Có thể thấy rằng, chế độ khai báo trước
do Luật năm 1935 về TDBT đặt ra không
mang tính cản trở đối với QBT, chế độ này
không đặt ra các đòi hỏi, gò bó đối với
những người tổ chức, mà mục đích của việc
khai báo này là giúp cơ quan công quyền có
thể bảo đảm về mặt an ninh cho người và tài
sản khi tham gia biểu tình.
Trên thực tế, Luật năm 1935 về TDBT
tạo ra cho cơ quan công quyền khả năng
thay đổi mức độ kiểm tra, giám sát đối với
các cuộc biểu tình. Có 02 khả năng: thứ nhất
là rất tự do, lỏng lẻo tới mức là không đòi
hỏi khai báo trước đối với một số cuộc biểu
tình không hề có nguy cơ cho trật tự công
cộng (1); thứ hai là cơ quan có thẩm quyền
cấm đoán việc biểu tình khi đánh giá tồn tại
nguy cơ lớn đối với trật tự trị an. Như vậy,
trong trường hợp này có sự chuyển từ chế
độ khai báo chuyển thành cấp phép (2).
1. Miễn khai báo trước: các cuộc đi lại
nơi công cộng phù hợp với công năng sử
dụng
Luật của Pháp miễn nghĩa vụ khai báo
cho các cuộc đi lại nơi công cộng phù hợp
với công năng địa điểm. Các dạng biểu tình
này gồm các cuộc tuần hành tôn giáo hay
mang tính truyền thống (đoàn người đi lễ
hay các cuộc tuần hành của cựu chiến binh
nhân ngày đình chiến), hay các đám rước,
tang lễ tôn giáo, các trường hợp mà chính
quyền đã biết rõ ràng và chắc chắn sẽ tồn tại
các cuộc biểu tình vì các nơi đó được xem
như dành cho mục đích đó, các cuộc biểu
tình rõ ràng hoàn toàn mang tính chất hòa
bình (tuần hành). Hai trường hợp đầu được
miễn khai báo vì đây được xem là quyền tự
do tín ngưỡng: các cuộc tuần hành mang
tính tôn giáo hay hoạt động lễ bái của các
tôn giáo.
8 Xem phán quyết của Tham chính viện Pháp: CE 30 déc. 2003 ; L. et assoc. SOS tout-petits, AJDA 2004.888.
64
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
9 Commission, 15 mars 1984, Assoc. A. et H. c/ Autriche, req No 9905/82.
2. Sự chuyển dịch sang chế độ cấp phép
đối với một số dạng biểu tình
Sự chuyển dịch về cơ chế khai báo có
vẻ không phù hợp với chế độ khai báo trước.
Về mặt này, TDBT chỉ là một ví dụ và
không phải là cá biệt. Luật năm 1935 về
TDBT cho phép trong mọi trường hợp cơ
quan an ninh có thể cấm đoán khi đánh giá
rằng “cuộc biểu tình có tính chất làm rối
loạn trật tự công cộng” (Điều 3). Khả năng
cấm đoán thường dẫn tới việc thương lượng
với cơ quan an ninh vào thời điểm khai báo,
thường là về hành trình của đoàn biểu tình.
Từ năm 1984, Ủy ban châu Âu về
quyền con người đã đánh giá rằng: “việc
cấm toàn thể các cuộc biểu tình chỉ có thể
được xem là chính đáng nếu tồn tại một
nguy cơ hiện hữu dẫn tới hỗn loạn mà chính
quyền không thể ngăn chặn được”. Và như
vậy, thuộc về thẩm quyền của tòa án đánh
giá về tình huống, hoàn cảnh cụ thể và sự
cần thiết của việc duy trì trật tự công để chấp
nhận sự cấm đoán và đảm bảo rằng, cơ quan
an ninh không có cách thức nào khác để suy
trì trật tự công9.
Như vậy, để ngăn chặn sự lạm quyền và
tùy ý của cơ quan công quyền cấm cản các
cuộc biểu tình, người Pháp thiết lập nên cơ
chế kiểm soát về mặt tư pháp đối với việc
cấm cản biểu tình. Đây được xem như là
phương tiện đối trọng với xu hướng cấp
phép đã đề cập ở trên. Theo đó, những người
tổ chức biểu tình có thể kiện ra Tòa án hành
chính các quyết định của cơ quan an ninh
cấm cản biểu tình.
Ví dụ, Tham Chính viện đã bác bỏ
quyết định của cơ quan an ninh cấm đoán
một cách có hệ thống các cuộc biểu tình
của cộng đồng người Tây Tạng tổ chức gần
đại sứ quán Trung Quốc năm 1997. Theo
đó, việc cấm cản một cách toàn bộ và hệ
thống các cuộc biểu tình của cộng đồng này
với lý do duy trì trật tự công cộng khi cơ
quan cảnh sát viện dẫn rằng các cuộc biểu
tình như thế làm tổn hại quan hệ ngoại giao
của nước Pháp là không đủ để biện minh
cho việc cấm đoán.
Kết luận
Tại Pháp, TDBT được đưa thành một
nguyên tắc hiến định dù không được quy
định trong Hiến pháp và quyền này được
xem như là một phái sinh của tự do ngôn
luận. Trong khi đó, Tòa án nhân quyền châu
Âu xem TDBT như một trong các mặt biểu
hiện của tự do hội họp.
Tại Pháp, thủ tục để được tổ chức biểu
tình rất đơn giản với chế độ khai báo trước
cho đa số các loại hình biểu tình. Có thể nói,
đây là cơ chế khá tự do và thoải mái. Cơ
quan nhà nước có thẩm quyền có thể cấm
cản biểu tình nếu nhận thấy việc biểu tình
gây ra nguy cơ lớn cho trật tự công cộng.
Tuy nhiên, việc cấm đoán phải dựa trên các
lý do vững chắc và tương xứng, và việc cấm
đoán bị kiểm soát chặt chẽ bởi tòa án, nhằm
hạn chế việc lạm quyền và tùy tiện đến từ
cơ quan công quyền, ngăn cản QBT của
người dân. Đây là một trong những điểm mà
Việt Nam có thể học hỏi trong quá trình xây
dựng Luật Biểu tình.
QBT cần cụ thể hóa bằng các quy định
cụ thể và thiết thực chứ không chỉ trong các
văn kiện pháp lý – nhiều khi mang tính khẩu
hiệu chính trị hơn là pháp lý thực định. Pháp
luật của Pháp là một ví dụ điển hình về vấn
đề này: dù không được đưa vào trong một
điều khoản nào của Hiến pháp nhưng QBT
của công dân vẫn được tôn trọng và bảo vệ
trên thực tế bằng các cơ chế hữu hiệu n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_luat_ve_bieu_tinh_cua_cong_hoa_phap.pdf