Hiện nay, ngành Toà án đã phải chịu một áp
lực không nhỏ từ tình trạng gia tăng vụ án và tồn
đọng còn nhiều. Để khắc phục tình trạng này,
việc áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn để
giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật những
vụ án có nội dung đơn giản, rõ ràng, có giá
ngạch thấp là điều rất cần thiết và hợp lý. Việc
áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự là
một bước chuyển biến mang tính cải cách quan
trọng trong quá trình đổi mới thủ tục tố tụng dân
sự ở nước ta, một thành công trong công tác lập
pháp. Tuy nhiên, các quy định về thủ tục tố tụng
rút gọn mới chỉ được đưa vào Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 và áp dụng từ ngày có hiệu lực
(ngày 01/7/2016), các quy định hướng dẫn để áp
dụng thủ tục này còn rất ít, trong khi việc giải
quyết các vụ án xảy ra trên thực tế không phải
lúc nào cũng có thể “dễ dàng” để áp dụng thủ
tục này. Hơn nữa, vì thủ tục rút gọn là quy định
mới trong Pháp luật tố tụng dân sự, nên khi áp
dụng vào thực tiễn giải quyết vụ án chắc chắn
sẽ gặp nhiều khó khăn, chính vì lẽ đó, tâm lý
chung của không ít thẩm phán dường như vẫn
đang còn “e dè” trong việc áp dụng. Do vậy, để
mục đích tốt đẹp của quy định giải quyết các vụ
án theo thủ tục rút gọn không bị triệt tiêu trong
thực tiễn áp dụng, tác giả đề xuất trong thời gian
tới, cần tiếp tục có những hướng dẫn của Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn chi tiết hơn, đặc biệt
là các quy định về điều kiện áp dụng để thủ tục
rút gọn thực sự phát huy được vai trò, hiệu quả
trong thực tế giải quyết các vụ án dân sự.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 243 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu tư, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
36
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG DỰ ÁN ĐẦU TƯ
Trương Thế Côn1
Tóm tắt: Trong hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, khi đầu tư dự án có thể đi theo
hai chiều hướng. Một là, doanh nghiệp đầu tư dự án để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh
của chính doanh nghiệp. Hai là, doanh nghiệp đầu tư dự án để kinh doanh chuyển nhượng dự
án nếu việc chuyển nhượng đem lại lợi ích hơn là sử dụng dự án. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn
tồn tại một số quan điểm khác nhau về hoạt động chuyển nhượng dự án đầu tư. Bài viết này phân
tích bản chất pháp lý của hoạt động đầu tư, dự án đầu tư, chuyển nhượng dự án đầu tư; phân
tích những bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng chuyển nhượng dự
án đầu tư, từ đó đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
chuyển nhượng dự án đầu tư.
Từ khóa: đầu tư, dự án đầu tư, chuyển nhượng dự án đầu tư, hợp đồng chuyển nhượng dự
án đầu tư, pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu tư.
Nhận bài: 05/02/2018; hoàn thành biên tập: 12/03/2018; Duyệt đăng: 02/04/2018
Abstract: In each enterprise’s business activity, project investment can be in 2 ways:
Enterprise invests in project for its business production activity or interprise invests in project
to transfer project if transferring project brings more profits than using it. However, now there
have been different viewpoints on the activity of transferring investment project. This article
analyzes legal nature of investment, investment project, transferring investment project;
analyzing inadequacies in the existing legal regulations on contract of transferring investment
project to make some recommendations, solutions to finalize law on contract of transferring
investment project.
Keywords: investment, investment projects, transfer of investment projects, contracts of
investment transference, laws on contracts of investment project transference.
Date of receipt: 05/02/2018; Date of revision: 12/03/2018; Date of approval: 02/04/2018
Luật đầu tư năm 2014 cho phép nhà đầu tư
được quyền chuyển nhượng một phần hoặc
toàn bộ dự án đầu tư. Trường hợp chuyển
nhượng dự án thuộc diện cấp Giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư, nhà đầu tư nộp hồ sơ theo quy
định tại khoản 1 Điều 33 của Luật đầu tư năm
2014 kèm theo hợp đồng chuyển nhượng dự án
đầu tư để điều chỉnh nhà đầu tư thực hiện dự
án2. Đồng thời, điểm a khoản 2 Điều 37 Nghị
định 118/2015/NĐ-CP quy định hồ sơ thay đổi
nhà đầu tư trong trường hợp chuyển nhượng
dự án đầu thì phải nộp hợp đồng chuyển
nhượng dự án đầu tư hoặc tài liệu khác có giá
trị tương đương để thay đổi Giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư. Như vậy, Luật đầu tư năm
2014 đã cho phép nhà đầu tư được chuyển
nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án đầu tư.
Tuy nhiên, Luật đầu tư và các văn bản hướng
dẫn thi hành không có bất kỳ điều khoản nào
quy định về hợp đồng chuyển nhượng dự án
đầu tư cũng như quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm
của các bên tham gia giao dịch chuyển nhượng
dự án đầu tư. Mặc dù, Bộ luật dân sự năm 2015
đã có những quy định về giao dịch, hợp đồng
dân sự và trong một số văn bản quy phạm pháp
luật chuyên ngành có quy định về hợp đồng
chuyển nhượng dự án đầu tư nhưng chưa thực
sự phù hợp gây khó khăn cho việc áp dụng và
giải quyết tranh chấp phát sinh trong thực tế.
Để hoàn thiện các quy định của pháp luật về
hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu tư, trước
tiên cần phải hiểu rõ bản chất pháp lý của hoạt
động đầu tư, dự án đầu tư và việc chuyển
nhượng dự án đầu tư.
1 Thạc sỹ, Giám đốc Trung tâm bồi dưỡng cán bộ, Học viện Tư pháp
2 Xem Điều 45 Luật đầu tư năm 2014
Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
37
1. Bản chất của dự án đầu tư và hợp
đồng chuyển nhượng dự án đầu tư
1.1. Bản chất của dự án đầu tư
Luật đầu tư năm 2014 đã định nghĩa dự án
đầu tư là tập hợp đề xuất bỏ vốn trung hạn hoặc
dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư kinh
doanh trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời
gian xác định3. Đồng thời, Luật đầu tư cũng
xác định đầu tư kinh kinh doanh là việc nhà
đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động
kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức
kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn
góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức
hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư4; còn
vốn đầu tư là tiền và tài sản khác để thực hiện
hoạt động đầu tư kinh doanh5.
Bộ luật dân sự năm 2015 đã định nghĩa tài
sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản,
trong đó tài sản bao gồm bất động sản và động
sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản
hiện có và tài sản hình thành trong tương lai6.
Bất động sản bao gồm: (i) Đất đai; (ii) Nhà,
công trình xây dựng gắn liền với đất đai; (iii)
Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công
trình xây dựng; (iv) Tài sản khác theo quy định
của pháp luật. Động sản là những tài sản không
phải là bất động sản7. Quyền tài sản là quyền trị
giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối
với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử
dụng đất và các quyền tài sản khác8.
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì có
thể hiểu vốn đầu tư là bất kỳ cái gì có giá trị, có
thể định giá được thành tiền. Quy định của pháp
luật Việt Nam cũng phù hợp với nhiều quan
điểm khoa học pháp lý và các hiệp định đầu tư
quốc tế hiện nay về tài sản và vốn đầu tư. Theo
PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa thì tài sản có thể
hiểu là bất cứ thứ gì có giá trị, một khái niệm
rộng và không giới hạn, luôn được bồi đắp thêm
bởi những giá trị mới mà con người nhận thức
ra9; còn quyền tài sản là được hiểu là tập hợp
của rất nhiều quyền và lợi ích, trong đó có các
quyền cơ bản như quyền kiểm soát việc sử dụng
tài sản, quyền thụ hưởng, lợi nhuận thu được từ
việc sử dụng tài sản, các quyền chuyển nhượng,
thế chấp tài sản10. Theo các hiệp định quốc tế
về đầu tư thì nội hàm khái niệm về đầu tư, tài
sản đầu tư hiện nay là rất rộng, chúng có thể là
tiền, tài sản, các quyền tài sản hay các quyền
của chủ đầu tư có được trong quá trình thực
hiện hoạt động đầu tư. Một cách hiểu rộng, điển
hình về đầu tư là định nghĩa được sử dụng trong
điều 1 (3) Hiệp định của ASEAN về khuyến
khích và bảo hộ đầu tư. Định nghĩa này chỉ rõ
độ rộng của thuật ngữ “đầu tư” như đã được sử
dụng trong nhiều văn bản, với việc quy định
rằng, trước hết, đầu tư bao gồm “bất kỳ loại tài
sản nào”, trong khi cho rằng thuật ngữ này bao
gồm bất cứ cái gì có giá trị kinh tế, gần như là
không có giới hạn11.
Tuy nhiên, bên cạnh việc bỏ vốn đầu tư
bằng tiền, tài sản thì trên thực tế nhà đầu tư còn
phải bỏ công sức, trí tuệ, nhân lực để thực
hiện các hoạt động đầu tư của mình nhằm đạt
được các mục tiêu mà nhà đầu tư đặt ra. Vì vậy,
về mặt bản chất pháp lý thì đầu tư được hiểu là
việc nhà đầu tư bỏ vốn, công sức, trí tuệ, nhân
lực, theo các hình thức, cách thức do pháp
luật quy định để thực hiện các hoạt động đầu tư
nhằm đạt được các mục tiêu đầu tư đã đặt ra.
Dự án đầu tư chính là công cụ để nhà đầu
tư tiến hành các hoạt động đầu tư, nên dự án
3 Khoản 2 Điều 3 Luật đầu tư năm 2014
4 Xem khoản 5 Điều 3 Luật đầu tư năm 2014.
5 Xem khoản 18 Điều 3 Luật đầu tư năm 2014.
6 Xem Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015.
7 Xem Điều 107 Bộ luật dân sự năm 2015.
8 Xem Điều 115 Bộ luật dân sự năm 2015.
9 TS. Phạm Duy Nghĩa, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Chuyên khảo Luật Kinh tế (Chương trình sau đại
học), Nxb Địa học Quốc gia, 2004 .Tr.145
10 TS. Phạm Duy Nghĩa, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Chuyên khảo Luật Kinh tế (Chương trình sau đại
học), Nxb Đại học Quốc gia, 2004 .Tr.147
11 Vụ Pháp chế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Một số nội dung cơ bản của các hiệp định đầu tư quốc tế, Nxb Lao
động, Hà Nội, 2003 tr. 52, 53
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
38
đầu tư phải chứa đựng bên trong các yếu tố cơ
bản, phản ánh các nhân tố cấu thành của hoạt
động đầu tư. Trước hết, dự án đầu tư phải thể
hiện rõ mục tiêu đầu tư là gì. Mục tiêu đầu tư
là những cái mà nhà đầu tư mong muốn đạt
được trong tương lai thông qua hoạt động đầu
tư của mình. Mục tiêu đầu tư có thể là một
hoặc một tập hợp các mục tiêu; có thể là mục
tiêu ngắn hạn, dài hạn hoặc trung hạn; có thể là
mục tiêu chiến lược hoặc trước mắt. Mục tiêu
trước mắt được biểu hiện thông qua các chi
tiêu kinh tế cụ thể như năng lực, quy mô sản
xuất hay hiệu quả kinh tế; còn mục tiêu dài hạn
có thể là những lợi ích kinh tế lâu dài mà dự
án mang lại cho xã hội. Hai là, nguồn lực thực
hiện và các cách thức để đạt được mục tiêu là
gì. Dự án đầu tư bao gồm cả các điều kiện và
biện pháp vật chất để thực hiện như nguồn lực
tài chính, nguồn nhân lực, khoa học kỹ thuật,
công nghệ, cách thức tổ chức thực hiện. Ba là,
trong bao nhiêu lâu thì các mục tiêu có thể đạt
được và cuối cùng là phân công, tổ chức thực
hiện. Tức là ai có thể thực hiện hoạt động đầu
tư và kết quả của dự án được đo như thế nào12.
Vì vậy, hiểu theo nghĩa rộng thì dự án là một
tập hợp của những hoạt động khác nhau có liên
quan với nhau theo một lô gíc, một trật tự xác
định nhằm vào những mục tiêu xác định, được
thực hiện bằng những nguồn lực nhất định
trong những khoảng thời gian xác định. Điều
này có nghĩa là dự án bao gồm một chuỗi
những hoạt động và nhiệm vụ được sắp xếp
một cách lô gíc, có liên hệ hữu cơ với nhau.
Mặc dù Luật đầu tư cho rằng dự án đầu tư
chỉ là tập hợp các đề xuất, các ý tưởng về việc
bỏ vốn để tiến hành các hoạt động đầu tư nhưng
khi các ý tưởng của nhà đầu tư đã thể hiện ra
bên ngoài, được tập hợp thành tài liệu, dự án, đề
án rõ ràng cụ thể, nhất là đã được các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thẩm tra, thẩm định,
chấp thuận, đồng ý cho phép nhà đầu tư được
thực hiện, triển khai thì có nghĩa là nhà đầu tư
đã phải mất nhiều thời gian, chi phí tài chính,
công sức, trí tuệ để lập, thực hiện dự án đầu tư.
Trong nhiều trường hợp, dự án, đề án đầu tư
còn thể hiện trí tuệ, bản sắc riêng, là quyền tác
giả, quyền sở hữu trí tuệ của nhà đầu tư. Khi
nhà đầu tư đã bỏ vốn, công sức, trí tuệ để lập,
thực hiện, triển khai dự án đầu tư thì nhà đầu tư
phải có quyền sở hữu, thực hiện, triển khai, khai
thác, kinh doanh đối với dự án đầu tư để đạt
được các mục tiêu mà nhà đầu tư đặt ra.
Vì vậy, dự án đầu tư có thể được hiểu là
tổng thể các hoạt động và các chi phí cần thiết
của nhà đầu tư trong một khoảng thời gian xác
định, trên một địa bàn cụ thể để tạo mới, mở
rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất
định nhằm đạt được những mục tiêu nhất định
trong tương lai. Dự án đầu tư là tài sản thuộc
quyền sở hữu của nhà đầu tư bao gồm tài sản
hữu hình (như nhà máy, nhà xưởng, dây
chuyền sản xuất, công trình xây dựng) và tài
sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử
dụng đất, quyền tài sản khác) phải được pháp
luật ghi nhận và bảo vệ.
Như vậy, về bản chất pháp lý thì dự án đầu
tư là tài sản thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư
nên nhà đầu tư được toàn quyền sở hữu đối với
dự án đầu tư. Trước tiên, nhà đầu tư với tư cách
là chủ sở hữu đối với dự án đầu tư sẽ có đầy đủ
các quyền sở hữu theo quy định của pháp luật
đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình.
Quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với dự án đầu
tư phải được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
1.2. Bản chất của chuyển nhượng dự án
đầu tư
Theo Từ điển Black’s Law: “Chuyển
nhượng được hiểu là di chuyển hoặc loại bỏ
một vật gì từ nơi này sang nơi khác, từ người
này sang người khác; là chuyển hoặc bàn giao
từ người này sang người khác, đặc biệt là thay
đổi quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát đối với
một vật. Ngoài ra, chuyển nhượng còn có
nghĩa là bán hoặc cho đi”13. Chuyển nhượng có
12 GS.TS. Lê Hồng Hạnh, Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Đề tài xây dựng và hoàn thiện pháp luật đảm bảo
lồng ghép yêu cầu phát triển bền vững trong các dự án đầu tư, 2012. tr15.
13 TS. Phan Thông Anh, Công ty Luật hợp danh Việt Nam và Nguyễn Ngọc Biện Thùy Hương, Đại học Bình Dương,
Vai trò của pháp luật trong chuyển nhượng dự án bất động sản, đăng trên
dien-dan-cong-tac-tu-phap.aspx?ItemID=135
Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
39
thể hiểu theo nghĩa thông thường là chuyển,
nhượng lại những cái thuộc quyền sở hữu của
mình hoặc quyền lợi mình đang được hưởng
cho người khác, bù lại người chuyển nhượng
được nhận tiền hoặc những lợi ích vật chất
khác từ người nhận chuyển nhượng. Vì dự án
đầu tư là tài sản của nhà đầu tư nên có thể hiểu
chuyển nhượng dự án đầu tư là việc nhà đầu tư
tự nguyện chuyển giao, chuyển nhượng dự án
đầu tư thuộc quyền sở hữu của mình cho người
nhận chuyển nhượng và bên nhận chuyển
nhượng dự án đầu tư phải trả cho bên chuyển
nhượng dự án đầu tư một khoản tiền tương ứng
với giá trị của dự án đầu tư theo thỏa thuận của
các bên. Thực chất, chuyển nhượng dự án đầu
tư là mua bán dự án đầu tư nên hợp đồng
chuyển nhượng dự án đầu tư chính là hợp đồng
mua bán dự án đầu tư.
Về mặt lý luận, bản chất của hợp đồng là
sự thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa các chủ
thể nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ trên cơ sở tự do, tự nguyện
và bình đẳng. Một trong những nguyên tắc cơ
bản, quan trọng nhất của hợp đồng là tự do ý
chí. Quyền tự do hợp đồng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong nền kinh tế thị trường, thể
hiện sự “thuận mua, vừa bán” của các bên tham
gia giao dịch mà không có bất kỳ sự ép buộc,
sự can thiệp nào từ bên ngoài. Thông qua việc
thiết lập và thực hiện các hợp đồng, các chủ thể
kinh doanh có thể tiến hành các hoạt động kinh
doanh của mình một cách chủ động, sáng tạo,
đạt chất lượng, hiệu quả cao, đáp ứng được nhu
cầu hoạt động, sản xuất kinh doanh của mình.
Vì vậy, quyền tự do hợp đồng được coi là một
bộ phận cấu thành quan trọng, là biểu hiện sinh
động nhất của quyền tự do kinh doanh. Việc
ghi nhận và bảo đảm quyền tự do hợp đồng
bằng pháp luật, có tác động to lớn tới quyền tự
do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh.
Quyền tự do hợp đồng được thể hiện ở những
nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất, quyền tự do giao kết hợp đồng;
- Thứ hai, quyền lựa chọn đối tác;
- Thứ ba, quyền tự do thỏa thuận những nội
dung của hợp đồng;
- Thứ tư, quyền tự do thỏa thuận để thay
đổi, đình chỉ hay hủy bỏ hợp đồng trong quá
trình thực hiện14.
Vì vậy, trong nền kinh tế thị trường thì
pháp luật điều chỉnh về hợp đồng chuyển
nhượng dự án đầu tư cũng phải hướng tới việc
tôn trọng tối đa quyền tự do thỏa thuận của các
bên tham gia giao dịch để tạo điều kiện và thúc
đẩy giao dịch được thực hiện nhanh nhất, hiệu
quả nhất theo đúng thỏa thuận và ý chí của các
bên. Pháp luật cần phải cho phép các bên tham
gia giao dịch được quyền tự do thỏa thuận về
giá chuyển nhượng; quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm của các bên; thời điểm chuyển giao
quyền sở hữu, chuyển giao quyền và nghĩa vụ,
chuyển giao rủi ro; thời điểm có hiệu lực của
hợp đồngmiễn là không vi phạm điều cấm
của pháp luật.
2. Quy định của pháp luật hiện hành
điều chỉnh hợp đồng chuyển nhượng dự án
đầu tư
Do Luật đầu tư năm 2014 và các văn bản
hướng dẫn thi hành không có bất kỳ điều
khoản nào quy định về hợp đồng chuyển
nhượng dự án đầu tư nên về nguyên tắc sẽ áp
dụng Bộ luật dân sự năm 2015 với tư cách là
luật gốc và các quy định của pháp luật chuyên
ngành để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng
trong giao dịch chuyển nhượng dự án đầu tư15.
Bộ luật dân sự năm 2015 đã định nghĩa hợp
đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự16.
Để hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu tư
có hiệu lực pháp luật thì hợp đồng chuyển
nhượng dự án đầu tư phải đảm bảo, đáp ứng
đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch,
các quy định về hợp đồng, chuyển nhượng
14 Tiến sỹ, Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004, Tr109,110
15 Xem Điều 1 và Điều 4 của Bộ luật dân sự năm 2015.
16 Điều 385 Bộ luật dân sự năm 2015.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
40
quyền sở hữu được quy định trong Bộ luật
dân sự năm 2015 và các quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật đối với từng ngành,
nghề, lĩnh vực cụ thể. Trước tiên, hợp đồng
chuyển nhượng dự án đầu tư phải thỏa mãn đầy
đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch được
quy định tại Điều 117 của Bộ luật dân sự năm
2015 như: (i) Chủ thể ký kết hợp đồng chuyển
nhượng dự án phải là chủ sở hữu dự án đầu tư
hoặc người đại diện hợp pháp của chủ sở hữu
dự án; phải có năng lực pháp luật dân sự, năng
lực hành vi dân sự; (ii) Chủ thể tham gia giao
dịch chuyển nhượng dự án đầu tư phải hoàn
toàn tự nguyện; (iii) Mục đích và nội dung của
giao dịch chuyển nhượng dự án đầu tư không
vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội.
Về hình thức, Luật đầu tư năm 2014 không
quy định rõ ràng, cụ thể về hợp đồng chuyển
nhượng dự án đầu tư phải bằng văn bản. Luật
đầu tư chỉ quy định trường hợp chuyển nhượng
dự án đầu tư thuộc diện cấp Giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư thì nộp hồ sơ thay đổi kèm theo
hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu tư để điều
chỉnh nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư17. Với
quy định này thì những trường hợp chuyển
nhượng dự án đầu tư mà dự án được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký đầu tư thì hợp đồng
chuyển nhượng dự án đầu tư bắt buộc phải
bằng văn bản. Đối với những trường hợp
chuyển nhượng dự án đầu tư mà dự án không
phải cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư thì
hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu tư có bắt
buộc phải bằng văn bản hay không? Luật đất
đai, Luật kinh doanh bất động sản, Luật
khoáng sản cũng quy định hình thức của hợp
đồng chuyển nhượng dự án đầu tư, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng
chuyển nhượng quyền thăm dò khoáng sản,
quyền khai thác khoáng sản phải bằng văn bản.
Vì vậy, với tính chất phức tạp của giao dịch
chuyển nhượng, quy định hồ sơ thay đổi nhà
đầu tư phải có hợp đồng chuyển nhượng dự án
đầu tư hoặc tài liệu khác có giá trị tương đương
và để đảm bảo an toàn cho các bên tham gia
giao dịch chuyển nhượng thì chúng ta có thể
hiểu hình thức của hợp đồng chuyển nhượng
dự án đầu tư phải bằng văn bản.
Về nội dung các điều khoản cơ bản của hợp
đồng: do Luật đầu tư năm 2015 và các văn bản
hướng dẫn thi hành không quy định nội dung
các điều khoản cơ bản của hợp đồng chuyển
nhượng dự án đầu tư nên các bên tham gia giao
dịch chuyển nhượng dự án đầu tư phải áp dụng
các quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 về
giao dịch dân sự, về hợp đồng và các quy định
khác của pháp luật về hợp đồng trong từng
ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh cụ thể. Bộ
luật dân sự năm 2015 đã quy định các nội dung
có thể có của hợp đồng gồm: đối tượng của
hợp đồng; số lượng, chất lượng; giá, phương
thức thanh toán; thời hạn, địa điểm, phương
thức thực hiện hợp đồng; quyền, nghĩa vụ của
các bên; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
phương thức giải quyết tranh chấp18. Do dự án
đầu tư là tài sản phức tạp gồm nhiều loại tài
sản, quyền tài sản khác nhau, tác động, ảnh
hưởng đến nhiều bên có liên quan nên những
quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015 về
hợp đồng như trên chắc chắn sẽ chưa đầy đủ,
chưa đảm bảo chặt chẽ, an toàn cho các bên
tham gia giao dịch chuyển nhượng dự án đầu
tư. Vì vậy, để hợp đồng chuyển nhượng dự án
đầu tư được chặt chẽ, đảm bảo cho các bên
tham gia giao dịch, phòng ngừa tranh chấp thì
hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu tư cần
phải có thêm những nội dung như: chủ thể ký
kết hợp đồng; về dự án chuyển nhượng, các tài
sản, quyền tài sản, quyền sở hữu trí tuệ trong
dự án chuyển nhượng hoặc liên quan đến dự
án chuyển nhượng; quyền, nghĩa vụ và trách
nhiệm của các bên trong triển khai công việc;
việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ; thời điểm
chuyển rủi ro; tiến độ thanh toán; thời điểm và
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Pháp
luật trong một số ngành, nghề, lĩnh vực, đã quy
định về hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu tư
như sau:
17 Xem khoản 2 Điều 45 Luật đầu tư năm 2014
18 Xem Điều 398 Bộ luật dân sự năm 2015.
Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
41
- Về chuyển nhượng dự án đầu tư kinh
doanh bất động sản thì quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia giao dịch chuyển nhượng
phải thực hiện theo quy định tại Điều 52 Luật
kinh doanh bất động sản. Đồng thời, Luật kinh
doanh bất động sản còn quy định những nội
dung cơ bản và mẫu hợp đồng chuyển nhượng
dự án đầu tư bất động sản19. Hợp đồng chuyển
nhượng dự án đầu tư bất động sản phải có các
nội dụng chính như sau: Tên, địa chỉ của các
bên; Thông tin cơ bản của dự án đã được phê
duyệt; Thông tin chi tiết về toàn bộ dự án hoặc
phần dự án chuyển nhượng; Giá chuyển
nhượng; Phương thức và thời hạn thanh toán;
Thời hạn bàn giao toàn bộ hoặc một phần dự
án và hồ sơ kèm theo; Quyền và nghĩa vụ của
các bên; Trách nhiệm của các bên trong việc
thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến
quyền sử dụng đất; Trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng; Phạt vi phạm hợp đồng; Giải quyết
tranh chấp; Các trường hợp chấm dứt thực hiện
hợp đồng và các biện pháp xử lý; Thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng20.
- Về chuyển nhượng quyền thăm dò
khoáng sản, quyền khai thác khoáng sản: bản
chất việc chuyển nhượng quyền thăm dò
khoáng sản, quyền khai thác khoáng sản là
chuyển nhượng nhượng dự án đầu tư trong lĩnh
vực khoáng sản. Luật khoáng sản năm 2010 và
Nghị định 158/2016/NĐ-CP đã quy định việc
chuyển nhượng như sau:
+ Đối với chuyển nhượng quyền thăm dò
khoáng sản: việc chuyển nhượng quyền thăm
dò khoáng sản được thực hiện bằng hợp đồng
giữa bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển
nhượng với các nội dung cơ bản như: số lượng,
khối lượng các hạng mục công việc, chi phí
thăm dò đã thực hiện tính đến thời điểm
chuyển nhượng; giá trị chuyển nhượng và trách
nhiệm giữa các bên khi thực hiện các công việc
và nghĩa vụ sau khi chuyển nhượng21.
+ Đối với chuyển nhượng quyền khai thác
khoáng sản: việc chuyển nhượng quyền khai
thác khoáng sản được thể hiện bằng hợp đồng
giữa bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển
nhượng với các nội dung cơ bản như: (i) Hiện
trạng số lượng, khối lượng, giá trị công trình
khai thác, hạ tầng kỹ thuật đã đầu tư, xây dựng;
giá trị chuyển nhượng; tình hình thực hiện
nghĩa vụ tài chính của tổ chức, cá nhân chuyển
nhượng tính đến thời điểm ký kết hợp đồng
chuyển nhượng; (ii) Trách nhiệm của tổ chức,
cá nhân nhận chuyển nhượng đối với việc tiếp
tục thực hiện các công việc, nghĩa vụ chưa
hoàn thành của tổ chức, cá nhân chuyển
nhượng tính đến thời điểm chuyển nhượng;
(iii) Quyền và nghĩa vụ khác có liên quan của
tổ chức, cá nhân chuyển nhượng và tổ chức, cá
nhân nhận chuyển nhượng theo quy định22
(khoản 2 Điều 37).
Như vậy, mặc dù Luật đầu tư và các văn
bản hướng dẫn thi hành không quy định cụ thể
về hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu tư,
nhưng Bộ luật dân sự năm 2015 và pháp luật
trong một số ngành, nghề, lĩnh vực đã có
những điều khoản cụ thể quy định về hình thức
hợp đồng, nội dung hợp đồng chuyển nhượng
dự án đầu tư.
3. Một số bất cập trong quy định của
pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng dự
án đầu tư
Thứ nhất, Luật đầu tư và các văn bản
hướng dẫn thi hành không có điều khoản nào
quy định về hợp đồng chuyển nhượng dự án
đầu tư; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các
bên tham gia giao dịch chuyển nhượng dự án
đầu tư... Dự án đầu tư là tài sản có nhiều đặc
thù, phức tạp, gồm nhiều loại tài sản, quyền tài
sản khác nhau, khác với các tài sản trong giao
dịch dân sự thông thường, ảnh hưởng, tác động
đến sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước
nên việc áp dụng các quy định của Bộ luật dân
19 Khoản 5 Điều 6 Nghị định 76/2015/NĐ-CP.
20 Điều 53 Luật kinh doanh bất động sản năm 2014.
21 Khoản 2 Điều 27 Nghị định 158/2016/NĐ-CP
22 Khoản 2 Điều 37 Nghị định 158/2016/NĐ-CP
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
42
sự năm 2015 để điều chỉnh các giao dịch
chuyển nhượng dự án đầu tư là chưa thật sự
phù hợp với đối tượng, mục đích và các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá chuyển nhượng
dự án đầu tư. Trong một số văn bản quy phạm
pháp luật chuyên ngành như Luật kinh doanh
bất động sản, Luật khoáng sản có quy định
về hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu tư
nhưng chỉ phù hợp và chỉ áp dụng đối với giao
dịch chuyển nhượng dự án đầu tư trong các
lĩnh vực đó mà không thể áp dụng để điều
chỉnh cho việc chuyển nhượng dự án đầu tư
trong các ngành, nghề, lĩnh vực khác.
Thứ hai, một trong những điểm quan trọng
trong chuyển nhượng dự án đầu tư là việc
chuyển giao dự án đầu tư; quyền, nghĩa vụ,
trách nhiệm của các bên tham gia giao dịch;
việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ có liên
quan đến dự án đầu tư; thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng, thời điểm chuyển giao quyền sở
hữu Tuy nhiên, Luật đầu tư và các văn bản
hướng dẫn thi hành chưa có điều khoản nào
quy định về vấn đề này. Bộ luật dân sự năm
2015 và một số văn bản quy phạm pháp luật
chuyên ngành có quy định nhưng không phù
hợp với các giao dịch chuyển nhượng dự án
đầu tư hoặc chỉ phù hợp với giao dịch chuyển
nhượng dư án đầu tư trong ngành, nghề, lĩnh
vực đó mà không áp dụng cho các ngành, nghề,
lĩnh vực khác được.
Thứ ba, Bộ luật dân sự năm 2015 và một
số luật chuyên ngành quy định về thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng, thời điểm chuyển giao
quyền sở hữu, chuyển giao rủi ro còn nhiều bất
cập, không phù hợp với thực tiễn giao dịch
chuyển nhượng dự án đầu tư.
Bộ luật dân sự năm 2014 quy định về thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng như sau: (i)
Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực
từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật liên quan có quy định
khác; (ii) Từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực,
các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối
với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị
sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận của các
bên hoặc theo quy định của pháp luật23. Nếu
theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015
thì Hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu tư sẽ
có hiệu lực kể từ thời điểm các bên hoàn
thành việc ký kết vào văn bản của hợp đồng
hoặc tại thời điểm các bên nhận được ý kiến
bằng văn bản của nhau về việc chấp thuận,
đồng ý hợp đồng hoặc tại thời điểm mà các
bên thỏa thuận hợp đồng sẽ có hiệu lực pháp
luật như từ một ngày cụ thể hay phát sinh một
sự kiện cụ thể được xác định chẳng hạn bên
chuyển nhượng nhận được tiền đặt cọc từ bên
nhận chuyển nhượng, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác.
Luật kinh doanh bất động sản quy định thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng do các bên thỏa
thuận và ghi trong hợp đồng; trường hợp hợp
đồng có công chứng, chứng thực thì thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm công
chứng, chứng thực; trường hợp các bên không
có thỏa thuận, không có công chứng, chứng
thực thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là
thời điểm các bên ký kết hợp đồng24.
Tuy nhiên, pháp luật đất đai quy định việc
chuyển quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ
quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời
điểm đăng ký vào sổ địa chính25. Điều này có
nghĩa thời điểm hợp đồng chuyển quyền sử
dụng đất có hiệu lực cùng với thời điểm hoàn
thành việc chuyển giao quyền sử dụng đất, thời
điểm bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất hoàn thành việc đăng ký quyền sử dụng đất
vào sổ địa chính.
Với quy định của pháp luật đất đai thì thời
điểm có hiệu lực đối với các hợp đồng chuyển
nhượng dự án đầu tư mà có sử dụng đất là thời
điểm hoàn thành việc chuyển quyền sử dụng
đất, thời điểm quyền sử dụng đất của bên nhận
chuyển nhượng được đăng ký vào sổ địa chính.
Pháp luật đất đai quy định thời điểm có hiệu
lực của hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất là
23 Điều 401 Bộ luật dân sự năm 2015
24 Xem khoản 3 Điều 17 Luật kinh doanh bất động sản năm 2014
25 Điều 503 Bộ luật dân sự năm 2015 và khoản 3 Điều 188 Luật đất đai năm 2013.
Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
43
thời điểm đăng ký vào sổ địa chính là không
phù hợp, không đúng với bản chất giao dịch
trên thực tế vì sau khi hợp đồng có hiệu lực
ràng buộc thì các bên tham gia giao dịch mới
thực hiện các quyền, nghĩa vụ đã cam kết với
nhau. Tức là bên nhận chuyển nhượng sẽ thanh
toán tiền cho bên chuyển nhượng còn bên
chuyển nhượng sẽ chuyển giao quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất cùng
các giấy tờ, tài sản cho bên nhận chuyển
nhượng. Việc các bên đăng ký chuyển quyền
sử dụng đất tại cơ quan đăng ký đất đai chỉ là
thủ tục hành chính để Nhà nước theo dõi, quản
lý sự biến động của người sử dụng đất. Đặc
biệt, việc đăng ký biến động người sử dụng đất
vào sổ địa chính là trách nhiệm của cơ quan
quản lý nhà nước sau khi các bên tham gia giao
dịch đã thực hiện thành công giao dịch, nộp
đầy đủ hồ sơ theo quy định của pháp luật.
Như vậy, giữa các quy định của pháp luật
về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, thời
điểm chuyển giao quyền sở hữu tài sản, chuyển
giao quyền sử dụng đất có sự không thống
nhất. Về mặt lý luận cũng như thực tế, trong
giao dịch mua bán, chuyển nhượng tài sản,
quyền sở hữu tài sản nói chung, quyền sử dụng
đất nói riêng thì thời điểm hợp đồng mua bán,
chuyển nhượng có hiệu lực và thời điểm
chuyển giao tài sản, quyền sở hữu tài sản,
chuyển giao rủi ro không diễn ra tại cùng một
thời điểm. Khi hợp đồng có hiệu lực ràng buộc
giữa các bên với nhau thì các bên mới thực
hiện quyền và nghĩa vụ với nhau. Tức là bên
có nghĩa vụ chuyển giao tài sản, quyền tài sản
mới thực hiện việc chuyển giao tài sản, quyền
sở hữu tài sản cho bên nhận chuyển giao.
Thứ tư, pháp luật hiện nay quy định không
thống nhất về thời điểm ký kết hợp đồng
chuyển nhượng dự án đầu tư.
Theo Luật kinh doanh bất động sản thì chủ
thể chuyển nhượng và chủ thể nhận chuyển
nhượng sẽ ký hợp đồng chuyển nhượng dự án
đầu tư sau khi đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền chấp thuận đồng ý bằng văn bản.
Vì vậy, các bên tham gia giao dịch chuyển
nhượng có quyền quyết định, lựa chọn thời
điểm chuyển giao dự án đầu tư, chuyển giao
rủi ro, chuyển giao quyền, nghĩa vụ do việc
chuyển nhượng dự án đầu tư đã được các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận bằng
văn bản. Tuy nhiên, theo Luật đầu tư, Luật
khoáng sản, Luật đất đai năm 2013 thì các bên
sẽ ký hợp đồng sau đó mới tiến hành các thủ
tục thay đổi nhà đầu tư, người sử dụng đất.
Trong trường hợp này, các bên tham gia giao
dịch chuyển nhượng dự án đầu tư đã ký hợp
đồng, thống nhất thời điểm chuyển giao dự án
đầu tư nhưng có thể việc chuyển nhượng
không được các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền chấp thuận hoặc thời điểm chuyển
nhượng sẽ phải khác với thời điểm đã được các
bên thỏa thuận thống nhất trong hợp đồng.
Thứ năm, trong hợp đồng chuyển nhượng
dự án đầu tư còn có thể liên quan đến nhiều vấn
đề khác như chuyển giao hợp đồng, chuyển giao
quyền sở hữu trí tuệ (chẳng hạn như: hợp
đồng thi công, hợp đồng thiết kế, hợp đồng lao
động, hợp đồng chuyển giao công nghệ). Tuy
nhiên, pháp luật về chuyển nhượng dự án đầu
tư nói chung và pháp luật chuyên ngành về các
lĩnh vực này hiện nay vẫn chưa có các quy định
tương ứng, cụ thể, chi tiết để điều chỉnh những
vấn đề này. Pháp luật lao động hiện nay chưa có
điều khoản nào quy định về việc chuyển
nhượng, chuyển giao hợp đồng lao động.
4. Đề xuất hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng chuyển nhượng dự án đầu tư
Thứ nhất, để các giao dịch chuyển nhượng
dự án đầu tư được thực hiện an toàn, bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp cho các bên tham gia
giao dịch cũng như các bên có liên quan, pháp
luật cần phải được rà soát, chỉnh sửa một cách
tổng thể. Pháp luật cần phải có những quy định
cụ thể, rõ ràng, thống nhất, đồng bộ về hợp đồng
chuyển nhượng dự án đầu tư từ Bộ luật dân sự,
Luật đầu tư cho đến các luật trong từng ngành,
nghề lĩnh vực cụ thể. Có như vậy, pháp luật mới
bảo đảm và thúc đẩy các giao dịch chuyển
nhượng dự án đầu tư được thực hiện, qua đó mới
thu hút được các nguồn lực vào đầu tư, phát triển
kinh tế, xã hội, tạo môi trường bình đẳng giữa
các thủ thể trong hoạt động đầu tư, kinh doanh.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
44
Thứ hai, Luật đầu tư cần quy định về việc
chuyển nhượng dự án đầu tư; hình thức, nội
dung cơ bản của hợp đồng chuyển nhượng dự
án đầu tư; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của
các bên tham gia giao dịch chuyển nhượng dự
án để áp dụng cho các giao dịch chuyển
nhượng dự án đầu tư. Các luật chuyên ngành
như đất đai, kinh doanh bất động sản, khoáng
sản chỉ quy định về những nội dung của hợp
đồng mang tính đặc thù riêng biệt đối với từng
ngành, nghề, lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt, pháp
luật cần quy định cho phép các bên được tự do
thỏa thuận về nội dung hợp đồng, thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng, thời điểm chuyển giao
quyền sở hữu, chuyển giao quyền, nghĩa vụ,
chuyển giao rủi ro...
Thứ ba, Bộ luật dân sự năm 2015 và Luật
đất đai năm 2013 cần phải được sửa đổi để quy
định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
chuyển quyền sử dụng đất độc lập với thời
điểm chuyển quyền sử dụng đất. Thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng chuyển quyền sử dụng
đất là thời điểm hợp đồng được ký kết hoặc do
các bên thỏa thuận, thống nhất. Trường hợp
pháp luật yêu cầu phải công chứng, chứng thực
thì thời điểm hợp đồng có hiệu lực là thời điểm
hợp đồng được công chứng, chứng thực; còn
quyền sử dụng đất được chuyển giao kể từ thời
điểm đăng ký vào sổ đăng ký địa chính.
Thứ tư, Bộ luật dân sự năm 2015, Luật đầu
tư năm 2014 và một số văn bản quy phạm pháp
luật chuyên ngành cần có điều khoản quy định
cho phép được chuyển giao hợp đồng vì chuyển
nhượng dự án đầu tư có thể phải chuyển giao
các hợp đồng có liên quan đến dự án.
Thứ năm, Luật đầu tư cần có điều khoản
quy định hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu
tư có thể thay thế các hợp đồng chuyển nhượng
tài sản, quyền tài sản trong các lĩnh vực khác
nhau. Trong trường hợp này nhà đầu tư chỉ cần
phải ký một hợp đồng chuyển nhượng dự án
đầu tư mà không cần phải ký các hợp đồng
chuyển nhượng tài sản, quyền tài sản riêng biệt
trong cùng dự án đầu tư./.
Hiện nay, ngành Toà án đã phải chịu một áp
lực không nhỏ từ tình trạng gia tăng vụ án và tồn
đọng còn nhiều. Để khắc phục tình trạng này,
việc áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn để
giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật những
vụ án có nội dung đơn giản, rõ ràng, có giá
ngạch thấp là điều rất cần thiết và hợp lý. Việc
áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự là
một bước chuyển biến mang tính cải cách quan
trọng trong quá trình đổi mới thủ tục tố tụng dân
sự ở nước ta, một thành công trong công tác lập
pháp. Tuy nhiên, các quy định về thủ tục tố tụng
rút gọn mới chỉ được đưa vào Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 và áp dụng từ ngày có hiệu lực
(ngày 01/7/2016), các quy định hướng dẫn để áp
dụng thủ tục này còn rất ít, trong khi việc giải
quyết các vụ án xảy ra trên thực tế không phải
lúc nào cũng có thể “dễ dàng” để áp dụng thủ
tục này. Hơn nữa, vì thủ tục rút gọn là quy định
mới trong Pháp luật tố tụng dân sự, nên khi áp
dụng vào thực tiễn giải quyết vụ án chắc chắn
sẽ gặp nhiều khó khăn, chính vì lẽ đó, tâm lý
chung của không ít thẩm phán dường như vẫn
đang còn “e dè” trong việc áp dụng. Do vậy, để
mục đích tốt đẹp của quy định giải quyết các vụ
án theo thủ tục rút gọn không bị triệt tiêu trong
thực tiễn áp dụng, tác giả đề xuất trong thời gian
tới, cần tiếp tục có những hướng dẫn của Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn chi tiết hơn, đặc biệt
là các quy định về điều kiện áp dụng để thủ tục
rút gọn thực sự phát huy được vai trò, hiệu quả
trong thực tế giải quyết các vụ án dân sự./.
ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
VÀ NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN THI HÀNH
(Tiếp theo trang 27)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_luat_ve_hop_dong_chuyen_nhuong_du_an_dau_tu.pdf